Sau khi nương và ta bị đuổi về thôn trang 6 năm, nương ta bệnh mất được 3 năm, cha cuối cùng cũng đến đón ta về nhà.
Khi Thôi ma ma cùng với đại phu nhân đến phòng chứa củi gặp ta, ta đã bị nhốt 2 ngày trời rồi, một giọt nước cũng chẳng được uống, chỉ có thể nằm thoi thóp trên tấm cỏ khô.
Cha ta và đại phu nhân nhìn khung cảnh hỗn loạn bẩn thỉu của phòng chứa củi mà thụt lùi về sau 2 bước.
Cha ta mặt mũi sầm sì, mặt đầy hận thù nói: “Súc sinh, nghe nói ngươi vừa mới đến điền trang đã ra tay đánh người. Độc ác bướng bỉnh như vậy là do tiểu nương ngươi dạy dỗ à?”
Cha ta, Lục Vọng, là Hộ bộ thị lang đương triều, lấy nương ta là do hứa hôn từ trước.
Lúc nhỏ ông ấy nghèo khó, nhờ có ông ngoại ta hỗ trợ mới có thể học thành tài. Cha ta biết phấn đấu, 16 tuổi đỗ Cử Nhân, rồi cùng năm đó trở thành Tiến Sĩ.
Tuy chỉ là bảng 2, nhưng cha ta tướng mạo thanh tú, lọt vào mắt xanh con gái quan chủ khảo Hộ bộ thượng thư họ Thôi, nên được về làm rể.
Nhà họ Thôi không để ý chuyện cha ta đã có hôn ước, quyết chí gả con gái cho. Cha ta ỡm ờ đưa đẩy, rồi cuối cùng cũng nhận lời.
Khi nhà họ Thôi tìm ra nương ta, ném một thỏi bạc nói: “Nhà người xuất thân buôn bán hèn mọn, thấy tiền liền sáng mắt, thân phận đã thấp kém rồi đừng quấn lấy thêm phiền.”
Một câu này thôi đã khiến nương ta và ông ngoại biến thành trò cười.
Sau này ông ngoại và nương ta cũng có ý từ hôn, nhưng lại bị cha ta nghiêm túctừ chối. Chỉ vì ông ta sợ mang tiếng xấu bội bạc, vong ân phụ nghĩa. Thậm chí ông ta còn đem sự trong sạch của nương ra uy hϊếp, nương đành phải phục tùng theo.
Sau này cha ta lấy cớ xuất thân con buôn của nương thấp kém nên nạp bà làm thϊếp, cũng xem như trọn vẹn lời hứa hôn ước ban đầu. Chỉ là nương đang từ chính thất lại biến thành thϊếp thất.
Nương ta vốn là người hiền hoà nhu thuận, không biết tranh giành đấu đá. Sau khi qua cửa liền bị Thôi thị làm khó đủ điều, bà chỉ đành sống nhẫn nhịn, cẩn thận mọi điều.
Nhưng tiếc là càng nhường, đại phu nhân càng trở nên lợi hại.
Đến tận khi hai mẹ con chúng ta bị đuổi đến thôn trang hoang vắng này chờ chế_t, nếu không nhờ nương bớt lại chút thức ăn vốn đã ít ỏi của bà lại cho ta, chỉ sợ giờ đã là hai linh hồn vất vưởng.
Đến nay nương ta ra đi đã 3 năm, nhưng ta vẫn nhớ những lời bà dặn trước lúc đi xa. Khi đó bà đã bệnh tật triền miên, đau đớn vô cùng nhưng vẫn không yên tâm về ta, nước mắt ròng ròng cầm tay ta: “Yến nhi, đừng trách cha con, cũng đừng trách đại phu nhân. Không phải nương không hận bọn họ, mà hận thù là thứ giày vò con người. Ta chỉ hy vọng con bình an vui vẻ sống nốt quãng đời về sau.”
“Nương có lỗi với con, đã đưa con đến thế giới này, để con chịu khổ. Nếu còn có cơ hội ta vẫn muốn làm nương của con, để con được vui vẻ lớn lên.”
Lời nói đó luôn vương vấn bên tai ta, nhưng ta không hứa với nương. Ta sao lại không báo thù được, ta phải đòi lại công bằng cho nương và em trai không ra đời được của ta.”