Chương 19: Hỏa thiêu con rối bằng da người
Một
Khi việc nạo vét sông cái phòng lụt năm 1958 tiến hành đến ngày rằmtháng bảy, tại miếu Tam Nghĩa và Vương Xuyến Tràng liên tiếp phát hiệnhai cái xác khô quắt. Khí hậu vùng đất hai bên bở Hải Hà không quá khắcnghiệt, rất hiếm khi có xác khô. Ngoài đường đồn ầm lên là đã phát hiệnra Hạn Bạt, chẳng cần biết lời đồn là thật hay là giả, dù sao sau đó mưa to cũng đổ ập xuống, liên tục hai ngày hai đêm mới tạnh, nước sông dâng cao.
Trước khi trởi đất biến đổi, Quách sư phụ đã nhìn thấy một luồng khí đen xuất hiện ở đằng xa, nhờ vậy mới chợt nhận ra lời đồn ngôi nhà bịma ám ở ngõ hẻm kho lương có chôn dấu bảo vật là không ngoa. Thứ đó sắpgây họa tới nơi, nếu không suy nghĩ ra biện pháp đối phó, sớm muộn gìcũng sẽ có ngày nước tràn đê Hải Hà, nhấn chìm Thiên Tân vệ. Chợt nhớtới một câu chuyện cũ đã từng được nghe, nhưng muốn nói rõ được toàn bộtiền căn hậu quả của nó, chúng ta phải quay về thời gian trước nữa. Câuchuyện này xảy ra vào cuối thời nhà Thanh.
Lúc ấy, Đại Thanh thù trong giặc ngoài, quả thật là bốn bể rungchuyển, thiên hạ đại loạn. Vào thời đó, Thiên Tân vệ xuất hiện một vị kỳ nhân, tên là Thôi Đạo Thành chuyên bày quầy xem bói tại cửa Nam, đượcmọi người gọi là Thôi lão đạo, dựa vào xem bói kể chuyện thuyết thư kiếm sống. Mặc dù không thể coi là phán lúc nào cũng chuẩn, nhưng cũng đủkhả năng làm cho những người ở tỉnh ngoài đến tin sái cổ. Dân bản xứ thì ai cũng thừa biết, Thôi lão đạo xem bói "Mười quẻ chín không được".Nhưng Thôi lão đạo lại biết điển tích cổ, có thể kể thao thao bất tuyệtcả bộ Nhạc Phi truyện theo đúng nguyên bản. Nhạc Phi chính là Kim Sí Đại Bằng Điểu bị Phật Tổ Như Lai thu vào vầng hào quang trên đỉnh đầu củamình. Chỉ vì lúc nghe Phật Tổ giảng kinh không may phọt rắm, Nữ Thổ Bứcđã khiến cho Kim Sí Đại Bằng Minh Vương nổi giận, mổ chết tươi. Bởi vậy, Kim Sí Đại Bằng Minh Vương bị giáng xuống hạ giới, nửa đường lại mổchết Thiết Bối Cầu Long, sau đó đầu thai gửi hồn vào con người trở thành Nhạc Phi kháng Kim bảo vệ Tống. Nữ Thổ Bức và Thiết Bối Cầu Long cũngđi đầu thai rồi đến tìm Nhạc Phi báo thù. Bởi có những tình tiết nhânquả báo ứng liên quan cả đến thần tiên ma quái Phật Đạo, cộng thêm tìnhtiết Nhạc Gia quân đánh quân Kim ra sao, bày trận và phá trận như thếnào,cho nên càng kể càng ly kỳ kí©h thí©ɧ trí tò mò của con người. Khiấy, mọi người đặc biệt thích nghe những câu chuyện như thế này. Thôi lão đạo không những chỉ biết kể chuyện, mà còn có thể tự biên tự diễn thêm, trên giang hồ tương đối được lòng người khác. Thời ấy, được lòng ngườikhác cũng có nghĩa là có được cơm ăn. Dựa vào xem bói và kể chuyệnthuyết thư, ông này tạm kiếm đủ miếng cơm.
Thấy Thôi lão đạo kiếm sống được không được khá giả lắm mọi ngườirất dễ lầm tưởng, nghe nói ông này thực sự có bản lĩnh, thủ đoạn khônghề tầm thường, chỉ đáng tiếc là bị mệnh kìm hãm, có năng lực cũng khôngdám dùng, cho nên cuộc sống rất túng quẫn. Ông này cũng không phải làđạo sĩ thật sự, mà cũng có nhà có người thân, chuyên mặc một chiếc đạobào rách rưới để làm chiêu bài bày bàn.
Có một năm, nhiều tỉnh đồng thời bị mất mùa, lúc đầu nước sông Hoàng Hà khô kiệt, sau nạn châu chấu lại hứng chịu nạn hạn hán, đồng ruộngkhông thể gieo trồng được, đất khô cằn cả ngàn dặm. Trong nội thành cònsống tạm được qua ngày, nhưng ở ngoại thành thì người chết đói khắp nơi, mọi người đói vàng cả mắt, có ai còn muốn xem bói nghe kể chuyện? Giacảnh nhà Thôi lão đạo nghèo rớt mồng tơi, đành phải đi phục vụ tang lễ.Lúc bấy giờ, ông lão chủ nhà của một gia đình giàu có bị chết, thiếungười chấp sự. Chấp sự là người đứng trước linh đường, khi các tăng nhân siêu độ xong, người này có trách nhiệm đọc văn tế. Ngoài ra, nếu cóngười đến viếng, khi họ được người phụ việc dẫn vào chánh đường qua cửachính, chấp sự phải lập tức hô lớn: "Nhất bái, nhị bái, tam bái, giađình nhà hiếu hoàn lễ." Những người đến phúng viếng và toàn bộ gia đìnhnhà hiếu đều phải làm theo lời hô của chấp sự, bảo quỳ xuống là phải quỳ xuống, bảo dập đầu là phải dập đầu, tương đương với người lãnh đạo cóquyền lớn nhất trong linh đường, người ta thường gọi là "Đại Liễu" .
Ông lão chủ nhà giàu này qua đời, khi tổ chức việc tang lễ, vừa vặnthiếu mất một vị chấp sự, Thôi lão đạo lấp vào vị trí đó. Phục vụ tanglễ nhìn thì có vẻ dễ dàng, nhưng không phải ai cũng có thể làm. Xã hộixưa có rất nhiều điều kiêng kị mê tín, nhưng nếu nói đến người thôngthạo những chuyện kỳ lạ hiếm có, hiểu biết chữ nghĩa thì không ai sánhbằng Thôi lão đạo. Ông này tuyên bố xanh rờn "Mưu thắng Trương Lương,trí vượt Gia Cát", táo ông táo bà, Long Vương năm châu bốn biển, tiềnhậu địa chủ tài thần, không vị nào là mình không biết. Ông này thầm tính toán "Việc này không tệ, chỉ cần khéo nói là xong chuyện, dù có nhắm cả hai mắt cũng không làm sai chuyện gì được. Bao ăn bao uống còn kèm theo phần thưởng, so với bày quầy ở cửa Nam uống gió thì tốt hơn rất nhiều.Từ lúc liệm cho đến lúc đưa tang, tổng cộng là bảy ngày. Trong vòng bảyngày tới coi như không phải phát rầu vì phải tìm nơi kiếm miếng cơmrồi, sau này ra sao thì để tính sau", nhưng không lường trước được ýnghĩ đó đã gây ra họa lớn.
Hai
Đêm ngày hôm đó, gia đình nhà hiếu thuê công nhân dựng rạp kín cảcon phố để ngày hôm sau bắt đầu phúng viếng. Thôi lão đạo đồng ý làm một chân phục vụ tang lễ, lĩnh trước một phần tiền đặt cọc rồi về nhà chuẩn bị. Vừa mới sớm tinh mơ, ông này đã ăn mặc chỉnh tề ra khỏi nhà. Vàingày trước không có gì ăn, ông ta đói đến mức da bụng dính vào sau lưng. Lúc ban đầu, ông này định ăn cơm do nhà hiếu cung cấp, nhưng theo nhưtiền lệ thì phải bắt tay ngay vào việc, đến buổi trưa mới được ăn cơm.Ông ta thầm nhủ: "Trong bụng không có cái gì thì lấy đâu ra sức mà lớntiếng hô với hét, vừa mới ngày đầu tiên cũng đừng có làm hỏng chuyệnnhà người ta chứ, cứ tìm chỗ nào ăn sáng rồi mới tới đó sau." Vừa lúc ấy đi qua một cửa tiệm "Cơm cháy Đại Phúc Lai", ông ta vừa vào tới cửa làđã gọi ngay hai cái bánh nướng một chén cơm cháy.
Cơm cháy là món ăn sáng chỉ riêng Thiên Tân vệ mới có, giá rất rẻ,chỉ hai đồng một chén. Thường ngày, Thôi lão đạo nghiện ăn món này,nhưng năm ấy mất mùa đói kém, nếu không phải nhận trước tiền đặt cọcphục vụ tang lễ, ông này cũng không dám ăn. Khi tiểu nhị bưng món cơmcháy lên, Thôi lão đạo còn ngắm nghía xem có đúng là cơm cháy Đại PhúcLai hay không. Gia vị phải đầy đủ, miếng cháy phải mỏng, như vậy mớiđúng là món của nhà này.
Đại Phúc Lai là cửa tiệm lâu đời trên trăm năm, chủ tiệm họ Trương,theo tương truyền đã được hoàng thượng phong thưởng. Trước lúc ấy, dùtiệm này không có tiếng tăm gì, mọi người không biết tới, nhưng nhà nàyvẫn tuyệt tối nghiêm ngặt sử dụng đúng đủ nguyên liệu. Đậu xanh xaynhuyễn, tráng thành bánh, để nguội hẳn rồi cắt thành lát mỏng. Tươngvừng trộn với nhiều loại gia vị chế thành nước chấm. Khi ăn, cho cơmcháy đã cắt sẵn thành miếng nhỏ vào chén đầy đến tận miệng, giội tươngvừng, muối tiêu, đậu chao, tương ớt, cuối cùng rắc thêm một chút rauthơm lên trên, cách mấy con phố vẫn có thể ngửi thấy được mùi thơm mátđó, hình thức cũng rất ngon miệng. Có một ngày, một ông lão tôn quý dẫntheo mấy người tùy tùng tới, sau ăn xong món cơm cháy của nhà này đãkhen ngợi không tiếc lời. Ngày hôm sau, một vị Ngự tiền thị vệ tìm đếncửa, bảo với chưởng quầy: "Chúc mừng chúc mừng, hồng phúc của ngươi đãđến." Chưởng quầy không hiểu đầu đuôi ra sao: "Nhà tiểu nhân chỉ làmbuôn bán nhỏ thì lấy đâu ra hồng phúc?" Ngự tiền thị vệ bèn giải thíchcho chưởng quầy: "Ngày hôm qua, Hoàng Thượng đã cải trang vi hành đếntiệm của ngươi, sau khi ăn xong món cơm cháy ở đây cảm thấy rất ngon,muốn phong thưởng cho ngươi." Từ đó về sau, món cơm cháy nhà này vangdanh thiên hạ, thực khách nghe danh nối đuôi nhau không ngừng kéo đến.Nhà này mở thêm hơn mười chi nhánh, chưởng quầy đổi tên tiệm thành "ĐạiPhúc Lai"*.
*Hồng phúc đến
Lâu rồi Thôi lão đạo không có nổi vài đồng, hai ba tháng nay chưatừng được thưởng thức món này. Hôm ấy ngon miệng không cưỡng lại được,ông này liên tiếp ăn hết ba chén cơm cháy. Được nhà hiếu ứng trước tiềnlàm việc tang lễ, ông này cắm đầu vào ăn sạch ba chén cơm cháy rồi mớichịu tới chỗ đám tang. Bên đó người ta đã dựng xong rạp trước cổngchính, hai người phụ việc một phụ trách khu vực bên trong cửa chính, một phụ trách bên ngoài. Linh đường được đặt tại phòng khách, hòa thượngđạo sĩ đến siêu độ tụng kinh sắp đồ đầy cả gian phòng. Bởi ông cụ chủnhà qua đời, con trai và con dâu phải mặc đồ tang đốt vàng mã, toàn bộngười thân họ hàng và thân bằng cố hữu gần xa thì chầu chực ở bên ngoàilinh đường. Thôi lão đạo vừa đến nơi thì cũng là lúc bắt đầu tụng kinhniệm chú, ông ta vội vàng chỉnh trang lại quần áo rồi đứng vào vị trítrước linh đường. Đứng bên cạnh là một trợ thủ tên là Ngô Đại Bảo, là đồ đệ trên danh nghĩa của Thôi lão đạo, cũng coi như là một kẻ theo chânkiếm ăn. Anh chàng này dốt đặc cán mai, một chữ bẻ đôi cũng không biết,tay xách một ấm trà, chuyên châm trà rót nước cho đám hòa thượng và đạosĩ tụng kinh nhấp giọng. Thôi lão đạo từng than thở, cái tên Ngô Đại Bảo này không hay, Ngô có nghĩa là không, Đại Bảo chính là nguyên bảo, gộplại có nghĩa là ngay cả một đại bảo cũng không có, trong tay không cótiền, thế chẳng phải là khố rách áo ôm thì là cái gì?
Không phải tất cả hòa thượng đạo sĩ đang siêu độ vong hồn trong rạpđều là người xuất gia, có những người tu tại nhà nhưng vẫn biết niệmkinh, đó cũng là một loại khả năng. Bảy ngày đầu tiên là tuần đầu, kéodài từ lúc người đó chết đến lúc đưa đi hạ táng mới chấm dứt. Trong bảyngày đó, ngày nào cũng phải niệm kinh năm lần, buổi sáng hai lần buổichiều hai lần, đến đêm là lần dài nhất. Trong thời gian đó, chấp sự cótrách nhiệm đọc văn tế, nhắc nhở con cháu nhà hiếu và người đến phúngviếng lúc nào cần bái lạy, công việc của Thôi lão đạo chính là việc này. Sau khi nghe thấy tiếng tụng kinh tắt hẳn, có nghĩa là lần niệm thứnhất đã xong rồi, ông ta bắt đầu đọc văn tế. Bởi quanh năm suốt thángkể chuyện thuyết thư xem bói ở cửa Nam, ông này biết cách ăn nói, làm bộ làm tịch sao cho hợp với tình huống, giọng nói cũng đầy tình cảm. Nghethấy bên dưới linh đường đồng loạt dậy lên tiếng than khóc, đọc xong văn tế rồi hô to dập đầu bái lạy, Thôi lão đạo chợt thấy chóng mặt, thầmhô: "Hỏng hết cả việc rồi!"
Ba
Thì ra mấy ngày hôm ấy, Thôi lão đạo không có gì để mà ăn, trongbụng không có lấy một hột cơm, buổi sáng ăn liền ba chén cơm cháy, đầybụng không tiêu, lúc đọc văn tế chỉ trực xả xú uế ra, khẩn cấp phải đinhà xí. Thế nhưng, lúc ấy còn hơn chục người đến phúng viếng đang xếphàng ngoài linh đường, chỉ chờ chấp sự hô lên là sẽ bước lên dập đầu,không thể nào bỏ mặc nhiều người đứng chờ như vậy, giờ nên làm thế nàocho phải?
Chẳng kịp nghĩ ngợi nhiều, Thôi lão đạo lôi phắt vị đồ đệ trợ thủNgô Đại Bảo đang đứng bên cạnh lại, nhét vội bài văn tế vào tay y: "Visư phải chạy đi nhà xí một lúc, giờ con cứ bắt chước y chang theo mà hô, bình thường vi sư hô như thế nào con cũng sẽ hô như vậy, hiếu tử quỳ,dập đầu lần thứ nhất, tiếp tục dập đầu, dập đầu lần thứ ba, sau hiếu tửlà đến con dâu, nhớ kỹ chưa?"
Ngô Đại Bảo không biết chữ, văn tế không biết đọc, nhưng hô dập đầuthì y nghe suốt đến thuộc làu, chẳng có gì là khó cả, bèn bảo với Thôilão đạo: "Sư phụ yên tâm, việc này cứ giao cho con, người mau đi đi, đãcó giấy chùi chưa?"
Thôi lão đạo chẳng buồn đáp lại cho mất thời gian, vơ vội một nắmgiấy vàng mã dưới mặt đất, giống như bị lửa đốt đít, ôm bụng phóng thẳng tới nhà xí.
Ngô Đại Bảo buông ấm trà xuống, tay cầm văn tế, bắt đầu dẫn dắt việc phúng viếng, hô lên một câu 'hiếu tử quỳ'. Con cháu trong xếp thành một hàng, ai trước ai sau phải tuân theo theo thứ tự nhất định, như vậyngười chấp sự mới không gọi sai. Người con kia nghe thấy chấp sự gọimình, lập tức bước lên trước linh đường quỳ rạp xuống đất, khóc ầm lên.
Tiếp theo, đáng lẽ ra Ngô Đại Bảo phải hô "Dập đầu", nhưng y chỉ làkẻ "không có chó bắt mèo ăn cứt', cố sức lắm mới giữ được bình tĩnh, đột ngột bị nhiều người trong linh đường cùng đổ dồn ánh mắt vào như vậy,không tránh khỏi có đôi phần luống cuống. Y khẩn trương líu cả lưỡi,trong đầu thì nghĩ đến "Dập đầu", nhưng ra khỏi miệng lại thành "Lộnđầu" .
Người con kia là kẻ sinh ra trong nhà giàu có, không hiểu biết gì về đạo đối nhân xử thế, cũng chưa từng tham gia một buổi tang lễ nào, đâymới chỉ là lần đầu tiên. Lúc trước có người nhắc nhở anh ta, khi ở trênlinh đường thì nhất nhất phải nghe theo chấp sự, chấp sự bảo anh làm cái gì thì anh phải làm cái đó, bảo dập đầu thì phải dập đầu, bảo khóc thìphải khóc hết nước mắt, nếu không người ta chắc chắn sẽ đánh giá anh làngười bất hiếu. Bởi trong đầu lúc nào nghĩ đến lời nhắc này, cho nên khi nghe thấy chấp sự hô lên "Lộn đầu", anh ta ngơ ngác không hiểu ra sao,"Lộn đầu" là nghĩa làm sao? Lộn nhào? Anh ta sợ không gánh nổi tội danh bất hiếu, nên cho dù không biết lộn nhào cũng phải lộn, thôi thì cứ cắn răng mà làm cho xong. Anh ta gồng người lên, hai tay ôm chặt lấy đầu,chổng mông lên lộn một vòng rồi té lăn chiêng linh đường. Mọi người đứng bên dưới nhìn lên hoa mắt choáng váng, thế này là thế nào?
Ngô Đại Bảo hô đủ ba lượt, bắt hiếu tử phải nghiêng ngả lộn nhào balần. Sau khi người con đó đã lộn đủ ba vòng thì đến lượt cô vợ của anhta. Dù cô ta đang mang thai tháng thứ sáu thứ bảy, nhưng trong lòng biết chắc là không thể trốn tránh, ai có thể gánh nổi tội danh bất hiếu?Nhưng cô ta thật sự không thể lộn nhào được, bèn van xin: "Tôi nằm dàixuống đất rồi lăn tròn thầy thấy có được hay không?"
Đến nước này mọi người đến phúng viếng ở bên dưới không nhịn đượcnữa, nào đâu có cái trò bắt con cháu nhà hiếu phải lộn nhào trên linhđường? Chấp sự trên linh đường chẳng phải là Thôi lão đạo ư, sao lạithay bằng Ngô Đại Bảo rồi? Bèn quy kết là Ngô Đại Bảo đã nhận được lệnhcủa Thôi lão đạo, cố ý quấy rối linh đường, cái trò này còn đáng hận hơn cả đào mộ tổ tiên nhà người ta. Những người thâm giao với gia đình nhà hiếu đều là kẻ có quyền thế, những người này không có một ai là kẻ dễtrêu, nhổ bừa một sợi lông trên đùi cũng to hơn eo Ngô Đại Bảo và Thôilão đạo. Lúc bấy giờ, họ bèn gọi một đám gia đinh hùng hổ như sói như hổ tới, đè nghiến Ngô Đại Bảo xuống, dùng côn đập loạn cho một trận thừasống thiếu chết, sau đó tiếp tục nổi giận đùng đùng đi tìm chủ nợ làThôi lão đạo để tính toán.
Vừa mới bước ra khỏi nhà xí, Thôi lão đạo đã phong thanh nhận thấycó chuyện không hay, có nhảy xuống Hoàng Hà cũng không rửa sạch tội,người khôn phải biết nặng nhẹ, lập tức vắt chân lên cổ chuồn ra ngoàithành, nhất thời không dám trở về. Nhưng trên người lại không có baonhiêu tiền, ông này quyết định về nông thôn né tránh chờ mọi việc lắngxuống rồi tính sau, bèn lấy số tiền đặt cọc cho việc phục vụ tang lễ đimua lương khô đủ cho vài ngày ăn, gói ghém qua loa rồi một đường thẳngtiến vượt qua vùng đất trũng phía nam. Sau khi ra khỏi thành, ông nàylại chỉ thấy cảnh tượng hoa mầu mất mùa ở khắp nơi. Trên đường nghe được tin tức, ở Hà Nam có rất nhiều dân gặp nạn nổi loạn, triều đình cử quân đội đóng tại Trực Lệ tới trấn áp, thẳng tay tàn sát. Dọc đường ông tachỉ gặp dân đói rách và quân nổi loạn chạy lên phía bắc, bỏ cả nhà cửavườn tược lại đằng sau. Đi sâu xuống phía nam, ngay cả dân đói rách cũng không còn nhìn thấy nữa, mọi người đã chết đói cả rồi, khắp nơi la liệt xác chết, trong lòng ông này trở nên nặng trĩu, đau buồn thui thủi mộtmình cất bước. Khi đi ngang qua một khu nghĩa địa, ông này chợt thấy đầu một con chó đen ló ra sau một ngôi mộ. Cái đầu con chó đó chắc phải tohơn cả đầu con nghé, miệng ngậm một đứa bé, trợn trừng đôi mắt đỏ rựclên, nhe răng khẽ gầm gừ với Thôi lão đạo.
Bốn
Thôi lão đạo tay không tấc sắt, chắc mẩm lần này mình sẽ biến thànhthức ăn trong miệng chó trong cái nghĩa địa này, nhưng mệnh chưa đến lúc tuyệt, đột nhiên một con chó dữ khác nhảy vọt ra, nhe răng há mõm muốnđoạt xác đứa bé trong miệng con chó đen. Nhân lúc hai con chó hoangtranh giành nhau, Thôi lão đạo tận dụng cơ hội chạy trối chết. Toàn bộvùng đất trũng không có con đường mòn nào, ông ta lúc thì rẽ bên trái,khi thì ngoặt sang phải, rụng rời cả hai chân mà không biết đến khi nàomới thoát khỏi nơi này. Chạy được tầm hơn hai dặm, ông ta đột nhiên dừng phắt lại. Kể ra đôi mắt của ông ta cũng độc, đã phát hiện ra mặt đấtbên đường có điểm không thích hợp. Cỏ dại trên mặt đất úa vàng héo rũ,nhưng màu sắc và tính chất của đất ở chỗ đó lại không có gì khác với khu vực xung quanh, vậy là đã chứng tỏ bên dưới mặt đất chắc chắn có mộ cổ. Dù không nhìn thấy tạo hình của ngôi mộ, cũng không thấy con thú cõngbia đá trước mộ, nhưng đại loại là một ngôi mộ cổ mà phần mặt ngoài được phủ một lớp cao lanh, bởi vậy cỏ trên mặt đất rất khó mọc được. Ông này bước qua bên đó nhổ một ngọn cỏ lên để quan sát rễ của nó, quả nhiên có ám âm khí của mộ cổ. Ngôi mộ bên trong lớp cao lanh này chí ít ra cũngphải là một của một vị Vương Hầu nào đó. Nếu là ngày trước, Thôi lão đạo chưa chắc đã có ý định đào trộm ngôi mộ này, nhưng khi chạy nạn đến nơi xa lạ, trên người không có tiền rất khó xoay sở, khắp nơi lại gặp thiên tai nhân họa liên tục, có ai còn tâm tư xem bói với đoán quẻ. Giờ giữađường gặp một ngôi mộ cổ, chẳng phải là tiền tài do trời ban hay sao?
Thôi lão đạo nghĩ thầm không làm thì thôi, đã làm thì làm cho chót,nếu phải làm chuyện xấu thà rằng đi trộm mộ cổ còn hơn, lấy được vàngngọc đồ quý là sẽ xa chạy cao bay. Dù đã thông tư tưởng, nhưng ông nàylại không phải là kẻ chuyên sống bằng cái nghề thất đức này. Mặc dù biết xem phong thuỷ tìm âm trạch dương trạch, nhưng ông này lại không có tay nghề đào đất khoét tường khai quật động tiên, một thân một mình trộm mộ cướp đoạt bảo vật là việc nằm ngoài khả năng của bản thân. Cũng may nơi này là vùng đất hoang vu làng xóm tiêu điều, phạm vi hơn mười dặm quanh đó không thấy một bóng người, chỉ cần có nước có lương khô, tìm mộtgian phòng đủ che nắng mưa trong những thôn hoang vắng gần đây trú tạmmấy ngày cho đến lúc đào được bảo vật, như vậy coi như đã tốt lắm rồi.Ông này hạ quyết tâm, trước tiên cần chuẩn bị đầy đủ nước uống và lươngthực, còn phải kiếm thêm hai dụng cụ đào bới phần mộ, nếu không thìchẳng có cách nào mà ra tay. Lúc bấy giờ, mặt trời đỏ ối đã lặn về tây,Thôi lão đạo đang lo sợ lại gặp phải chó hoang thì chợt nhìn thấy có một con đường cách ngôi mộ cổ không xa. Đó là một ngã tư, bên cạnh lại cómột lối rẽ khuất nẻo, cỏ mọc tốt um cao quá đầu người, bụi gai rậm rịt,giống như rất nhiều năm rồi không có người qua lại.
Thôi lão đạo đã xông pha giang hồ nhiều năm, trong lòng tự hiểu conđường nhỏ đó không dễ đi, sài lang thổ phỉ thứ nào cũng nên tránh, bènđi thẳng theo đường cái. Nhưng vừa đi được không bao xa, ông này đã bắtgặp một con lừa, có lẽ là do dân chạy nạn bỏ sót. Con lừa này cũng cóthể coi là mạng lớn, không bị đám dân chạy nạn làm thịt. Thôi lão đạomừng như điên, trong lòng hào hứng nghĩ: "Thật sự là ước cái gì được cái đó, con lừa này vừa khéo có thể giúp lão đạo ta chuyên chở đồ vật." Ông này bước lại gần tóm lấy dây cương, trèo lên lưng lừa. Nhưng đến lúcbấy giờ, bởi không dưng kiếm được món hời, ông này lại không dám đi theo đường cái nữa, sợ chạm mặt với người đã bỏ quên con lừa, vội vàng rẽvào con đường nhỏ. Có con lừa ít nhất không cần phải sợ chó hoang nữa,lừa mà nổi nóng lên là sẽ đá hậu. Cho dù hung tàn đến mấy, đám chó hoang cũng không dám trêu vào một loại gia súc lớn như lừa.
Ngoài ra còn có quan niệm mê tín, cho rằng cương thi sợ tiếng hí của lừa. Thôi lão đạo vớ bở được một con lừa, gan trộm mộ dường như đã lớnhơn trước nhiều. Ông này cỡi lừa đi xuôi theo con đường nhỏ. Con đườnggập ghềnh, rất hoang vu. Bởi tính tình bướng bỉnh, con lừa cứ đi ba bước lại lùi hai bước. Đi được tầm hơn hai dặm, ông này chợt nhìn thấy mộtthôn làng hoang vắng nằm ven đường. Công việc đào trộm mộ cổ không thểnào chỉ trong vòng ngày một ngày hai là có thể hoàn thành, phải tìm mộtchỗ qua đêm. Ông này thầm tính toán, cái thôn này cách ngôi mộ cổ khôngxa, hay là cứ vào trong thôn tìm một ngôi nhà đủ che gió che mưa ở tạm,buổi tối ngủ, còn ban ngày đào mộ. Bởi vậy, ông này đánh lừa rẽ vàothôn. Giữa đám ruộng bỏ hoang có một cái cuốc, ông này tiện đường nhặtlên đặt ngang lưng lừa, chờ đến lúc đào mộ sẽ mang ra sử dụng. Khi đếncửa thôn, trong sương chiều bao la mù mịt, ông ta nhìn thấy trên tấmbia đá ở bên đường có khắc ba chữ "Thôn Huyền Đăng".
Thôi lão đạo tự lẩm bẩm: "Tên thôn quái dị thật! Huyền mà chả làhắc, thôn Huyền Đăng thì có khác gì là thôn Hắc Đăng đâu? Chẳng lẽ vàobuổi tối không nhà nào đốt đèn hay sao?"
Năm
Thôi lão đạo đã đi lại trong giang hồ nhiều năm, không ngại ngần gìnếu phải một mình qua đêm ở một cái thôn vắng nhà hoang như thế này.Hiển nhiên "thôn Huyền Đăng" là một cái thôn bị bỏ hoang không có ngườiở, có khả năng người trong thôn đã chạy nạn hết cả rồi, nhưng ông nàyvẫn không hiểu tại sao người ta lại đặt tên thôn quái dị như thế, khôngthể không đề cao cảnh giác. Ông này giục lừa đi vào thôn. Rõ ràng là bốcục của thôn này hết sức kỳ lạ, phòng ốc xây quây lại thành một vòng,toàn bộ cửa sổ đều mở toang cánh khép vào bên trong, khác hẳn nhà bìnhthường. Chính giữa thôn là một khoảng đất trống, ở giữa khoảng đất nàycó một cái đèn đá to đùng, kiểu dáng rất cổ xưa, ít nhất cũng phải có từ mấy trăm năm trước. Đến khi vào trong, ông này mới phát hiện ra, nơiđây không hẳn là một thôn bị bỏ hoang không có người, nhưng cũng chỉ cómỗi một căn nhà là có người ở. Trong nhà có một ông lão ngoài sáu mươituổi, da mặt đầy vết sạm, bên cạnh ông lão còn có một thanh niên vụngvề, cả hai đều đặc chất nông dân, nhìn bề ngoài dường như là hai chacon.
Thôi lão đạo thấy trong thôn có người còn ở lại, do vậy không dám tựtiện chọn một căn nhà để ở. Ông này bước lại gần chắp tay, bảo với ônglão đó mình là một đạo nhân bán thuốc nam, đang hái thảo dược ở khu vựcgần đó, định vào thôn tìm một gian phòng ở tạm vài ngày, lương khô nướcuống thì tự mình đã chuẩn bị sẵn cả rồi, mong ông lão tạo điều kiện.
Ông lão đáp: "Tạo điều kiện cho người cũng chính là tạo điều kiện cho chính mình. Huống chi, quanh đây ngoại trừ cái thôn Huyền Đăng này ra,không còn nơi nào có thể ngủ nhờ được nữa, trước không có thôn sau không có nhà trọ, không ở lại nơi này thì còn có thể ở đâu nữa? Tuy nhiên,nhà cửa trong thôn đa phần là cũ nát lắm rồi, tường xiêu vách nát, giólùa mưa tạt, chỉ sợ không xứng với đạo trưởng."
Thôi lão đạo nói: "Tôi là người thường lang bạt, tiện đâu ngủ đó,không quá kén chọn, chỉ cần một gian phòng nát một cái giường đất làđược, dù sao cũng tốt hơn là ngủ ngoài trời nơi hoang dã."
Nhận thấy đạo sĩ này đã quyết tâm tá túc trong thôn mình, ông lão bèn chỉ tay vào gian nhà bên cạnh, bảo: "Nếu đạo trưởng không chê, có thểvào ở gian phòng bên kia hai ngày."
Thôi lão đạo rối rít cảm ơn rồi hỏi ông lão: "Tại sao trong thôn chỉcòn hai người lão trượng và con trai, những người cùng thôn còn lại đãchuyển đi chỗ rồi khác hay sao? Hơn nữa vì sao lại gọi là thôn HuyềnĐăng, chắc hẳn là buổi tối không thể thắp đèn phải không?"
Ông lão lắc đầu trả lời: "Dạo này khó khăn, người trong thôn đã chạynạn đi nơi khác cả rồi, chỉ còn một mình tôi và đứa con trai vụng vềnày là còn ở lại nhặt ve chai kiếm củi lần hồi sống qua ngày. Còn nhữngviệc khác ấy ư, đạo trưởng ngài đừng có hỏi nhiều, bởi thấy ngài khôngcó nơi ngủ qua đêm, cho nên tôi mới thương tình cho ngài ở lại. Ngài ởlại cái thôn này cũng không có vấn đề gì, chỉ cần đồng ý với tôi ba điều kiện."
Mặc dù trong lòng Thôi lão đạo thầm nghĩ: "Rừng sâu núi thẳm mà cònlắm quy định như vậy", nhưng ngoài miệng lại nói: "Không vấn đề gì không vấn đề gì, không hiểu ba điều kiện đó là gì, kính mong lão trượng chỉbảo."
Ông lão nói: "Thứ nhất, ban đêm đạo trưởng đốt đèn cũng được, nhưngsau khi trời tối, bất kể có nghe thấy nhìn thấy bên ngoài có chuyện gìxảy ra, ngàn vạn lần không nên tò mò, hơn nữa còn tuyệt đối không đượcbước chân ra khỏi phòng."
Thôi lão đạo âm thầm kinh ngạc, buổi tối không được ra khỏi phòng?Chẳng lẽ trong thôn có vật gì không tiện cho người khác nhìn thấy? Cũngmay là ban ngày ông này còn phải đào trộm mộ, điều kiện này có thể tuântheo.
Ông lão nói tiếp: "Thứ hai, không cần biết là lúc nào, đạo trưởngtuyệt đối không thể bước vào nhà của hai cha con chúng tôi."
Lúc bấy giờ trời đã tối đen, Thôi lão đạo đứng ngoài cửa, còn ông lão kia và người con vụng về thì đứng ở trong nhà. Dù không nhìn thấy trong phòng ra sao, nhưng chỉ là một căn nhà ở vùng thôn quê thì có thể cóthứ gì đáng giá cơ chứ, sao lại phải cảnh giác với người lạ cứ như đềphòng kẻ cướp thế? Chả hiểu trong thôn vì sao lại có quy định này nữa?
Ông lão lại bảo: "Đạo trưởng đừng quá đa nghi, tôi làm vậy chỉ vìmuốn tốt cho ngài, chỉ có điều là không tiện nói rõ ràng. Ngài còn phảiđồng ý với tôi điều thứ ba nữa, đó chính là đừng có hỏi bất cứ câu nào.Nếu như có thể tuân theo thì ngài cứ ở lại, giả như không đồng ý, vậycứ cứ nơi khác mà tìm chỗ ngủ trọ cho sớm."
Thôi lão đạo vội nói: "Bần đạo là khách từ bên ngoài đến, nếu chủ nhân đã căn dặn, làm sao dám không vâng lời."
Mặc dù ngoài miệng nói một đằng, nhưng trong lòng lại nghĩ một nẻo,ông này chắc mẩm trong thôn này có bí mật không thể cho ai biết. Nhưngvì mục đích trộm mộ cướp đoạt bảo vật, ông này thực sự chẳng cần tìmhiểu thêm cho rách việc, chỉ mong có một chỗ để qua đêm, sau khi khaiquật được mộ cổ là sẽ lập tức xa chạy cao bay, bởi vậy đồng ý ngay tứcthì. Sau khi trời tối, ông này đóng cửa không bước ra khỏi cửa, ăn lương khô cho đỡ đói rồi nằm ngủ trong phòng. Ngày hôm đó coi như trôi qua êm đẹp, ông này mặc nguyên quần áo nằm chết dí trên giường, ôn lại nhữnglời căn dặn lúc trước của ông lão kia một lượt, trong lòng tự hiểu đếnđêm nhất định có chuyện gì đó, dù ngủ cũng phải mở to một con mắt.
Sáu
Đang nằm trên giường gạch Thôi lão đạo bỗng cảm thấy khát nước. Lúcăn lương khô ông này không uống nước, đến đêm cổ họng khô khốc, hối tiếc vì đã không tới chỗ ông lão xin chén nước uống. Lúc bấy giờ trời đã tối rồi, trong ba điều kiện mà ông lão nêu ra, điều đầu tiên là ban đêmkhông thể ra khỏi phòng. Ông này thầm nghĩ, dù trời đã tối đen, nhưngmới chỉ mới tối không lâu, chắc là chưa tới nửa đêm, tốt nhất là nêntranh thủ lúc này đi uống hớp nước sôi, có lẽ ông lão kia sẽ không trách móc. Ông ta lập tức bước ra khỏi nhà, nhìn thấy bên ngoài có ánh trăng, nhưng cửa nẻo nhà hai cha con ông lão đã đóng chặt, bên trong lại không đốt đèn. Ông này qua bên đó định gõ cửa thì chợt nghe thấy trong phòngvang lên tiếng thút thít nỉ non, giống như có hai người phụ nữ đang khẽthan thở.
Thôi lão đạo cảm thấy hết sức kỳ lạ: "Ông lão đã khẳng định trongthôn chỉ có mỗi hai cha con mình, vì sao lại có tiếng của phụ nữ?" Lạisuy đoán: "Chẳng trách ông lão lại không cho mình ra khỏi nhà vào banđêm, nguyên nhân là bọn họ dự định làm việc bất chính như thế này, chắclà bắt cóc người ở nơi khác về, để ta xem rốt cục là. . ."
Ông này nằm dán sát người xuống đất, ngó qua khe cửa để quan sát tình hình trong nhà. Lúc ấy ánh trăng mờ ảo, chỉ lờ mờ nhìn thấy hình dánghai cha con đang ở trong nhà. Hai người nằm nghiêng, một người quay đầuvề phía đông, người kia quay về phía tây, quay lưng vào nhau, nằm lộnđầu đuôi trên giường gạch, dường như đã ngủ lâu rồi. Căn phòng mộttrượng vuông (~10m2) nhìn một cái là thấy toàn bộ, nhưng nào có thấyngười phụ nữ nào?
Thôi lão đạo cảm thấy kinh hãi, toàn thân nổi hết da gà, rõ ràngkhông hề nghe lầm, nhưng ông này tự nhắc nhở chính mình thêm một chuyệnkhông bằng bớt một chuyện. Một mình chạy nạn tới nơi xa lạ, chưa đủ thời gian làm quen với cuộc sống ở nơi đó, lại chẳng quen biết ai để có thểtìm hiểu được tin tức, cũng chỉ còn cách nhìn trước quên sau, trước mắtđào trộm mộ kiếm bảo vật vẫn là quan trọng hơn, không thể vì bên cạnhphát sinh chuyện lặt vặt mà tự rước lấy phiền toái. Sau khi trải qua một hồi kinh sợ, ông này không còn thấy khát nước nữa, lặng lẽ trở về cănphòng sát vách ở bên cạnh, cài chặt thanh chặn cửa rồi nằm xuống ngủ.Nhưng đến nửa khuya, tầm khoảng giữa canh ba, ông này chợt nghe thấy bên ngoài vang lên tiếng bước chân. Không nhìn cho rõ thì không thể nào yên tâm, ông này nhấm nước bọt vào đầu ngón tay chọc thủng một lỗ trên cửasổ, nín thở, lặng lẽ nhìn trộm ra bên ngoài. Đập vào mắt là một đám đông xếp thành một hàng, đang đi từ khu đất trống chính giữa ra bên ngoàithôn. Nam nữ già trẻ gà vịt mèo chó đều có cả, còn có người cưỡi ngựaruổi lừa. Lúc ấy mây đen che khuất ánh trăng, khi đứng trong phòng nhìnra ngoài, ông ta chỉ có thể nhìn thấy những bóng hình mờ mờ ảo ảo. Những người đó quá nửa đêm đi ra ngoài, đi một lát rồi lại quay trở về, cứ đi đi lại lại cho tận đến tầm canh bốn rồi đột ngột biến mất không cònbóng dáng.
Thôi lão đạo rùng mình toát mồ hôi. Trốn trong phòng nhìn không rờimắt cả nửa đêm, ông này cảm thấy vừa sợ vừa ngờ vực, thầm nghĩ: "Chẳnglẽ là những người trong thôn đã chết rồi biến thành quỷ? Vì sao linh hồn những người này không tan? Cặp cha con sống trong này rốt cục là đangche dấu cái gì?" Mặc dù thừa biết nếu mình ở lại cái thôn này thì có thể sẽ gặp nguy hiểm, nhưng ông này vẫn luyến tiếc ngôi mộ cổ, có thể nàotrơ mắt đứng nhìn "con vịt" đã sắp đến miệng lại bay mất. Bởi lòng thamlấn át lý trí, cuối cùng Thôi lão đạo không nỡ bỏ đi. Đến lúc hừng đông, ông này làm ra vẻ như không có chuyện gì xảy ra, bảo với ông lão mìnhđi hái thảo dược rồi vác cuốc cưỡi lừa ra khỏi thôn. Trước đó đã ghi nhớ đường đến mộ cổ, cho nên ông này chằng mất bao nhiêu thời gian đã đếnnơi. Sau khi ngẩng đầu nhìn mặt trời để xác định hướng của quan tài,dùng bước chân tính toán xong, ông này mới ra tay đào bới. Bình thường,việc trộm mộ phải tiến hành vào ban đêm, bởi bản thân công việc này thực sự có một vài kiêng kỵ mê tín, nhưng chủ yếu vẫn là sợ bị người khácbắt gặp.
Vùng đất hoang vắng không một bóng người, coi như đã trút bỏ đượcphần nào gánh nặng đó. Mặt khác, vào ban ngày dương khí thịnh, một sẽkhông có ma quỷ lộng hành, hai sẽ không có cương thi, không cần phải quá mức căng thẳng sợ bóng sợ gió. Mặc dù không phải là người chuyên kiếmcơm bằng cái nghề trộm mộ này, nhưng Thôi lão đạo thường xuyên tiếp xúcvới âm dương trạch, dưới mồ mả tổ tiên hay mộ cổ có đồ vật gì, có thứnào mà ông này chưa từng nhìn thấy. Nhưng đồ vật ở trong ngôi mộ cổtrước mặt lại nằm ngoài tầm hiểu biết của ông này.
Bảy
Lại nói tiếp, Thôi lão đạo một mình đào bới, cật lực làm việc cả mộtngày mới đào sâu ngang thân ngôi mộ cổ. Lúc ngẩng đầu lên thì mặt trờiđã ngả về tây, ông này vội vàng thu thập dọn cuốc thuổng, cưỡi lừa ravề. Trời sẩm tối mới về đến thôn Huyền Đăng, đến đêm lại đóng cửa ngủtrong nhà. Chúng ta sẽ chỉ nói đến ý chính. Ông này liên tục ở lại thônHuyền Đăng ba ngày. Nửa đêm hôm nào cũng vậy, có rất nhiều người cứ liên tục ra khỏi thôn rồi lại đi vào. Thôi lão đạo đã lẳng lặng nhìn trộmmấy lần, lần nào cũng gặp tiết trời u ám, trong thôn không có lấy mộtánh đèn, tối om om không thể nhìn rõ được là người hay là ma quỷ. Ôngnày đã thử tìm cách moi từ trong miệng ông lão và đứa con vụng về ở bêncạnh xem có lộ ra cái gì không, nhưng đáng tiếc là hai cha con nhà đóít nói kiệm lời, hỏi chán cũng không nhận được một câu trả lời có tácdụng nào. Hơn nữa, thấy đã sắp mở được mộ cổ đến nơi, Thôi lão đạo bèntự nhắc nhở bản thân đừng có vẽ thêm chuyện làm gì, đến mai cùng lắm chỉ cần một buổi là có thể khai quật được phần mộ, lấy hết những thứ đánggiá rồi bỏ đi trong ngày luôn, không muốn ở lại cái thôn không có chỗnào là không kỳ quái này dù chỉ một ngày. Ông này tính toán rất hay,nhưng đến ngày hôm sau muốn đi cũng không thể đi được.
Sáng sớm tinh mơ, Thôi lão đạo nuốt vội mấy miếng lương khô rồi nhanh chóng đi đào mộ. Sau khi phá thủng lớp cao lanh trong cùng, ông nàynhìn thấy một cái huyệt xây bằng gạch cổ, chính giữa có một chiếc quantài bằng đá. Thôi lão đạo không có kinh nghiệm khai quật, bởi vậy lúccạy gạch đá lẫn mở nắp chiếc quan tài đó quả thực đã làm ông này mấtkhông ít thời gian và sức lực. Nhưng sau khi cạy được nắp ra, ông nàychỉ nhìn thấy bên trong chiếc quan tài bằng đá có mỗi bộ xương.
Thôi lão đạo thất vọng, không ngờ người chết trong ngôi mộ này chỉđược mai táng theo cách đơn giản nhất. Chắc là lúc còn sống, chủ nhâncủa ngôi mộ lo sợ sau này kẻ trộm sẽ đào mộ mình lên, bởi vậy dù bảnthân có tôn quý đến cỡ nào, lúc chết cũng chỉ dùng quần áo rẻ tiền, quan tài bằng đá để chôn cất, không mang theo một mẩu vàng bạc hay một miếng ngọc. Thôi lão đạo dậm chân thở dài: "Đúng là toi công mất vài ngày!Xem ra, mình không có cái phúc phận đó, ngay cả một đồng tiền rơi rớtcũng không được hưởng. . ."
Trong lúc đang than thân trách phận, ông này chợt nhìn thấy trongquan tài đá có một vật duy nhất chôn cùng người chết. Đó là một cái hồlô to khác thường, chắc hẳn là một đồ cổ hơn ngàn năm, có dây buộc bằngda trâu để có thể treo bên hông, nặng trịch giống như bên trong có chứarất nhiều thứ. Nhưng đến khi mở nắp dốc lên dốc xuống, bên trong lạichẳng có cái gì rơi ra. Thôi lão đạo suy đoán: "Cái hồ lô lớn này nhấtđịnh là vật mà lúc còn sống chủ nhân ngôi mộ vô cùng quý trọng, nếukhông thì đã chẳng chôn cùng trong quan tài đá, ta cứ mang về nhờ ngườikhác xem hộ một chút." Nghĩ vậy, ông này vái lạy bộ xương trong quan tài đá: "Quý đài* thăng tiên đã lâu, giữ lại vật ngoài thân này cũng chẳngcó tác dụng gì, chi bằng lại để cho bần đạo mang đi, dù sao cũng tốt hơn là để nó mai một trong đất vàng." Nói xong, Thôi lão đạo đóng nắp quantài đá lại, chèn gạch đá và lấp đất lại, sau đó nhét hồ lô vào bao tải,cưỡi lừa định đi khỏi nơi này ngay. Thế nhưng sắc trời đã tối, ông nàyđành phải ở lại "thôn Huyền Đăng" thêm một tối.
*Đài: cách xưng hô tôn kính của người xưa
Thôi lão đạo về thôn chui vào nhà, cài then cửa chính đóng chặt cửasổ. Nằm trên giường thao thức mãi mà không ngủ được, ông này bèn đứngdậy thắp nến, xem xét kỹ lưỡng cái hồ lô, thầm nghĩ: "Mặc dù đồ vậttrong mộ này không đáng giá một xu, nhưng dù sao cũng là một đồ cổ đúngchất. Lúc ra ngoài đi lại, cứ mang theo nó bên người, chắc chắn người ta sẽ cho rằng trong cái hồ lô này của lão đạo ta chứa đan dược thần diệunào đó. . ." Quá hưng phấn với ý tưởng đó, ông này vừa khoác chiếc hồ lô lên lưng thử xem sao, bất chợt nhớ ra một việc, thất thanh thốt lên:"Không hay!"
Đêm hôm khuya khoắt, Thôi lão đạo chớt nhớ ra, hôm ấy sau khi trở vềđã quên buộc con lừa lại. Ông này vẫn nuôi ý định cưỡi con lừa đó đếnchợ để bán, kiếm lấy vài đồng coi như có cái để mà xoay sở, nếu khôngthì trên người không một xu dính túi, làm thế nào mà đi lại ở bên ngoài? Ông này tức thời sốt ruột, giầy cũng không kịp đeo, lập tức tông cửaphòng chạy ra ngoài, chỉ mong sao con lừa kia dù không bị buộc nhưngcũng đừng có chạy đi đâu. Ông này vừa mới ló mặt ra ngoài xem xét, đúnglúc những hồn ma đen thui trong thôn đi ngang qua trước mặt.
Tám
Lúc bấy giờ trời sáng trăng, mặt đất phủ đầy sương trắng, Thôi lãođạo chợt nhận ra, những kẻ trước mặt mình hoàn toàn không phải là hồn ma của người dân trong thôn, bởi chúng ăn mặc quần áo mũ mão theo lối xưa, hoặc mặc giáp cầm đao, hoặc áo bào đai ngọc, hoặc áo rồng mũ phượng,trong số đó cũng không thiếu quái vật mặt xanh nanh vàng, tư thế đilại cứng đờ đầy quái dị, tay chân đều thẳng tắp, cách ăn mặc giống nhưnhững nhân vật trong các buổi diễn hí kịch của đoàn hát rong. Đang quâytròn xung quanh chiếc đèn đá giữa thôn, vừa nhìn thấy có người trongphòng đi ra, những kẻ này lập tới lao tới.
Thôi lão đạo rùng mình lạnh buốt toàn thân, thấy không ổn, vội vànglui về trong trong phòng, quên mất dưới chân còn có bậu cửa, vậy là ngãngửa xuống đất. Nhưng ứng với câu nói "sống chết có số", đáy cái hồ lôthu được dưới mộ cổ treo ở bên hông đập xuống đất, từ bên trong đột ngột bắn ra một quả cầu lửa. Lúc ấy, đám người ăn mặc quan phục thời xưa đãxúm lại gần sát ông này rồi, sau khi bị quả cầu lửa bắn trúng chínhdiện, toàn bộ bắt lửa bốc cháy phừng phừng, phát ra tiếng gào thảmthiết. Lửa cháy càng lúc càng mạnh, chỉ trong nháy mắt bọn chúng đã biến thành tro bụi. Cả khu vực nồng nặc mùi thối xác chết, rất lâu sau vẫnkhông chịu tan.
Thôi lão đạo giật mình tỉnh ngộ, bên trong cái hồ lô ở bên cạnh bộxương có lắp đặt cơ quan bằng lò xo, nhét đầy đất dẫn lửa của Tây Vực,đập mạnh để phát động, có khả năng phun ra Thiên Lôi Địa Hỏa. Nghe nóixưa kia nước Liêu đã từng có một vị Hỏa Hồ Lô Vương, còn khu vực này lại thuộc về địa phận của nước Liêu, bởi vậy bộ xương trong ngôi mộ cổ quánửa là của người này. Lúc bấy giờ ông này vẫn chưa hết kinh sợ, nhưngvẫn kịp nhận ra con lừa đã chạy mất rồi. Nhờ có con lừa bị buộc ở cửamấy ngày vừa rồi, do tiếng lừa hí có thể trừ tà, cho nên ma quỷ trongthôn dám bước vào cửa. Hôm ấy ông này quên không buộc dây, con lừa đãchạy đi mất, nếu không phải lúc đào trộm mộ thu được cái hồ lô Thiên Lôi Địa Hỏa thì sợ rằng khó thoát khỏi cái chết. Ông này chỉ muốn mau chóng rời khỏi nơi ma quái này, lảo đảo đứng dậy, chợt nhớ ra lương khô vẫnđể trong phòng. Bên ngoài loạn lạc, người chết đói la liệt khắp nơi, dùcó chạy trốn giữ mạng cũng phải vào lấy lương khô rồi mới chạy. Ông nàyđẩy cửa vào trong nhà định lấy lương khô, thế nhưng do tâm trí hoảngloạn, trong lúc vội vàng không kịp định hướng, vừa đẩy cửa ra đã pháthiện mình đã vào nhầm phòng, căn phòng đó là của hai cha con nhà nọ.
Dù bên ngoài ánh trăng sáng như gương, nhưng trong phòng vẫn tối đen. Đẩy cửa phòng ra, Thôi lão đạo vừa ngó vào đã lờ mờ nhìn thấy hai người phụ nữ. Ông này ngẩn người ra, dụi mắt nhìn kỹ lại. Ông lão và ngườicon ngớ ngẩn đứng như trời trồng trong phòng, trong đầu ông này tự hiểucó chuyện không hay, nhưng còn chưa kịp nghĩ ra rốt cục là có chuyện gìxảy ra thì đã thấy hai cha con nhà nọ đột ngột xoay người lại. Sau khiquay lại, hai người đã hoàn toàn biến thành phụ nữ, phát ra tiếng thútthít nỉ non, gương mặt kỳ dị, nhìn thế nào cũng không thấy giống ngườicòn sống.
Thôi lão đạo chợt nhận ra, sau lưng ông lão và người con ngớ ngẩn cómột vật thể giống như con rối bằng da người bám chặt vào, chúng cũngchẳng khác gì đám ma quỷ bên ngoài kia, tất cả đều là con rối bằng dangười thành tinh. Ông này định thả Thiên Lôi Địa Hỏa trong hồ lô ra đểthiêu hủy hai con rối bằng da người đó, nhưng lại sợ làm hại đến hai cha con nhà nọ. Cái khó ló cái khôn, ông này rút một cây châm thép trongl*иg ngực ra, đâm vào hai con rối bằng da người mỗi con một phát. Chợtvang lên hai tiếng thét chói tai, ông lão và đứa con ngớ ngẩn ngã gụcxuống đất, hai con rối bằng da người lảo đảo định chạy trốn. Nhìn thấythế, Thôi lão đạo vội vỗ vào đáy hồ lô, Thiên Lôi Địa Hỏa phụt thẳng vào hai con rối bằng da người, chúng lập tức bị đốt thành tro bụi.
Hai cha con nhà đó dần tỉnh lại, quỳ rạp xuống đất dập đầu binh binhcảm ơn ân cứu mạng của Thôi lão đạo. Thì ra thôn Huyền Đăng là nơi sốngtập trung của những nghệ nhân diễn kịch bóng. Kịch bóng còn được gọi làhí kịch đèn chiếu hoặc hí kịch chiếu bóng. Nhà nào trong thôn cũng cótay nghề gia truyền. Họ dùng da dê làm thành con rối, sau khi trời tốicăng một tấm vải trắng trước cây đèn chiếu sáng, nghệ nhân trốn phíasau, miệng hát theo câu chuyện, tay điều khiển con rối. Trên tấm vảitrắng sẽ hiện lên hình ảnh có màu sắc. Người trong thôn túm năm tụm bahợp nhau lại thành gánh hát, đi ra ngoài diễn hí kịch đèn chiếu để mưusinh. Toàn bộ nam nữ già trẻ ai ai cũng biết diễn, trình độ làm con rốicó thể nói là cao tuyệt. Mỗi khi đến dịp tế tổ hàng năm, họ phải căngvải trắng vây tròn xung quanh cây đèn đá trong thôn rồi diễn hí kịch đèn chiếu dưới ánh trăng.
Đời này qua đời khác đều bám vào nghề này để kiếm sống, tình trạngnày đã kéo dài cả mấy trăm năm. Nhưng chén cơm này không dễ nuốt trôi,bởi vì công việc này luôn đi đôi với tình trạng cạnh tranh gay gắt, đốithủ quá nhiều. Nếu muốn kiếm được tiền thì phải có tuyệt chiêu đặc biệtkhông giống ai, bởi vậy có người dân trong thôn đã gϊếŧ người rồi lột da nạn nhân ra để làm con rối. Khi biểu diễn bằng loại con rối bằng dangười, có khả năng biến giả thành thật, hình ảnh chẳng khác bao nhiêuso với người sống. Kể từ đó, nhà nào cũng đua nhau làm việc này. Nhữngngười đi ngang qua vào thôn Huyền Đăng tìm nơi ngủ trọ, thông thường sẽbị người trong thôn gϊếŧ hại để làm con rối bằng da người. Mặc dù tiềnkiếm được không ít, nhưng có ai ngờ âm khí của con rối bằng da người rất nặng. Sau khi để trong hòm gỗ trên trăm năm, chúng sẽ biến thành yêutinh hình người. Có một năm, sau khi diễn xong hí kịch đèn chiếu, họ đãnhất thời sơ sẩy quên không đóng kín rương, con rối bằng da người chuira tác quái, ăn sống nuốt tươi toàn bộ người trong thôn, sau đó tản rakhắp nơi quậy phá, cứ đến tối mới quay hết cả về đây. Toàn bộ cư dân của thôn Huyền Đăng chỉ còn lại ông lão và đứa còn là may mắn sống sót,nhưng hai người bị con rối bằng da người bám chặt sau lưng. Những nămqua, hai người vẫn bị cầm chân ở trong thôn, may nhờ có Thôi lão đạo hỏa thiêu con rối bằng da người, yêu quái sau lưng họ tức thì bị diệt.
Chín
Ông lão kể lại ngọn ngành câu chuyện cho Thôi lão đạo, chỉ hận kiếtxác không một xu dính túi, không biết báo ân bằng cách nào. Sau khi lụctung cả nhà, ông lão tìm được mấy cây đinh dài ba tấc, là loại đinhthuyền dùng để đóng quan tài, đưa chúng cho Thôi lão đạo, bảo rằng đâylà thứ dùng để khóa chặt rương ngày trước.
Bởi đào được hồ lô Thiên Lôi Địa Hỏa trong ngôi mộ cổ ở ngoài vùnghoang vu đã là tốt lắm rồi, cho nên Thôi lão đạo không còn đòi hỏi gìhơn. Thấy ông lão đưa cho mấy cây đinh đóng tài đinh, ông này nghĩ mãimà không hiểu ông lão có dụng ý gì. Những người biểu diễn hát rong ngoài đường rất kiêng kị đinh, bởi vì đυ.ng phải đinh tức là điềm báo bị đậpvỡ nồi cơm. Ông này suy đoán, vào nửa đêm nửa hôm chắc con lừa sẽ khôngchạy đi quá xa, có lẽ ở ngay ngoài rìa thôn, tìm được nó còn có thể bánlấy tiền, bởi vậy không còn tâm tư nói thêm vài câu với ông lão nữa,giữa đêm chạy ra ngoài tìm lừa. Nhưng nói thì dễ làm thì khó, con lừachẳng biết đã chạy đi đâu từ bao giờ, ông này lùng sục khắp cả vùng đấthoang cho đến lúc hừng đông, nhưng ngay cả lông lừa cũng còn chẳng tìmthấy được một cọng. Bởi vậy, trời vừa tảng sáng là ông này lại quay vềthôn Huyền Đăng, trong lòng cực kỳ chán chường, định chào từ biệt ônglão. Thế nhưng, trong phòng không có người nào, chỉ có hai bức tượng đất chỏng chơ trên mặt đất, hình dáng tướng mạo có đôi nét tương tự như hai cha con nhà nọ. Thôi lão đạo chấn động, lúc bấy giờ mới biết, do đượccúng bái đã nhiều năm, bức tượng tổ sư của thôn Huyền Đăng đã sinh ralinh, vội vàng nhặt mấy cây đinh đóng quan tài dưới nền nhà lên, khi cầm đến tay thấy nặng trịch, gõ vào nhau vang phát ra tiếng lanh lảnh. Thôi lão đạo có mắt nhìn hàng, trong lòng tự hiểu mấy cây đinh đóng quan tài đó không phải là vật tầm thường.
Thôi lão đạo ngẫm nghĩ: "Năm xưa, người dân thôn Huyền Đăng dùng conrối bằng da người để biểu diễn hí kịch đèn chiếu, chắc là để phòng người lũ rối tác quái, chẳng hiểu họ đã tìm được ở đâu mấy cây đinh đóng quan tài rồi thả vào rương chứa bọn chúng. Sau này, vì chủ quan nên đã quênkhóa rương, tạo cơ hội cho lũ con rối bằng da người chui ra tác quái,toàn bộ người trong thôn đã không thoát được kiếp nạn đó. Đến hôm nay,mấy cái đinh đóng quan tài này rơi vào tay lão đạo ta, chẳng biết chừngsau này sẽ có tác dụng trọng yếu." Bèn nhét số đinh đóng quan tài vàotrong người, khoác hồ lô Thiên Lôi Địa Hỏa lên lưng, châm nến lạy haibức tượng đất vài cái rồi tìm đường ra khỏi "thôn Huyền Đăng". Nghe nóiHà Nam xảy ra nạn đói chiến tranh loạn lạc, quan binh và nghĩa quân tànsát nhau ở khắp nơi, qua bên đó là cửu tử nhất sinh, ông này đành chuyển hướng đi về phía Quan Đông. Sau này, Thôi lão đạo vượt qua được hiểmnguy rồi quay trở về Thiên Tân vệ, lại bày quày xem bói kể chuyện thuyết thư như trước. Lúc hỏa thiêu con rối bằng da người, hồ lô Thiên Lôi Địa Hỏa của ông ta đã bị sử dụng hết công năng, đất dẫn lửa lưu huỳnh diêm tiêu cũng không đào đâu ra được, chiếc hồ lô rỗng đã không còn tác dụng gì.
Thôi lão đạo quen biết vị sư phụ già của đội tuần sông. Ông này từngbảo, khu vực hạ lưu chín sông của Thiên Tân vệ có thế phục long, xưa nay lũ lụt khó trừ, khi nào nhìn thấy mây đen trên trời xảy ra hiện tượngrắn hóa rồng, chắc chắn chỉ trong vòng vài năm nữa là sẽ xảy ra đại hồng thủy, đến lúc đó nước sẽ nhấn chìm Thiên tân vệ, cả người lẫn động vậtchết đuối vô số kể. Nếu như có thể tìm ra chỗ phát ra yêu khí sớm, có lẽ còn có khả năng trừ được kiếp nạn này, đến lúc đó sẽ cần phải dùng đếnmấy cây đinh đóng quan tài kia. Kể từ đó, ông này đã chôn số đinh đóngquan tài trong nghĩa trang miếu Hà Long. Từ cuối thời nhà Thanh cho đếnnăm 1958, cách nhau bởi thời kỳ dân quốc, chớp mắt đã vài chục năm trôiqua, chỉ còn Quách sư phụ là còn nhớ rõ việc này. Muốn đối phó vật ởtrong ngôi nhà bị ma ám ở ngõ hẻm kho lương, không có mấy cây đinh Thôilão đạo đã lưu lại chỉ sợ không làm nổi.
Lúc dỡ bỏ nghĩa trang miếu Hà Long vào thời kỳ mới giải phóng, Quáchsư phụ đã moi số đinh đóng quan tài đó lên, bọc kín bằng vải dầu, mấynăm qua vẫn chôn chặt dưới gầm giường gạch của nhà mình. Nhưng vấn đề là vật ở trong ngôi nhà bị ma ám ở ngõ hẻm kho lương đã trốn ở chỗ nào?Tại sao nhiều người tìm kiếm bao nhiêu lần như vậy mà vẫn không thể tìmra? Truyền thuyết về ngôi nhà bị ma ám của chưởng quầy tiệm quan tài nhà họ Bạch có chôn dấu bảo vật, thực ra bảo vật đó là thứ gì? Ông ta tựhiểu, một mình không thể làm được việc này, phải gọi mấy người anh emđáng tin tưởng đến giúp đỡ. Bởi vậy, ông ta bèn bảo Đinh Mão đi gọi LýĐại Lăng và Trương Bán Tiên đến để bàn bạc cách đối phó yêu ma trong"Ngôi nhà bị ma ám ở ngõ hẻm kho lương".