Hồi chú Ba còn trẻ, chú hứng thú với những loại ngôn ngữ không chính thống này. Chú vốn thông minh, học cái gì cũng nhanh, cuối cùng cũng đạt được thành tựu rất cao ở mảng này. Hồi đó lấy được bản sao chép từ trong tay Kim Vạn Đường, ông chú này liếc một cái là đã có thể nhìn ra được sách lụa của Lỗ Hoàng là thứ không đơn giản (cũng có thể chủ yếu là chú diễn trò), hỏi xin mãi chú mới chịu dạy tôi. Mấy thứ có thể đọc bản đồ từ văn tự kiểu này gọi là "tranh chữ".
Sau này, trong quá trình làm ăn, tôi cũng lần lượt xử lý một số món đồ cổ tương đối đặc biệt, cũng biết những thứ như vậy tuy không phổ biến, nhưng chúng lại thật sự tồn tại. Khi ông ấy vừa nhắc đến, trong đầu tôi lập tức bắt đầu liên tưởng, đại khái đã có một ý niệm, cũng may mà ông ấy không hoàn toàn lừa tôi.
Nhưng khi vừa nhìn tòa tháp Phật này, trong lòng tôi liền xuất hiện một cảm giác khác thường, suýt chút nữa đứng ngồi không yên, cảm giác được đằng sau tất cả những chuyện này đều có một sự mưu tính nào đó.
Nói chung, trong phong thủy chú trọng sự đối lập âm dương, cho nên muốn làm mộ mô phỏng nhà ở cho người sống là điều bất khả thi. Thông thường, không hề có ngôi mộ nào được đặc biệt xây thêm cửa sổ. Nếu như nguyên mẫu của tòa tháp Phật này chính là Kính Nhi Cung Quảng Tây, chúng nhất định là một cặp. Nếu vậy thì tôi có thể chắc chắn rằng có điều gì đó đã xảy ra ở ba nơi này. Cho dù có cách xa vạn dặm, nhất định phải có một nhân tố then chốt có thể xâu chuỗi tất cả đầu mối lại với nhau.
Sắc mặt của tôi rất kém, lập tức gọi Muộn Du Bình tới. Anh đi đến chỗ tôi, nhìn thoáng qua bản vẽ, gật đầu một cái.
Ông già kia lau mồ hôi trên mặt, nói tiếp: "Chúng tôi suy đoán rằng rất có thể ngôi mộ này được xây dựng từ thời Đại Tống, thuộc về dòng thứ bị tách ra sau cuộc nội loạn ở Tây Hạ. Theo suy đoán trước mắt, đây là một quốc gia nhỏ tồn tại trong kẽ hở, hoặc tương tự như một quần thể dân tộc thiểu số, bởi vì nguyên nhân nào đó mà lưu vong tới nơi này, thành lập ra nền văn minh riêng của mình."
Nói năng nửa thật lại thêm nửa giả, trò vặt này tôi cũng chơi đầy rồi. Nếu như ông già này lừa gạt tôi, kết quả đã rõ, chắc chắn sau lưng ông ta có người nào đó xúi giục.
Đang nói thì Lê tiểu thư từ bên ngoài chui vào, cười với chúng tôi rồi nói: "Nói chuyện xong rồi sao? Ban nãy tôi chỉ nói giỡn chút, thật xin lỗi." Sau đó, cô ta đi đánh thức từng người một dậy. Một người trong đó hỏi: "Lão đại, làm sao vậy, cô thật sự muốn bỏ những người này ở lại nơi này à?"
Lê tiểu thư đi tới, ngồi xổm xuống nhìn, sau đó dí súng lục vào đầu một người đàn ông, ra hiệu cho người làm cắt dây trói.
"Đứng dậy đi," cô ta hất mẩu thuốc đang ngậm trong miệng vào mặt thằng nhóc kia, "Cậu, đi theo Ngô Tà đi."
Người có dã tâm lớn trong cái nghề này khắp nơi đều có, thế nhưng người có tham vọng chinh phục mục tiêu mạnh như vậy thì lâu rồi tôi chưa gặp. Tác phong như vậy, ít nhất cũng phải là thủ lĩnh một đội cỡ năm sáu năm trở lên, rất có thể ở trong phòng đấu giá lúc trước, lý do thoái thác của cô ấy cũng chỉ là lời nói dối.
Người mà cô ấy thật sự cần uy hϊếp không phải tôi, mà là Muộn Du Bình.
Người kia bị điểm tên xong liền liếc nhìn tôi, giơ tay lên, đi đến bên chân tôi rồi từ từ ngồi xuống. Nhoáng cái người bên phía công ty leo núi cũng phân tán ra, chia ra thành sáu nhóm. Tôi nhìn chằm chằm vào thằng nhóc đang ngồi xổm dưới chân mình, nó che đầu nói: "Tiểu tam gia, tôi biết anh là người thiện lương, từ nhỏ đến lớn tôi đã nghe qua rất nhiều sự tích truyền kỳ, anh đừng đùa cợt tôi."
Tôi thầm nghĩ rằng có lẽ quá nửa việc này cũng là do tôi mà ra. Mà dáng vẻ thằng nhóc này làm tôi nhớ tới Bao Da (*). Hiện tại Bao Da không còn làm nghề này nữa, đã chuyển sang làm vật liệu xây dựng, tình cảm mặn nồng với vợ con, thường xuyên gọi điện rủ tôi đi nhậu vào những ngày lễ Tết.
(*): Xuất hiện ở chương 11 phần 8 (Đại kết cục - chính truyện).
Lê tiểu thư đi tới trước mặt chúng tôi, sau đó quay sang tôi nói: "Thực ra thỏa thuận của tôi cùng với hắn khi đến nơi này cũng gần như đã kết thúc. Có thể đi tới được nơi này đã là chuyện vượt xa sự mong đợi của tôi. Chặng đường phía trước, dù là tôi đi theo hắn hay là hắn đi theo tôi, cũng không có kết quả tốt gì."
Cô ấy chỉ tay vào thằng nhóc đang ôm đầu ngồi xổm kia rồi cười: "Nhóc này là hàng phòng ngự cuối cùng tôi để lại cho hai người, để cho nó đi trước dò đường thì cũng đủ đảm bảo an toàn được tầm mười lăm phút. Nếu như người của tôi phát hiện ra có người đuổi theo phía sau, sẽ không giải thích mà ngay lập tức nổ súng, chúc hai vị may mắn."
Nói xong cô ấy liền quay người, tôi thấy toàn bộ đám người đó đều đeo trang bị trên lưng, đứng ở hang động kế đó. Tổng cộng có bảy cái ngã rẽ, cô ấy đi tới trước mặt một người, rất tự nhiên giơ tay làm động tác chào tạm biệt rồi đi thẳng vào trong.
Tôi nhìn Muộn Du Bình, Muộn Du Bình cố tình ngó lơ tôi. Đột nhiên tôi nhớ tới việc Trương Hải Khách đã giấu hai bộ đồ lặn ở cửa ra của đường thủy, không biết liệu có thể đi ra ngoài rồi mặc vào hay không, ông đây không thèm làm vụ này nữa.
Mới vừa nói ý tưởng ra, tên nhóc giống Bao Da kia liền ôm lấy bắp đùi tôi, bắt đầu kêu gào: "Ông chủ Ngô, nhà tôi trên có mẹ già dưới có em thơ, tôi còn chưa thể chết được đâu. Anh dẫn tôi đi ra ngoài đi, tôi liền nhận anh làm cha tôi, mai sau bán mạng làm việc cho anh."
Trong lòng tôi đang cảm thấy phiền muộn, khoát tay bảo nó yên tĩnh chút. Đột nhiên nó nhảy cẫng lên, cướp phăng túi xách trong tay tôi rồi chạy biến, liều mạng chui vào trong hang động, thoáng cái đã biến mất dạng. Muộn Du Bình lập tức vỗ bả vai tôi: "Đi!"
Anh nói đi là đi luôn. Tâm tôi như chết lặng, ông đây quyết định cũng liều mình bồi quân tử, làm Tả Bá Đào một phen vậy(*).
(*): Chỉ việc sống chết có nhau, hy sinh bản thân mình vì người khác.
Mặc dù không biết đến tột cùng anh có chấp niệm gì mà cứ một mực phải đi tiếp, nhưng dẫu sao Muộn Du Bình cũng không phải người thường, chuyện của anh tôi cũng không biết quá nhiều. Có đôi khi, không truy hỏi cũng là một loại ngầm hiểu lẫn nhau.
Anh moi ra hai cây pháo sáng và đốt lên, treo đèn pin ở dây thắt lưng để chiếu sáng, rồi anh nhét vào tay tôi một khẩu súng lục.
"Ở đâu ra vậy? Tôi hỏi.
Anh liếc nhìn tôi mà không nói gì, ý tứ rất rõ ràng. Tôi nhớ tới lúc trước anh cứ đi đi lại lại giữa đám người kia, không ngờ rằng lúc đó anh đang tìm súng, trong lòng tự nhiên thấy buồn cười. Tôi nhịn cười, thầm cảm thấy bản thân không đứng đắn, việc cần làm là đi bắt tên trộm kia mới phải.
Cửa hang kia không thấp lắm, hai người tập trung lần lượt đi sát vào nhau, nếu có chuyện gì xảy ra cũng có thể phản ứng mau lẹ, hai người trước sau phối hợp giải quyết.
Vừa đi tôi vừa nghĩ, tôi đi từ đài sen tới đây, như vậy bảy con đường này theo lý thuyết hẳn là ứng với bảy tòa đại điện trên bích họa, vậy tại sao lại cần tất cả mọi người tách ra hành động? Tuy rằng đi tới đi lui rất phiền phức, nhưng ít nhất độ an toàn lớn hơn nhiều.
Tôi hiếm khi có loại tâm lý chơi đỏ đen của bọn trộm mộ thông thường, nói cách khác, giống như lời Bàn Tử từng bảo, tôi không thích hợp làm công việc này, suy cho cùng cũng là do bị vận mệnh trói buộc. Những phản xạ của tôi đều là nhờ nhiều năm ròng rã tích lũy được trong thực chiến, bất cứ khi nào có người đi theo, tính mạng phải đặt lên hàng đầu, sẵn sàng trở về chỉ với hai bàn tay trắng.
Nếu dựa theo phép liệt kê của Bàn Tử, động cơ dẫn đến hành động như vậy rất đơn giản, một là nó có đủ ưu thế so với hành động tập thể, hai là đây chỉ là một thói quen khi làm nhiệm vụ, muốn khám phá được mọi con đường.
Nếu là vế sau, cô ấy không cần đặc biệt để cho chúng tôi thành một nhóm như thế này. Nói cách khác, trong bảy con đường, nhất định có một con đường nguy hiểm nhất, phải đổ máu một phen.
Không ai muốn chết cả, nhưng việc rút lui là tối kỵ trong hạ đấu, thế nên tất cả mọi người phải đồng thời hành động. Không có cách nào có thể loại trừ nguy hiểm, nếu tôi ra ngoài được, ấy là do tôi gặp may, nếu như chẳng may tôi không ra ngoài được, cũng coi như đã giúp ích được rất nhiều cho họ. Kết quả chỉ có hai cái: "Ngô Tà gặp vận may" hoặc là "Ngô Tà bị xúi quẩy", nghe loại nào cũng thấy chẳng hay ho gì.
Kiểu thiết lập này bỗng làm tôi nhớ đến kỳ môn độn giáp. Trong số tám cửa của kỳ môn độn giáp, rốt cuộc ở đây thiếu mất cái cửa nào?
Tôi hỏi Muộn Du Bình vấn đề này. Muộn Du Bình nghe tôi nói, vẻ mặt dịu đi một chút, có thể là tôi đã nói tới điểm mấu chốt: "Không có cửa sống. Chúng ta đã đi qua cửa sống, ngay chỗ cậu tiến vào."
Nếu người nói là người khác, có thể tôi còn bán tín bán nghi, thế nhưng vẫn là điều tương tự, từ trong miệng Muộn Du Bình phát ra lại giống như lời từ sách giáo khoa, có phân vân cũng không thể bình luận được gì. Suy nghĩ kỹ lại thì hoa sen trong Phật giáo mang ý nghĩa tái sinh, phân tích của anh rất có tính logic.
Đang miên man suy nghĩ, đột nhiên tôi cảm thấy chỗ vết thương bị bánh tông cắn ở bả vai lại bắt đầu ngứa ngáy. Lẽ nào là do đuốc của Trương Hải Khách đốt chưa sạch hết, hay là do tâm lý của tôi đang ám ảnh chính bản thân mình?
Tôi vội vàng kêu Muộn Du Bình dừng lại, trước tiên xem vết thương như thế nào đã. Anh soi đèn, tôi xé cổ áo đi, phát hiện ra bên ngoài băng vải đã rỉ ra rất nhiều máu, chỗ vết thương sâu lại có ít lông tơ trắng mọc dài ra.
Muộn Du Bình trầm mặc quan sát một chút: "Đừng cử động."
Anh bỏ đèn pin xuống, dùng bật lửa hơ qua con dao. Tôi thấy anh cử động ngón tay một hồi, bả vai nhoáng cái đã bị đè xuống, làm tôi cảm thấy đau nhói.
Kỹ thuật của anh rất cao siêu, rắc chút bột cầm máu và băng bó vết thương vào là có thể lập tức vận động được ngay. Tôi mặc áo khoác vào, sau đó liền nhìn thấy anh đang nghiên cứu vật vừa mới cắt xuống.
Những sợi lông màu trắng kia nằm gọn trong lòng bàn tay anh, giãy giụa giống y như vật sống. Muộn Du Bình liếc nhìn tôi một cái rồi nói: "Đây là lông dê."
Nghe tới đây, tôi liền nhớ tới những vật rơi xuống từ tượng Phật lúc leo lên chiến hào.
Ông nội tôi đã để lại chuồng chó ở Trường Sa. Tôi đã tìm chuyên gia chăm sóc cho cả đàn chó, cũng thường xuyên dành thì giờ tới xem nên tôi rất quen thuộc với hình dáng của loài vật này. Những thân thể chuyển động kia, trông lại giống con gì đó bò hơn là chó chạy.
Khi xưa từng có một loại vu cổ cổ truyền tồn tại ở Giang Hoài Lưỡng Hồ, sau này đã phát triển và biến thành 'thải sinh chiết cắt' - ám chỉ những kẻ buôn người đánh đập trẻ nhỏ đến nỗi tàn tật, khiến dáng vẻ của chúng trở nên dị dạng, rồi lợi dụng điều đó để có thể ăn xin được nhiều tiền hơn.
Hồi tôi còn bé, chú Ba vì để đề phòng tôi chạy lung tung, ngoại trừ việc dùng bạo lực trói tôi lên trên cây thì cũng có dùng thủ đoạn ôn hòa hơn, đó chính là kể chuyện ma quỷ để hù dọa tôi, khiến tôi thường xuyên trằn trọc ngủ không yên giấc.
Chú đã từng kể cho tôi câu chuyện "Người khỉ". Nghe nói có một người bị lạc mất con, nhiều năm sau, khi anh ta đi ngang qua một thị trấn, thì thấy có một đám người ăn xin đang cùng chơi đùa với nhau. Bên trong đám người có một số trông giống như con vật, không giống người, cả người mọc đầy lông khỉ, thế nhưng lại có gương mặt của con người, giống y hệt mặt của trẻ con. Phương pháp này được thực hiện bằng cách dùng cây kim đâm xuyên qua da người, nhân lúc máu tươi đang chảy ra, dính lông khỉ với da thịt đã bị làm bỏng. Chú Ba kể câu chuyện này cho tôi nghe, nếu như tôi không nghe lời, sẽ gặp phải chuyện vô cùng đáng sợ.
Khi đã lớn lên được một chút, tôi mới biết rằng chú chính là một ông già không đứng đắn, thế nhưng những lời nói kia cũng không đều là điêu toa. Trong "Tiền giấy nhà Thanh" cũng có ghi chép một câu chuyện tương tự.
Những thứ tôi đã gặp ở Thần đạo không phải là một đàn chó, mà là những người dê. Vật tổ dê là thứ mà nền văn minh này tôn thờ, đối với họ mà nói, nó là sự tồn tại rất linh thiêng. Vì vậy, họ đã để lại một số "dê" nhân tạo để canh giữ phần cốt lõi của ngôi mộ này.
Địa cung nằm ở phía dưới đường thủy thực ra chính là con đường dành cho nô ɭệ. Chỉ có những đứa trẻ vị thành niên mới có thể hoạt động thoải mái ở bên trong. Những đứa trẻ đã hỗ trợ xây dựng lăng mộ này, một khi đã lớn tới mức không còn sống được trong con đường nô ɭệ nữa, có thể phải trải qua một số biện pháp tàn nhẫn khiến cơ thể chúng biến hóa thành vật thủ hộ lăng mộ.
Sự sùng bái của nền văn minh này hẳn là một khái niệm vô cùng quái dị. Tôi bắt đầu nhớ tới câu chuyện mà Trương Hải Khách đã kể, có ý định tìm một chút đầu mối bên trong đó. Nếu như sắp xếp lại câu chuyện ngay từ đầu thì tất cả mọi thứ đều bắt nguồn từ đồng tiền kia.
"Gần đây anh có nằm mơ thấy gì không?" Tôi quay sang hỏi Muộn Du Bình.
Đột nhiên anh bước đến gần tôi, tắt đèn pin đi. Ánh sáng phát ra từ cây pháo sáng đã bắt đầu yếu dần, mắt tôi rất nhanh đã thích nghi được với hoàn cảnh trong hang động.
Cơ thể của Muộn Du Bình ngay lập tức vào trạng thái sẵn sàng phát động toàn lực. Tôi lặng lẽ nắm chặt báng súng, đồng thời rút dao quân dụng ra, sau đó liền nghe thấy trong bóng tối phía sau lưng, có âm thanh hô hấp của người thứ ba truyền tới.