Chương 7: Jon

“Sam?” Jon gọi khẽ.

Không khí tràn ngập mùi của giấy, bụi và thời gian. Trước mặt cậu là một giá sách bằng gỗ cao quá tầm mắt, chất đầy những cuốn sách đóng bìa da và hàng thùng cuộn giấy da cổ. Một ngọn đèn leo lét phát ra từ góc nào đó trong phòng, tỏa ánh sáng yếu ớt. Jon thổi tắt ngọn nến đang mang trên tay, đề phòng lửa bén vào những trang giấy khô. Thay vào đó, cậu đi về phía ánh đèn, tiến vào lối đi hẹp bên dưới mái vòm uốn lượn. Với bộ đồ màu đen, mái tóc đen, khuôn mặt dài và đôi mắt xám, Jon như lẫn vào bóng tối. Trên tay cậu đeo đôi găng đen bằng da chuột chũi; chiếc găng bên tay phải vì vết bỏng chưa lành, còn tay trái là do nếu chỉ đeo một bên thì trông thật ngu ngốc.

Samwell Tarly đang ngồi khom người trước chiếc bàn đặt trong cái hốc hõm vào trong bức tường đá. Ánh sáng phát ra từ chiếc đèn treo phía trên đầu cậu ta. Cậu ta đứng dậy khi nghe thấy tiếng bước chân của Jon.

“Cậu đã ở đây cả đêm à?”

“Thế ư?” Sam tỏ vẻ ngạc nhiên.

“Cậu không ăn sáng cùng bọn mình, và giường ngủ của cậu không có dấu người nằm.” Rast đoán có lẽ Sam đã bỏ trốn, nhưng Jon không bao giờ tin điều đó. Đào ngũ cũng cần có sự dũng cảm nhất định, và Sam thì khó có được điều đó.

“Đã sáng rồi sao? Ở dưới này mình chẳng biết gì.”

“Sam, cậu đúng là ngốc thật,” Jon nói. “Mình cá là cậu sẽ nhớ chiếc giường đó khi chúng ta phải ngủ trên nền đất vừa lạnh vừa cứng đấy.”

Sam ngáp. “Maester Aemon muốn mình tìm bản đồ cho tướng chỉ huy. Mình không nghĩ… Jon, đống sách này, cậu đã bao giờ nhìn thấy nhiều sách như vậy chưa? Có đến hàng ngàn cuốn!”

Jon nhìn cậu ta chằm chằm. “Thư viện ở Winterfell chỉ có hơn trăm cuốn. Cậu đã tìm thấy bản đồ chưa?”

“Ồ, rồi.” Sam chỉ tay lên bàn, những ngón tay béo múp như thanh xúc xích chỉ vào những quyển sách và các cuộn giấy da trước mặt. “Ít nhất là một tá,” cậu ta mở một tấm giấy da ra. “Màu vẽ đã mờ, nhưng cậu có thể nhìn thấy nơi người vẽ bản đồ đánh dấu những ngôi làng của dân du mục, còn một quyển khác nữa… nó đâu rồi nhỉ? Tôi vừa mới đọc nó xong mà.” Cậu ta gạt mấy cuộn giấy da sang bên cạnh, để lộ một cuốn sách bụi bặm được đóng bìa da đã cũ nát. “Đây,” Sam cung kính nói, “đây là tài liệu về một chuyến đi tuần từ Tháp Đêm đến Mũi Lorn trên Biển Băng, được viết bởi một lính biệt kích tên là Redwyn. Ở đây không ghi ngày tháng, nhưng ông ấy có nhắc đến một người tên Dorren Stark là Vua Phương Bắc, vì vậy nó phải được viết trước thời kỳ Chinh Phạt. Jon, họ đã chiến đấu với những người khổng lồ! Redwyn thậm chí còn giao thương với bọn trẻ trong khu rừng, tất cả đều ghi ở đây,” cậu ta cẩn thận lật từng trang sách. “Ông ấy cũng vẽ bản đồ, nhìn xem…”

“Sam, cậu cũng có thể viết sách sau chuyến tuần tra này của chúng ta.”

Jon muốn cổ vũ Sam, nhưng có lẽ cậu đã sai khi nói ra điều đó. Điều cuối cùng Sam muốn là được nhắc nhở về những gì họ sẽ phải đối mặt vào ngày mai. Sam mân mê mấy cuốn da một cách vô thức. “Còn rất nhiều bản đồ nữa. Nếu mình có thời gian tìm kiếm… mọi thứ đang là một mớ lộn xộn. Nhưng mình có thể sắp xếp chúng theo trật tự, mình biết mình có thể, nhưng cần phải có thời gian… Thực sự là phải mất đến hàng năm trời.”

“Mormont muốn có những tấm bản đồ này sớm hơn thế một chút,” Jon rút một cuộn giấy da trong thùng, thổi lớp bụi bám trên đó đi. Một góc của nó bị mủn ra dưới ngón tay cậu khi cậu mở nó ra. “Nhìn này, cuộn giấy da đang bị rạn,” cậu nói và nhíu mày đọc dòng chữ đã nhạt màu trong đó.

“Nhẹ nhàng thôi,” Sam đi vòng quanh bàn và cầm lấy cuộn giấy da từ tay Jon, nâng niu nó như thể đó là một con thú đang bị thương vậy. “Những cuốn sách quan trọng thường được sao chép khi họ cần chúng. Vài cuốn sách cổ nhất có lẽ đã được sao chép đến mấy chục lần đấy.”

“Thôi, đừng sao chép cuốn này làm gì. Hai mươi ba thùng cá tuyết ngâm rượu; mười tám hũ dầu cá; một thùng muối…”

“Một kho hàng,” Sam nói “hoặc là một danh sách hàng bán.”

“Ai thèm quan tâm cá tuyết ngâm rượu giá bao nhiêu vào sáu trăm năm trước?” Jon tự hỏi.

“Mình quan tâm,” Sam cẩn thận đặt cuộn giấy da vào thùng, đúng chỗ Jon vừa rút nó ra. “Cậu có thể học được rất nhiều thứ từ những cuốn sổ đó, thật sự là như vậy. Nó sẽ giúp cậu biết được lúc đó Đội Tuần Đêm có bao nhiêu người, họ sống bằng cách nào, họ ăn gì…”

“Họ ăn thức ăn,” Jon nói, “và họ sống như chúng ta thôi.”

“Jon, cậu có thể sẽ thấy ngạc nhiên đấy. Nơi này đúng là một kho báu.”

“Nếu cậu nói vậy.” Jon tỏ ra nghi ngờ. Kho báu đồng nghĩa với vàng, bạc và đá quý, chứ không phải bụi, nhện và da mục.

“Mình nói vậy đấy.” Anh chàng béo thốt lên. Cậu ta lớn tuổi hơn Jon, là một người đàn ông trưởng thành theo đúng nghĩa, nhưng trong mắt mọi người cậu ta chẳng khác gì một thằng nhóc. “Mình tìm thấy những bản vẽ các khuôn mặt trên thân cây và một cuốn sách về ngôn ngữ của những đứa trẻ rừng rậm… Thứ mà ngay cả ở Citadel cũng không có, những cuộn giấy da từ thời người Valyria cổ, cách tính mùa trong năm được viết bởi các học giả từ hàng ngàn năm trước.”

“Đống sách này vẫn còn ở đây khi chúng ta trở về kia mà.”

“Nếu chúng ta trở về được…”

“Gấu Già đã tuyển chọn hai trăm người dày dạn kinh nghiệm, hơn một nửa trong số họ là lính biệt kích. Chưa kể Qhorin Cụt Tay sẽ đem thêm một trăm người anh em khác từ Tháp Đêm nữa. Cậu sẽ an toàn như khi còn ở lâu đài của cha cậu ở Đồi Horn.”

Samwell Tarly cười buồn. “Mình cũng chưa bao giờ an toàn trong lâu đài của cha mình.”

Các vị thần thường chơi những trò đùa thật độc ác, Jon nghĩ. Pyp và Toad rất muốn được tham gia vào cuộc tuần tra lớn lần này thì lại phải ở lại Hắc Thành, trong khi Samwell Tarly, anh chàng tự nhận mình nhút nhát, béo tròn, hay sợ hãi, cưỡi ngựa cũng tồi tệ như đánh kiếm, thì lại phải đối mặt với khu rừng ma ám. Gấu Già mang theo hai con quạ để trên đường họ có thể gửi tin về. Maester Aemon thì mù lòa và sức khỏe quá yếu để cưỡi ngựa cùng họ, vì vậy người phục vụ của ông phải đi thay thế. “Sam, chúng tôi cần cậu chăm sóc những con quạ. Và ai đó phải giúp tôi giữ cho Grenn biết khiêm tốn một chút.”

“Cậu cũng có thể tự mình chăm sóc mấy con quạ, hoặc là Grenn, hoặc bất cứ ai.” Giọng cậu ta có chút gì đó tuyệt vọng. “Mình sẽ chỉ cho cậu cách làm. Cậu cũng biết viết chữ, và cậu cũng có thể giúp Lãnh chúa Mormont viết thư chẳng khác gì mình.”

“Mình là quản gia của Gấu Già và phải theo sát ông ấy, chăm sóc ngựa và dựng lều cho ông ấy. Vì thế mình sẽ không có thời gian lo cho bọn quạ đâu. Sam, cậu đã tuyên thệ rồi. Giờ cậu là một người anh em trong Đội Tuần Đêm.”

“Người của Đội Tuần Đêm không sợ hãi như mình.”

“Tất cả chúng ta đều sợ. Chỉ có những kẻ ngốc mới không sợ.” Có quá nhiều lính biệt kích mất tích trong hai năm qua, ngay cả Benjen Stark, chú của Jon. Họ đã tìm thấy hai người trong đội của ông trong rừng, bị gϊếŧ một cách dã man nhưng sau đó lại biến thành xác sống đi lại trong màn đêm lạnh lẽo. Nhớ lại việc này, Jon cảm giác những ngón tay bị bỏng của mình khẽ co giật. Cậu vẫn mơ thấy chúng hàng đêm, thấy xác của Othor với đôi mắt xanh rực lửa và đôi tay đen đúa lạnh ngắt, nhưng Sam không cần thiết phải nghe điều đó. “Cha mình nói sợ hãi chẳng có gì đáng xấu hổ, quan trọng là chúng ta đối mặt với nó như thế nào. Đi thôi, mình sẽ giúp cậu cầm mấy tấm bản đồ này.”

Sam gật đầu ủ rũ. Khoảng cách giữa các giá sách quá hẹp, vì vậy họ phải lần lượt đi ra. Mái vòm trên đầu họ thông với một trong những đường hầm mà mọi người gọi là lối đi của sâu – hệ thống đường hầm uốn lượn ngầm nối giữa các pháo đài và các tòa tháp của Hắc Thành. Vào mùa hè, lối đi của sâu hiếm khi được sử dụng, chúng chỉ dành cho chuột và các loại sâu bọ, côn trùng, nhưng vào mùa đông thì khác. Khi tuyết dày đến mười lăm mét và gió lạnh buốt từ phương Bắc ùa về thì những đường hầm này là cách duy nhất kết nối các phần của Hắc Thành với nhau.

Sẽ sớm tới mùa đông thôi, Jon nghĩ khi bọn họ trèo lên. Cậu đã nhìn thấy sứ giả chuyển lời tới Maester Aemon rằng mùa hè kết thúc, con quạ lớn đến từ Citadel, trắng toát và lặng lẽ như Bóng Ma vậy. Cậu đã từng nhìn thấy mùa đông khi còn rất nhỏ, nhưng mọi người nói đó chỉ là một mùa đông ngắn và không khắc nghiệt. Mùa đông năm nay thì khác. Cậu có thể cảm nhận điều đó từ tận xương tủy.

Những bậc đá dốc đứng khiến Sam thở phì phò như kéo bễ khi lên tới mặt đất. Một làn gió trong lành đón lấy họ khiến áo choàng của Jon bay phấp phới. Bóng Ma đang nằm dài dưới bức tường phên liếp của kho thóc, nhưng nó thức dậy ngay khi Jon xuất hiện, chiếc đuôi trắng lông xù dựng đứng lên khi nó chạy tới chỗ bọn họ.

Sam nheo mắt nhìn lên Tường Thành. Nó sừng sững trước mặt họ, một vách băng dựng đứng cao hơn hai trăm mét. Đôi khi Jon cảm giác đó là một sinh vật sống đầy đủ những trạng thái cảm xúc. Màu của lớp băng thay đổi theo ánh sáng. Lúc thì có màu xanh thẳm của dòng sông bị đóng băng, lúc lại là màu trắng ngà của lớp tuyết cũ, và khi mây che ánh nắng mặt trời, nó tối lại thành màu xám nhạt của đá rỗ hoa. Tường Thành trải dài về hai phía đông tây đến hút tầm mắt, khổng lồ đến mức nó khiến cho những pháo đài gỗ và tháp đá của lâu đài trở nên vô cùng nhỏ bé. Nó chính là điểm tận cùng của thế giới.

Và giờ chúng ta phải vượt qua bên kia Tường Thành.

Bầu trời ban mai điểm những vệt mây xám nhỏ, nhưng một vạch màu đỏ vẫn lờ mờ hiện ra ở phía sau. Các anh em áo đen đã gọi nó là Ngọn Đuốc Của Mormont, và nói nửa đùa nửa thật rằng các vị thần hẳn đã gửi nó đến để soi đường cho ông già băng qua rừng ma.

“Ngôi sao chổi sáng đến mức cậu có thể nhìn thấy nó ngay cả vào ban ngày,” Sam nói và che mắt bằng một cuốn sách.

“Đừng lo về sao chổi, Gấu Già muốn có những tấm bản đồ kìa.”

Bóng Ma phóng lên trước dẫn đường. Sáng nay bãi đất có phần vắng vẻ, vì rất nhiều lính biệt kích đã tới nhà thổ ở thị trấn Mole để vui vẻ và uống đến say mèm. Grenn cũng đi với bọn họ. Pyp, Halder và Toad đã đề nghị bỏ tiền cho Grenn lần đầu tiên được qua đêm với đàn bà, để chúc mừng nhiệm vụ đầu tiên của hắn. Họ cũng rủ Jon và Sam đi cùng, nhưng Sam sợ gái điếm chẳng kém gì rừng ma, còn Jon thì chẳng thiết tha gì. “Hãy làm những gì cậu muốn,” Jon nói với Toad, “còn mình sẽ giữ lời thề.”

Khi họ đi qua Đại Điện, Jon nghe thấy có tiếng hát. Đêm trước khi ra chiến trường, một số người tìm đến gái điếm, những người khác tìm đến các vị thần. Jon tự hỏi không biết cuối cùng ai sẽ cảm thấy dễ chịu hơn. Đại Điện đối với cậu cũng không hấp dẫn hơn nhà thổ, các vị thần của cậu ở những ngôi miếu trong khu rừng của dân du mục, nơi cây đước vươn ra những cành cây trắng như xương. Thất Diện Thần không có quyền lực gì bên ngoài Tường Thành, Jon nghĩ, nhưng các vị thần của ta đang chờ đợi.

Bên ngoài kho binh khí, Ser Endrew Tarth đang thao luyện với vài tân binh. Họ mới đến tối qua cùng với Conwy, một trong những người tuyển chọn lang thang khắp Bảy Phụ Quốc để thu nạp người tới Tường Thành. Nhóm mới này gồm một cụ già lom khom chống gậy với chòm râu muối tiêu, hai cậu bé tóc vàng trông giống hai anh em, một gã thanh niên có vẻ thích chưng diện trong bộ quần áo sa tanh bẩn thỉu, một người đàn ông rách rưới với một bên chân giả, và một tên du đãng có vẻ rất thích được làm chiến binh. Ser Endrew đang chỉ cho hắn thấy suy nghĩ đó của hắn sai lầm như thế nào. Ông ấy ôn hòa hơn Ser Alliser Thorne, nhưng những bài tập của ông vẫn khiến đám học trò thâm tím mình mẩy. Sam nhăn mặt trước mỗi cú ra đòn, nhưng Jon Snow thì tiến lại gần quan sát cuộc đấu kiếm.

“Snow, cậu thấy họ thế nào?” Donal Noye đứng trước cửa kho vũ khí, chiếc tạp dề bằng da thuộc che đi khuôn ngực để trần, phần còn lại của cánh tay trái thò ra ngoài. Với cái bụng phệ và khuôn ngực lớn, chiếc mũi tẹt và quai hàm râu ria lởm chởm, Noye trông không đẹp mã, tuy nhiên ông cũng là người dễ gần. Những người thợ rèn vũ khí đã chứng minh ông là một người bạn tốt.

“Họ có mùi của mùa hè,” Jon nói khi Ser Endrew lao vào đối thủ và hạ gục hắn. “Conwy tìm thấy họ ở đâu vậy?”

“Ở nhà ngục gần Gulltown,” người thợ rèn trả lời. “Một tên cướp, một thợ cắt tóc, một gã ăn xin, hai đứa trẻ mồ côi và một thằng điếm đực. Chúng ta đang dựa vào những người này để bảo vệ vương quốc.”

“Họ sẽ làm được điều đó,” Jon bí mật cười với Sam. “như chúng ta đã từng làm.”

Noye tiến đến chỗ Jon. “Cậu đã nghe chuyện về anh trai chưa?”

“Tối qua.” Conwy và đám tân binh đã mang đến những tin tức từ phía nam, và tối qua hầu như mọi người chỉ bàn tán về chuyện này trong căn phòng chung. Jon vẫn không rõ cậu có cảm giác như thế nào khi nghe tin đó. Robb đã xưng vương? Người anh trai mà cậu đã cùng chơi, cùng đánh nhau, cùng chia sẻ cốc rượu đầu tiên? Nhưng không cùng một bầu sữa mẹ. Không. Thế nên lúc này Robb đang uống rượu mùa hè trong chiếc ly nạm đá quý, còn ta thì quỳ bên một dòng suối nào đó và vốc tay uống những giọt nước tan chảy từ tuyết. “Robb sẽ là một vị vua tốt,” cậu nói với vẻ trung thành.

“Thật sao?” người thợ rèn nhìn anh dò xét. “Ta cũng mong như vậy, cậu bé, như trước đây ta đã từng nói thế về Robert.”

“Nghe nói ông chính là người đã rèn chiếc rìu chiến đó.” Jon nhớ lại.

“Đúng vậy. Ta là người của ông ấy, người của Baratheon, thợ rèn và sỹ quan phụ trách vũ khí ở Storm’s End cho đến khi ta mất một cánh tay. Ta còn nhớ rõ về Lãnh chúa Steffon trước khi ông ấy bị biển cuốn đi, và ta biết ba đứa con của ông ấy từ khi chúng mới lọt lòng. Ta sẽ nói với cậu chuyện này – Robert đã thay đổi hoàn toàn kể từ khi đội lên đầu cái vương miện đó. Một số người giống như những thanh kiếm vậy, họ sinh ra để chiến đấu. Nếu để họ nghỉ ngơi, họ sẽ rỉ sét.”

“Vậy những người em của ông ấy thì sao?” Jon hỏi.

Người thợ rèn vũ khí trầm ngâm giây lát. “Robert là thép thật. Stannis là sắt nguyên chất, đen, cứng, và mạnh mẽ, nhưng dễ gãy đúng như đặc tính của sắt. Anh ta thà bị gãy chứ không chấp nhận bị uốn cong. Và Renly, cậu ta giống như đồng, tỏa sáng và nổi trội, nhìn rất đẹp nhưng rốt cuộc lại chẳng có mấy giá trị.”

Vậy Robb giống kim loại gì? Jon không hỏi. Noye là người nhà Baratheon, nhiều khả năng ông ta nghĩ Joffrey là vua hợp pháp trong khi Robb là kẻ phản đồ. Giữa các anh em của Đội Tuần Đêm có một quy tắc bất thành văn, đó là không thảo luận quá sâu vào những vấn đề như thế này. Mọi người từ khắp nơi trong Bảy Phụ Quốc đến với Tường Thành, và dù người ta có đọc bao nhiêu lời thề đi nữa thì tình yêu hay lòng trung thành trước đây cũng không dễ dàng quên được… chính Jon cũng có lý do để tin điều đó. Ngay cả Sam – gia tộc của cha cậu ta đã thề trung thành với Highgarden, nơi Lãnh chúa Tyrell ủng hộ Vua Renly. Vậy thì tốt nhất không nên nói về những chuyện thế này. Đội Tuần Đêm không theo phe phái nào cả.

“Lãnh chúa Mormont đang đợi chúng tôi,” Jon nói.

“Ta sẽ không để Gấu Già đợi lâu nữa,” Noye vỗ vai cậu và mỉm cười. “Snow, ngày mai nhất định các vị thần sẽ ủng hộ các cậu. Cậu nhất định sẽ đưa được chú mình về, nghe chưa?”

“Nhất định rồi.” Jon hứa.

***

Sau khi bị đám cháy rút hết sức lực, tướng chỉ huy Mormont quyết định sống trong Tháp Vua. Jon để Bóng Ma ngoài cửa với các lính canh. “Lại những bậc thang,” Sam có vẻ khổ sở khi họ bước lên. “Mình ghét cầu thang.”

“À, đó là thứ chúng ta sẽ không phải đối mặt khi ở trong khu rừng.”

Khi họ vừa bước vào phòng, con quạ phát hiện ra ngay lập tức. “Snow!” con chim kêu lên. Mormont tạm ngừng cuộc trò chuyện và nói với bọn họ: “Các cậu mất quá nhiều thời gian với những tấm bản đồ đó đấy!” Ông gạt bữa sáng dang dở sang một bên để lấy chỗ trống trên bàn. “Đặt chúng ở đây. Ta sẽ xem xét chúng sau.”

Thoren Smallwood, một lính biệt kích thân hình vạm vỡ với chiếc cằm nhỏ và cái miệng bé xíu ẩn dưới bộ râu xồm xoàm, đang lạnh lùng nhìn Jon và Sam. Hắn từng là một trong những người hầu cận của Alliser Thorn và vốn không có thiện cảm với cả hai người. “Chỗ của tướng chỉ huy là ở Hắc Thành, giữ trọng trách chỉ huy và ra lệnh,” hắn nói với Mormont, không thèm để ý tới những người mới đến, “tôi nghĩ vậy.” Con quạ vẫy đôi cánh to đen. “Tôi, tôi, tôi.”

“Nếu cậu làm tướng chỉ huy, cậu có thể làm những gì mình muốn,” Mormont nói. “nhưng có vẻ như ta vẫn chưa chết, và các anh em cũng không đề cử cậu ngồi lên vị trí của ta.”

“Tôi giờ là đội trưởng Đội Biệt Kích, vì Ben Stark đã mất tích và Ser Jaremy không còn nữa,” Smallwood ngoan cố nói. “Quyền chỉ huy phải thuộc về tôi.”

Mormont không đồng ý. “Ta đã phái Ben Stark đi, và trước đó là Ser Waymar. Ta không muốn lại cử cậu đi nữa để rồi không biết sẽ phải đợi bao lâu trước khi liệt cậu vào danh sách mất tích. Và Stark vẫn là đội trưởng Đội Biệt Kích cho đến khi chúng ta biết chắc chắn ông ấy đã chết. Mà cho dù ông ta chết thật thì ta mới có quyền chỉ định người kế nhiệm cậu ấy, chứ không phải cậu. Giờ thì đừng làm mất thời gian của ta nữa. Chúng ta sẽ khởi hành ngay khi trời sáng, cậu quên rồi sao?”

Smallwood buộc phải đứng lên. “Vâng, thưa tướng chỉ huy.” Khi ra đến cửa, hắn nhíu mày nhìn Jon như thể đó là lỗi của cậu vậy.

“Đội trưởng Đội Biệt Kích,” mắt Gấu Già sáng lên khi nhìn Sam. “Ta thà phong cậu làm đội trưởng còn hơn. Hắn dám mặt dày đến nói với ta rằng ta quá già để có thể cưỡi ngựa cùng hắn. Nhóc, theo cậu ta có già không?” Mớ tóc không chịu mọc trên đỉnh đầu Mormont mà tụ lại ở dưới cằm ông ta, tạo thành một đám râu muối tiêu rậm rạp che gần hết ngực. Ông vỗ ngực thùm thụp, “Ta trông yếu đuối vậy sao?”

Sam mở miệng, định nói câu gì đó nhưng Gấu Già làm cậu ta sợ. “Không đâu, thưa ngài,” Jon nhanh chóng thêm vào. “Ngài trông mạnh mẽ như một…”

“Đừng có lừa ta, Snow, cháu biết rõ là ta không được như vậy. Để ta xem mấy tấm bản đồ đã nào.” Mormont lật giở các tấm bản đồ một cách thô lỗ, chỉ liếc mắt qua và lẩm bẩm. “Đây là tất cả những gì các cậu tìm thấy sao?’.

“Cháu… thưa n...n…ngài” Sam lắp bắp, “còn…còn nhiều lắm, nh…ưng…chúng rất lộn xộn…”

“Những bản này cũ rồi,” Mormont phàn nàn trong khi con quạ the thé lặp lại lời ông. “Cũ, cũ.”

“Những ngôi làng có thể tồn tại và biến mất, nhưng đồi núi và sống suối thì vẫn ở đó.” Jon nói.

“Đúng. Cậu đã chọn được quạ chưa, Tarly?”

“M…Maester Armon định…định đêm nay sẽ chọn, sau khi cho chúng…chúng ăn.”

“Ta muốn những con chim tốt nhất. Thông minh và khỏe mạnh.”

“Khỏe mạnh,” con quạ lặp lại lời ông. “khỏe mạnh, khỏe mạnh.”

“Nếu có chuyện bất hạnh xảy ra với chúng ta ngoài kia, ta muốn người kế nhiệm ta phải biết chuyện xảy ra ở đâu và chúng ta đã chết như thế nào.”

Câu chuyện về chết chóc khiến Samwell Tarly càng thêm cứng họng. Mormont rướn người lên phía trước, “Tarly, khi ta nhỏ bằng một nửa cậu bây giờ, mẹ ta nói nếu ta đứng há mồm ra như thế, con chồn sẽ tưởng miệng ta là ổ của nó rồi nhảy vào và chui xuống họng ta. Cậu có gì muốn nói thì nói đi. Nếu không hãy cẩn thận với mấy con chồn đấy.” Ông phẩy tay ra hiệu cho cậu ta lui. “Cậu đi ra đi. Ta không có thời gian cho những kẻ ngốc. Chắc chắn Maester đang có việc cho cậu làm đấy.”

Sam nuốt nước bọt, lùi lại và vội vàng rời đi, suýt chút nữa thì vấp ngã.

“Thằng nhóc đó có ngốc như vẻ bề ngoài không vậy?” Tướng chỉ huy hỏi khi Sam đã đi khỏi. “Ngốc,” con quạ nhại theo. Mormont không đợi Jon trả lời. “Cha nó có vị trí cao trong hội đồng của Vua Renly và ta định phái hắn đi…. thôi, tốt nhất là thôi. Renly sẽ không để mắt tới một thằng béo run rẩy sợ hãi đâu. Ta sẽ phái Ser Arnell. Anh ta rất bình tĩnh, và mẹ anh ta thuộc Nhà Fossoway Táo Xanh.”

“Thưa ngài, cho phép cháu hỏi, ngài muốn xin gì ở vua Renly?”

“Bất cứ thứ gì họ có thể cho ta: binh lính, ngựa, kiếm, áo giáp, ngũ cốc, pho mát, rượu, da, sừng… Đội Tuần Đêm cũng chẳng tự hào gì khi chúng ta nhận tất cả những gì người khác đưa cho.” Ông nhịp nhịp ngón tay lên mặt bàn thô ráp. “Nếu hướng gió thuận lợi, Ser Alliser sẽ đến Vương Đô trong vòng một tháng, nhưng chưa chắc thằng nhóc Joffrey đã cho ông ta những gì chúng ta yêu cầu. Nhà Lannister chưa bao giờ là bạn của Đội Tuần Đêm.”

“Thorne có bàn tay của bọn Ngoại Nhân để trình cho họ,” Đó là một thứ trắng ởn ghê tởm với những ngón tay đen xì, được ngâm trong bình nhưng vẫn co giật như thể còn

đang sống.

“Ước gì chúng ta có một bàn tay khác để gửi cho Renly.”

“Dywen nói ngài có thể tìm thấy bất cứ thứ gì bên ngoài Tường Thành.”

“À, đó là Dywen nói. Và lần cuối cùng hắn tham gia đội tuần tra, hắn nói đã nhìn thấy một con gấu cao gần năm mét,” Mormont khịt mũi. “Người ta còn đồn rằng em gái ta yêu một con gấu nữa kìa. Ta thà tin điều đó còn hơn tin đồn có con gấu cao gần năm mét. Mặc dù trong một thế giới mà người chết rồi vẫn có thể tung tăng đi lại… À, dù thế thì chúng ta vẫn chỉ nên tin vào những gì mắt thấy mà thôi. Ta đã thấy xác chết biết đi, nhưng chưa thấy con gấu khổng lồ nào.” Ông nhìn Jon dò xét một hồi lâu. “Nhưng chúng ta đang nói chuyện về bàn tay. Tay cháu đỡ chưa?”

“Khá hơn rồi.” Jon rút chiếc găng tay da chuột chũi ra cho ông xem. Những vết sẹo chi chít từ bàn tay tới khuỷu, những lằn thịt màu hồng vẫn còn căng và đau nhức, nhưng chúng đang lành lại. “Nó rất ngứa nhưng Maester Aemon nói như vậy là tốt. Ông ấy đưa cháu một lọ thuốc mỡ mang theo khi chúng ta lên đường.”

“Cháu có thể cầm thanh Móng Dài khi bị thương thế này không?”

“Cầm tốt ạ,” Jon cử động các ngón tay, mở bàn tay ra rồi nắm lại theo cách vị Maester hướng dẫn. “Cháu vẫn tập tay mỗi ngày để giữ chúng nhanh nhẹn, như Maester Aemon dặn.”

“Tuy mù nhưng Aemon biết mình đang làm gì. Ta cầu các vị thần phù hộ cho ông ấy sống thêm hai mươi năm nữa. Cháu có biết ông ấy đã có thể trở thành vua không?”

Jon vô cùng ngạc nhiên. “Ông ấy đã từng kể với cháu cha ông ấy là vua, nhưng ông ấy thì không… cháu nghĩ có lẽ ông ấy là con trai thứ.”

“Đúng vậy. Ông nội của Maester Aemon là Daeron Targaryen đời thứ hai, người đã sáp nhập Dorne vào vương quốc. Một phần của hiệp ước là ông ấy phải cưới công chúa Dornish, và bà ấy sinh cho ông bốn cậu con trai. Cha của Aemon là Maekar, con út, còn Aemon là con thứ ba của Maekar. Nhưng tất cả những chuyện này xảy ra từ rất lâu trước khi ta sinh ra, chuyện cổ ngày xửa ngày xưa như Smallwood thường nói về ta ấy.”

“Maester Aemon được đặt tên theo Hiệp Sĩ Rồng.”

“Đúng vậy. Một số người nói hoàng tử Aemon – Hiệp Sĩ Rồng – chính là cha ruột của vua Daeron, chứ không phải là Aegon Vô Dụng. Dù vậy, Aemon của chúng ta vẫn thiếu những phẩm chất của Hiệp Sĩ Rồng. Aemon thích nói rằng có thể ông ta không giỏi đao kiếm, nhưng ông có cái đầu thông minh nhanh nhẹn. Chính vì thế ông được ông nội cho đi học ở Citadel. Lúc đó ông ta mới lên 9 hay 10 tuổi gì đó… và cũng đứng ở tầm vị trí đấy trong thứ tự thừa kế.”

Jon biết rõ Maester Aemon đã hơn 100 tuổi, gầy yếu, quắt queo và mù lòa. Khó có thể tưởng tượng hồi bằng tuổi Arya trông ông ấy như thế nào.

Mormont tiếp tục. “Aemon còn đang vùi đầu vào sách vở thì người bác trong hoàng tộc của ông ấy, người thừa kế vương vị hợp pháp, bị chết trong một cuộc đấu thương ngựa. Ông ta để lại hai con trai, nhưng không lâu sau chúng cũng qua đời trong Đại Dịch Mùa Xuân. Vua Daeron cũng nhiễm bệnh qua đời, vì vậy ngôi báu được truyền cho đứa con thứ hai của Daeron là Aerys.”

“Vị Vua Điên?” Jon không thể tin nổi. Aerys từng là vua trước Robert, mới trị vì cách đây không lâu.

“Không, đây là Aerys Đệ Nhất. Vua Điên trước Robert là Đệ Nhị.”

“Hồi đó cách đây bao lâu?”

“Khoảng tám mươi năm,” Gấu Già nói, “và khi đó ta vẫn chưa sinh ra, dù Aemon lúc đó đã rèn được sáu mắt xích trong chuỗi sợi xích trên cổ rồi. Aerys kết hôn với chính em gái mình như truyền thống Nhà Targaryen, và trị vì khoảng mười hay mười hai năm. Aemon tuyên thệ trở thành học sĩ và rời Citadel để tư vấn cho một lãnh chúa nào đó… cho đến khi nhà vua đột ngột qua đời. Ngai Sắt được truyền lại cho người con út của Vua Daeron, là Maekar, cha của Aemon.”

Vị vua mới triệu tập tất cả các con trai về triều và đề nghị Aemon gia nhập hội đồng. Nhưng ông ấy từ chối, nói rằng như vậy là tiếm quyền của Grand Maester đương nhiệm. Thay vào đó ông ấy làm việc cho người anh trai cả, cũng tên là Daeron. Rồi ông anh cả cũng qua đời, để lại đứa con gái duy nhất là người thừa kế. Ông ta bị nhiễm bệnh đậu mùa từ một ả gái điếm, ta nghĩ vậy. Người anh kế là Aerion.”

“Aerion Quái Dị?” Jon biết cái tên đó. “Vị hoàng tử luôn nghĩ mình là một con rồng”, đó là một trong những câu chuyện kinh dị mà Già Nan thường kể. Nhóc Bran rất thích câu chuyện này.

“Đúng là ông ta, nhưng ông ta tự phong là Aerion Lửa Sáng. Một đêm trong khi say, ông ta uống cạn một bình chất cháy sau khi ba hoa với bạn bè rằng nó sẽ giúp ông biến thành một con rồng, và các vị thần tốt bụng đã biến ông ta thành một tử thi. Chưa đầy một năm sau, Vua Maekar tử trận trong cuộc chiến với tên lãnh chúa tạo phản.”

Jon không đến nỗi mù tịt về lịch sử vương quốc. Maester của anh trước đây cũng đã giảng đoạn này. “Đó là năm của Đại Hội Đồng,” Jon nói “Các lãnh chúa bỏ qua đứa con trai mới lọt lòng của hoàng tử Aerion và con gái của hoàng tử Daeron, sau đó quyết định trao vương miện cho Aegon.”

“Đúng, mà cũng không đúng. Đầu tiên họ bí mật trao vương miện cho Aemon, nhưng ông ấy lặng lẽ từ chối. Ông ấy nói các vị thần muốn ông ấy phục vụ, chứ không phải cai trị. Ông ấy đã thề lời thề của Maester và sẽ không phá vỡ nó, mặc dù Tu Sĩ Tối Cao đồng ý giúp ông xóa bỏ lời thề. Tất nhiên chẳng có người bình thường nào muốn đưa giọt máu của Aerion lên ngôi vua, và con gái của Daeron thì là một cô bé tối dạ, vì vậy họ không còn lựa chọn nào khác ngoài việc trao vương miện cho em trai của Aemon là Aegon Đệ Ngũ. Aegon – vị vua Không Mong Đợi, họ gọi ông ấy thế bởi ông chỉ là con thứ tư của người con thứ tư mà lại được lên ngôi. Aemon biết rõ hơn ai hết rằng nếu ông ấy còn ở lại triều thì những người ganh ghét em trai ông sẽ tìm cách lợi dụng ông, vì vậy ông ấy tự nguyện tới Tường Thành. Và ở lại đây đến bây giờ, trong khi em trai, rồi cháu trai và con của cháu trai lần lượt trị vì và qua đời, cho đến khi Jaime Lannister đặt dấu chấm hết cho thời đại của vua rồng.”

“Vua.” con quạ kêu quác quác. Nó bay ngang qua căn phòng và đậu xuống vai Mormont. “Vua,” nó lặp đi lặp lại, đầu gật gù lia lịa.

“Nó thích từ đó,” Jon nói và mỉm cười.

“Một từ dễ nói, và dễ thích.”

‘Vua,” con chim lại kêu lên.

“Cháu nghĩ con quạ muốn ngài có một chiếc vương miện đấy, thưa ngài.”

“Vương quốc hiện đã có ba vị vua, vậy là quá nhiều rồi.” Mormont dùng ngón tay vuốt ve dưới cổ con quạ, nhưng ánh mắt vẫn không rời Jon Snow.

Điều đó khiến cậu cảm thấy kỳ lạ. “Thưa ngài, tại sao ngài lại kể những chuyện này cho cháu, về Maester Aemon?”

“Ta phải có lý do sao?” Tướng Mormont khẽ cựa mình và nhíu mày. “Anh trai cậu, Robb, đã xưng Vua Phương Bắc. Cậu và Aemon giờ có một điểm chung, đó là đều có anh em trai làm vua.”

“Còn một điểm nữa,” Jon nói, “lời tuyên thệ.”

Gấu Già khịt mũi, và con quạ bay đi, lượn một vòng quanh căn phòng. “Nếu ai tuyên thệ cũng ở lại Tường Thành thì nơi đây đã không bao giờ thiếu lính phòng thủ.”

“Cháu đã luôn biết rằng Robb sẽ trở thành lãnh chúa của Winterfell.”

Mormont huýt sáo và con chim lại bay về đậu trên vai ông. “Lãnh chúa là một chuyện, nhưng làm vua lại là chuyện khác.” Ông lấy một nắm hạt ngô trong túi cho con quạ. “Bọn họ sẽ cống nộp cho Robb lụa là gấm vóc, với hàng trăm màu sắc khác nhau, trong khi cháu sống chết trong bộ giáp màu đen duy nhất. Anh cháu sẽ cưới một cô công chúa xinh đẹp và cùng cô ta sinh những đứa con trai. Cháu không thể kết hôn, càng không nên nghĩ đến chuyện được bế giọt máu của mình trên tay. Robb thống trị, còn cháu sẽ phục vụ. Người đời sẽ gọi cháu là quạ đen, gọi anh cháu là bệ hạ. Họ viết những bài hát ca ngợi tất cả những gì anh cháu làm, trong khi chẳng ai biết đến những chiến công lớn nhất của cháu. Jon, cháu có thể nói tất cả những điều đó đối với cháu chẳng là gì không… Ta sẽ nói cháu là đồ dối trá, vì ta biết sự thật.”

Jon đứng thẳng người dậy. “Nếu chuyện này thực sự khiến cháu khó chịu, thì cháu có thể làm được gì? Một thằng con hoang như cháu?”

“Cháu sẽ làm gì ư?” Mormont hỏi. “Thằng con hoang như cháu ư?”

“Tiếp tục cảm thấy khó chịu,” Jon nói, “và giữ vững lời tuyên thệ.”