Chương 43

Phòng thu của đài KPMC, tiếng nói của thung lũng Maravilla, nằm trên đường Main, ngay trung tâm thị trấn Pico Mundo, trong một ngôi nhà gạch hiện đại ba tầng kiểu thời vua George, nằm giữa hai dinh thự thời Victoria đặt văn phòng luật Knacker & Hisscus và tiệm bánh Good Day.

Còn một tiếng nữa là trời sáng, đèn trong bếp của tiệm bánh đã được bật lên.

Khi tôi ra khỏi xe, con đường tràn ngập mùi bánh mì mới ra lò, bánh sữa vàng ươm và bánh ngọt hương chanh.

Không hề thấy bóng dáng ông kẹ.

Hai tầng dưới của đài KPMC là văn phòng kinh doanh. Phòng thu nằm trên tầng ba.

Stan “Spanky” Lufmunder là nhân viên trực. Harry Beamis, người xoay xở để trụ vững trong ngành thu thanh mà không có biệt danh, chính là nhà sản xuất chương trình “Cả đêm với Shamus Cocobolo”.

Tôi nhăn mặt đùa với họ qua khung cửa kính ba lớp ngăn cách giữa hành lang tầng ba và phòng kỹ thuật.

Tôi dùng tay làm điệu bộ cử chỉ, họ ra dấu đồng ý và tôi tiếp tục đi dọc hành lang, tiến đến cửa phòng phát thanh.

Loa trong hành lang bật khe khẽ bài “String of Pearls” của ca sĩ Glenn Miller huyền thoại, đĩa nhạc Shamus hiện đang phát trong chương trình.

Nhạc thật ra lấy từ đĩa CD, nhưng trong chương trình, Shamus dùng tiếng lóng thập niên 30 và 40.

Harry Beamis đã báo trước nên khi tôi vào phòng, Shamus bỏ tai nghe ra, chỉnh âm thanh vừa đủ để theo dõi chương trình rồi lên tiếng, “Ê, Phù thủy, chào mừng đến thị trấn Pico Mundo của bác.”

Đối với Shamus, tôi là Phù thủy Kì quặc, hay nói ngắn gọn là Phù thủy.

Bác cất giọng, “Sao con không có mùi dầu gội hương đào.”

“Xà phòng duy nhất con có là Neutrogena không mùi.”

Bác nhăn nhó, “Không phải chuyện giữa con và nữ thần kết thúc đó chứ?”

“Chuyện chỉ mới bắt đầu,” tôi quả quyết.

“Thật mừng khi nghe vậy.”

Tường bê tông nhẹ bọt xốp[41] khiến giọng chúng tôi dịu đi, nghe êm ái. Tròng kính râm của bác ấy có màu xanh dương như màu của mấy chai thuốc nhuận tràng Milk of Magnesia.

[41] Đây là một loại bê tông nhẹ kỹ thuật, có khả năng cách âm, cách nhiệt và chống ẩm tốt, tỷ trọng chỉ bằng 1/10 so với bê tông thường.

Da bác cũng đen đến mức ánh lên sắc xanh dương.

Tôi đến trước mặt bác và để tấm thẻ suy tưởng xuống, đập mạnh lên mặt bàn để gây tò mò cho bác.

Bác điềm đạm, không cầm nó lên ngay. “Hết chương trình, bác định ghé Quán Vỉ nướng, làm một chầu thịt đùi cạo sạch lông nướng chín, hành tây xắt sợi và bánh quy chấm nước sốt.”

Trong lúc vòng qua chỗ để micro, ngồi xuống ghế đối diện và đẩy một cái micro khác xoay sang bên, tôi nói, “Sáng nay con không đứng bếp. Nghỉ một ngày.”

“Con làm gì trong ngày nghỉ, đi chơi và thơ thẩn quanh cửa hàng lốp xe à?”

“Con nghĩ có thể sẽ đi chơi bowling.”

“Con đúng là đứa sôi nổi, Phù thủy ạ. Bác không biết làm sao người yêu của con theo kịp con.”

Giai điệu nhạc Miller bao trùm. Shamus nghiêng sang micro và tuôn ra một tràng ứng khẩu, kết hợp song song giữa bài “One O’clock Jump” của Benny Goodman và bài “Take the A Train” của Duke Ellington.

Tôi thích nghe Shamus trên đài và ngoài đời. Bác ấy sở hữu một chất giọng khiến Barry White[42] và James Earl Jones[43] nghe như người rao hàng viêm họng. Đối với thính giả của đài, bác là Velvet Tongue.

[42] Ca sĩ nhạc R&B.

[43] Diễn viên l*иg tiếng nổi tiếng

Từ một giờ đến sáu giờ sáng mỗi ngày trừ Chủ nhật, Shamus xoay vòng cái mà bác gọi là “âm thanh lôi kéo cuộc chiến to lớn” và thuật lại chi tiết các câu chuyện thú vui về đêm vào thời kì xa xưa.

Mười chín tiếng còn lại trong ngày, đài KPMC không bật nhạc mà ưu tiên cho các chương trình thảo luận. Ban giám đốc muốn ngừng phát thanh trong năm tiếng đồng hồ hiếm hoi nhưng giấy phép yêu cầu họ phải phục vụ cộng đồng hai mươi tư trên bảy.

Tình thế đó cho Shamus quyền tự do làm bất cứ điều gì bác ấy muốn, và điều bác ấy muốn là đưa chính mình và các thính giả mất ngủ đắm chìm vào thời hoàng kim của Big Band[44]. Thời đó, bác nói rằng âm nhạc là chân chính, và cuộc sống gắn chặt hơn với sự thật, lẽ phải và thiện ý.

[44] Thời kì xuất hiện các nhóm nhạc jazz, cuối thập niên 30 đến cuối thập niên 40.

Lần đầu tiên nghe đoạn rap này, tôi tỏ vẻ ngạc nhiên sao bác lại đồng cảm với thời kì có sự phân biệt rõ rệt ấy. Câu trả lời của bác ấy như sau, “Bác là người da đen, mắt không nhìn được, cực kì khôn ngoan và nhạy cảm. Không thời kì nào là dễ dàng đối với bác. Ít nhất nền văn minh phải văn minh thì khi đó mới có phong cách được.”

Hiện thời bác đang nói với thính giả: “Hãy nhắm mắt lại, hình dung ca sĩ Duke trong chiếc áo vest trắng đặc trưng, và nhập bọn cùng tôi, Shamus Cocobolo, lái chuyến tàu A đến Harlem.”

Mẹ đặt tên cho bác là Shamus vì muốn con trai trở thành thám tử. Khi bác hóa mù vào năm lên ba, sự nghiệp thi hành luật không còn là lựa chọn. Tên “Cocobolo” nảy ra từ bố của bác ấy, nghe đúng là người Jamaica.

Cầm tấm thẻ nhựa đen lên, đặt ngón tay cái và ngón trỏ của bàn tay phải ở hai cạnh trên dưới tấm thẻ, bác nói, “Một ngân hàng ngớ ngẩn nào đó trao cho con thẻ tín dụng à?”

“Con đang hi vọng bác có thể cho con biết nó ghi gì trên đó.”

Bác lướt một ngón tay qua tấm thẻ, không hẳn để đọc mà chỉ để xác định món đồ. “Ồ, Phù thủy, chắc con đâu nghĩ bác cần thẻ suy tưởng khi bác đã có Count Basie, Satchmo và Artie Shaw[45].”

[45] Các ca sĩ nổi tiếng.

“Vậy ra bác biết nó là cái gì.”

“Vài năm trước, người ta đưa cho bác cả tá những thứ này, đủ kiểu tư tưởng truyền cảm, cứ như thể người mù không thể nhảy múa nên họ phải trầm ngâm suy tư. Đừng phật ý nhé, Phù thủy, nhưng người hết sức điềm tĩnh như con mà lại đưa cho bác một tấm thẻ nhựa tâm linh kì cục như vậy, bác hơi ngượng thay con đó.”

“Không có gì. Nhưng con không đưa nó cho bác. Con chỉ tò mò dòng chữ Braille trên đó viết gì thôi.”

“Nghe vậy nhẹ cả người. Nhưng tại sao con tò mò?”

“Bản tính trời sinh đã vậy rồi.”

“Bác hiểu rồi. Không xía vào.” Bác ấy sờ ngón tay đọc tấm thẻ rồi nói, “Cha đẻ của Dối trá.”

“‘Cha đẻ của bói cá’?”

“Dối trá. Những điều không thật.”

Cụm từ quen thuộc với tôi, nhưng vì lí do nào đó, tôi không hiểu, có lẽ vì tôi không muốn hiểu, có lẽ vì tôi không muốn hiểu.

“Bọn xấu xa,” Shamus nói. “Cha đẻ của dối trá, cha đẻ của quỷ dữ, Chúa quỷ Sa Tăng. Chuyện gì đây, Phù thủy? Chẳng lẽ nền tôn giáo lâu đời của nhà thờ St. Bart giờ đây quá nhàm chán, con cần luồng khí mới để tâm hồn rung động sao?”

“Tấm thẻ không phải của con.”

“Vậy của ai?”

“Một y tá trong Bệnh viện đa khoa của hạt bảo con phóng thật nhanh ra sa mạc, ném nó qua cửa sổ, để gió cuốn bay đi.”

“Một chàng trai tốt bụng, kiếm sống lương thiện bằng cái xẻng chế biến thức ăn nhanh, chắc con đang đánh bạn với người cực kì quái gở.”

Bác ấy đẩy tấm thẻ về phía tôi, ngang qua chỗ để micro.

Tôi nhổm dậy khỏi ghế.

“Đừng để dòng chữ Braille đó lại đây nhé,” bác nói.

“Nó chỉ là một tấm thẻ nhựa tâm linh kì cục mà bác.”

Hai bóng phản chiếu của chính tôi nhìn tôi từ tròng kính xanh dương sẫm của bác.

Shamus nói, “Hồi đó bác biết nghi thức thờ cúng Quỷ Sa Tăng. Một gã tuyên bố căm ghét mẹ, nhưng chắc hắn thương bà ấy. Cảnh sát tìm thấy cái đầu đứt lìa của bà mẹ ở tủ lạnh nhà hắn, đựng trong túi nhựa đậy kín cùng với cánh hoa hồng để giữ nó không thối rữa.”

Tôi cầm lấy tấm thẻ suy tưởng. Nó lạnh ngắt.

“Cảm ơn bác đã giúp, bác Shamus.”

“Cẩn thận đấy, Phù thủy. Những người bạn lập dị thú vị thật không dễ tìm. Con mà chết bất ngờ, bác sẽ nhớ con lắm đó.”