Trong màn đêm vang lên một tiếng động cực nhỏ, tựa như một bức tường trong suốt bỗng nhiên vỡ tan, hóa thành một một quầng sáng nhàn nhạt.
Màn đêm dường như bị tách ra một khe hở, còn Mạn Đà La thì đứng ngay sau đó. Tương Tư nằm bất tỉnh trên bãi cỏ cạnh đó, váy áo màu đỏ tựa như một đóa ưu đàm hoa nở rộ trong làn gió đêm.
Mạn Đà La do dự nhìn nàng, cuối cùng vẫn đưa nhẹ lên trán Tương Tư. Tương Tư mở bừng hai mắt, lập tức ngồi bật dậy, nhìn ả với ánh mắt cảnh giác.
Mạn Đà La liếc nhìn nàng một cái, lắc đầu thở dài: “Ta chỉ là không thể ngờ được, đến cuối cùng lại vẫn không hoàn toàn khơi gợi được tâm ma của ngươi.”
Trác Vương Tôn lạnh lùng nói: “Sai lầm của ngươi chính là quá đắc ý, cố ý cho nàng ấy một cơ hội nhìn ánh mắt của ta.”
Mạn Đà La gượng cười: “Ta không ngờ ngươi đã nhìn thấu được điểm then chốt của Mạn Đà La trận, cũng không ngờ trong tình huống đó, ả ta chỉ trong một cái liếc mắt ngắn ngủi ấy đã hiểu rõ tâm ý của ngươi.”
Trác Vương Tôn ra hiệu cho Tương Tư bước lại, cười nhạt nói với Mạn Đà La: “Dù không hoàn toàn hiểu, thì ít nhất cũng hiểu được một phần, như thế là đủ rồi.”
Tương Tư cơ hồ vừa tỉnh khỏi cơn ác mộng, trong mắt vẫn còn đọng lại vẻ kinh hoàng. Nàng ngần ngừ giây lát, rồi đột nhiên đứng phắt dậy, lao bổ nhào vào lòng Trác Vương Tôn, nhẹ nhàng khóc nấc lên.
Bộ Tiểu Loan thừa cơ le lưỡi làm mặt quỷ, cố ý kéo dài giọng nói: “Ngoan…”
Trác Vương Tôn khẽ vỗ lên vai Tương Tư, quay sang Mạn Đà La, chừng như đang đợi ả quyết định. Mạn Đà La nhìn y chăm chú, chầm chậm nói: “Trác Vương Tôn, đích thực là trước đây ta đã coi thường ngươi.”
Trác Vương Tôn mỉm cười: “Giờ thì sao?”
Mạn Đà La hít vào một hơi thật sâu: “Giờ thì, ta có thể dẫn ngươi đi gặp chủ nhân thực sự của Mạn Đà La trận rồi.”
Trong truyền thuyết, Mạn Đà La trận này đã tồn tại từ thời viễn cổ, cứ mỗi đời lại tìm ra một chủ nhân mới trong nhân thế. Người này sẽ vận chuyển, duy trì, phát huy trận pháp hùng vĩ nhất, mạnh mẽ nhất và cũng là thần bí nhất từ ngàn xưa đến giờ.
Con người này, chắc chắn là đang sở hữu một sức mạnh không thể tưởng tượng.
Đêm đã khuya, trong núi sương giăng mù mịt. Nhưng con đường dẫn đến chủ nhân Mạn Đà La trận lại yên ắng đến dị thường. Cả những sự vật thường thấy nhất trong mấy ngày nay, lũ chim đêm bị kinh hoảng bay vυ"t lên, mãng xà đang nương mình trên cành cao, các loại quả cây rơi lộp độp giữa đêm, thậm chí cả một con sâu cái kiến cũng không thấy bóng dáng.
Dường như vạn vật đều đang lùi tránh, kính sợ đứng từ xa xa nhìn con đường thẳng đuột hoàn toàn không có gì nổi bật này. Con đường nhỏ mọc đầy cây bụi, cơ hồ đã rất nhiều năm chưa có người đặt chân lên. Hai bên cây gỗ cao chọc trời đứng san sát, gió cũng khó thổi lọt qua. Nói là hai hàng cây, chi bằng nói là hai bức tường còn chính xác hơn.
Mạn Đà La đi đầu tiên, bước chân không nhanh cũng chẳng chậm. Chừng như ả căn bản không cần dừng bước lại trong đêm tối để tìm kiếm phương hướng mà như thể đang bị một sức mạnh vô hình triệu gọi, rảo bước đi nhanh trên con dường nhỏ, cơ hồ như dài đến vô cùng vô tận kia.
Mỏi chỗ rẽ đểu gần như hoàn toàn giống hệt nhau. Thế nhưng không ai hoài nghi Mạn Đà La đang cố ý dẫn họ đi vòng vòng quanh một chỗ, bởi vì lúc này, cho dù là bản thân ả, chỉ cần đi sai một bước, cũng sẽ vĩnh viễn bị giam cầm bên trong Mạn Đà La trận này.
Không biết tự thưở nào, phương Đông đã hưng hửng sáng lên. Một màn sương màu trắng sữa mang theo hơi lạnh buổi sớm, áp tới trước mặt. Bức tường cây hai bên con đường nhỏ bỗng nhiên dừng lại, ánh ban mai xuyên qua sương mù chiếu rọi bốn phương cảnh sắc xung quanh lập tức trở nên vô cùng rộng rãi.
Ánh nắng xua tan mây mù, bọn họ mới nhận ra, không ngờ mình đã ở trên lưng chừng núi!
Vừa rồi khi lần mò đi trong màn đêm tăm tối, không một người nào nhận ra, cả một chút cảm giác từ từ đi lên cao cũng không có!
Chỉ thấy con đường vừa đi khúc khuỷu gập ghềnh, tưởng chừng như không thấy điểm kết thúc đâu cả. Nếu không phải tận mắt chứng kiến, thật không ai có thể tin được trong khu rừng rậm vô cùng vô tận này lại bỗng dưng mọc lên một ngọn núi như thế này.
Ngọn núi dù không cao lắm, nhưng chỉ cần đứng giữa biển cây mênh mông vô bờ vô tận thế này, lập tức sẽ toát lên một khí phách chiếu rọi khắp thiên hạ.
Sương mù dày đặc phía xa xa đã bị chướng khí chiếm chỗ, hiện lên những quầng sáng bảy màu rực rỡ, cơ hồ như vầng dương đã được sinh ra ở chốn đây.
Còn ngọn núi nằm giữa ngút ngàn cây cối này, thì sừng sững vươn mình lên giữa biển mây cuồn cuộn, được nhuộm lên sắc vàng chói lóa. Sương mù trong núi vấn vít, tất cả đều như có như không, tựa ảo mà cũng tựa thật. Nếu nhìn xuống chân núi, sẽ nhận ra khu rừng này nếu nhìn từ bên dưới, ắt chỉ thấy mênh mông rộng lớn, bát ngát bao la.
Nhưng khi nhìn từ trên cao xuống, tất cả dường như được thu nhỏ lại thành một bàn cờ. Bốn phần Đông Tây, Nam, Bắc của bàn cờ đều hiện lên những sai biệt rất nhỏ trong sắc xanh của rừng núi.
Tựa hồ như có một thanh kiếm khổng lồ trên Thiên Đình, đã chém hai đường tạo thành hình chữ thập, chia chốn đây thành bốn khu vực ngay ngắn. Từ Nam chí Bắc, vừa hay là bốn đất nước Vô Khải, Hi Xả, Tu Võng, Phù Du.
Lúc vào trận, bọn họ đã bị con hỏa hồ ly kia dẫn dụ mà đi một vòng quanh ngọn núi này, trải qua bốn nỗi khổ sinh, lão, bệnh, tử. Rồi cuối cùng, bị khơi lên “oán tằng hội khổ, “ái ly biệt khổ", "cầu bất đắc khổ" và "ngũ uẩn thịnh khổ" ở dưới chân núi.
Mạn Đà La đứng trong màn sương mờ mờ ảo ảo, khẽ thở dài một tiếng: “Đây chính là Mạn Đà La Sơn, then chốt của Mạn Đà La trận. Chủ trận mà các người muốn gặp, ở trong tòa cung diện trên đỉnh núi kia.”
Nhìn theo ngón tay ả, trên đỉnh núi đang tắm mình trong ánh ban mai rực rỡ, mây khói chuyển động, cảnh thật không khác gì chốn Thiên giới.
Ở đó, có một tòa cung điện nguy nga đứng sừng sững nơi đỉnh núi. Cung điện cao tới mười mấy trượng, toàn bộ đều dùng đá lớn xây nên, vầng dương lên cao, cả tòa cung điện như tắm trong vô số quầng sáng chói lọi, nhìn giống một tòa thành trên không trung.
Tòa thành này đẹp tuyệt trần, màu sắc huy hoàng rực rỡ, nó đang dập dềnh trôi nổi giữa biển mây cuồn cuộn mênh mông. Những bậc thang bằng ngọc trắng, dưới ánh mặt trời trông như một dải lụa sắc vàng chói lóa, kéo dài từ cửa cung diện tới tận chân họ. Bậc thang dốc đứng cao đến lạ thường.
Mạn Đà La ngước mắt nhìn lên tòa cung điện xa xa, trên mặt đột nhiên nở ra một nụ cười thần bí, ả chắp tay kết ấn trước ngực, khẽ khàng nhắm mắt lại, nói: “Cảm tạ ân điển của đại thần Shiva...”
Ả cầu khẩn giây lát, rồi mở mắt ra nói: “Bên trên chính là Phạn Thiên thần điện (đền thờ Brama), các người có thể tự đi lên đó được rồi.”
Tương Tư ngạc nhiên hỏi: “Các người đã là giáo đồ của Shiva, tại sao trên Mạn Đà La sơn lại xây thần điện cho Brama?”
Mạn Đà La cười lạnh một tiếng như thể cực kỳ khinh thường Tương Tư: “Sức mạnh của Shiva ở khắp nơi nơi, người có tám hóa thân khác nhau, là mặt trời, mặt trăng, nước, lửa, trời, đất, gió và tế bái, hợp nhất với cả vũ trụ này. Gọi là sức mạnh sáng tạo, bảo vệ, hủy diệt. Tam vị nhất thể cũng là thế, vì vậy Brama cũng được, Vishnu cũng được, vốn đều chỉ là những hiện thân khác nhau của đại thần Shiva mà thôi.”
Tương Tư nói: “Tại sao cô không đi tiếp với bọn ta?”
Mạn Đà La khẽ thở dài: “Ta thà ở dây đợi còn hơn.”
Tương Tư hỏi: “Đợi cái gì?”
Mạn Đà La cười cười: “Đợi các người chết ở trên đó.”
Lời vừa mới dứt, ả đã đột nhiên lùi lại một bước. Thân thế ả không biết từ lúc nào đã ở bên bờ vách đá, lùi lại một bước, cả người liên tựa như một chiếc lá đỏ rực, nhe nhàng rơi xuống biển mây cuồn cuộn phía dưới.
Trong nháy mắt đó, chiếc váy của ả đã nở tung ra như đóa hoa, tuy chỉ thoáng qua như bóng nhận chiều hôm, nhưng cũng đẹp đến mê người.
Tương Tư kinh hãi hô lên, khi chạy tới bờ vách đá, bóng Mạn Đà La đã biến mất khỏi tầm mắt. Mây trắng vẫn cuồn cuộn trôi bên dưới, một vết tích nhỏ bé cũng không để lại.
Phảng phất như Mạn Đà La không hề rơi xuống bên dưới, mà đã hoàn lẫn vào những đóa mây đang trôi nổi bập bênh kia vậy.
Tương Tư ngạc nhiên đứng bên bờ vực, sương mù dày đặc làm bóng nàng trở nên cô đơn mà ngẩn ngơ hoảng hốt. Một cảm giác thương tâm từ từ dâng lên trong lòng, càng lúc càng nồng đượm.
Không biết tự lúc nào Trác Vương Tôn đã đến sau lưng nàng chậm rãi nói: “Chúng ta đi thôi. Ả sẽ còn trở lại nữa.”