Khoảnh khắc trong phòng để đồ thờ tiết ra bản chất toàn bộ cuộc sống của tôi: luôn luôn đứng giữa hai cánh cửa, đứng giữa một cuộc đời với người sống và một cuộc đời với người chết, giữa sự siêu việt và nỗi khϊếp đảm.
Bên kia căn phòng, Stormy gật đầu.
Trên ghế cầu kinh, một quyển kinh nhỏ chờ đợi vị linh mục quỳ xuống cầu nguyện.
Chắc chắn những chai rượu ban thánh thể được cất ở một trong các dãy tủ. Tôi có thể uống thứ nước giúp củng cố tinh thần đôi chút đó.
Tôi dựa sát cửa dẫn vào thánh đường để chống đỡ cánh cửa. Khi mở khóa, chốt cửa gây ra tiếng động khẽ làm liên tưởng đến dao cạo mài trên dây da.
Nếu Robertson đã sẵn sàng xộc vào tôi, chắc chắn gã phản công với việc chốt cài rời khỏi ổ khóa gắn trên khung cửa. Tất nhiên gã ít nóng vội và nhiều xảo quyệt hơn mức đã biểu lộ khi đứng trong nghĩa trang, vung ngón tay về phía chúng tôi.
Chắc gã nghi ngờ tôi đang dùng thân người chèn cửa đóng và tôi sẽ bật chốt cửa về vị trí đúng lúc gã cố xông vào phòng để đồ thờ. Điên khùng nhưng dù sao gã cũng có trực giác của riêng mình.
Gã Bob Robertson để gian bếp luộm thuộm với chén đĩa bẩn, vỏ chuối và vụn bánh vương vãi, không thể là nhà chiến lược khôn ngoan. Song gã Robertson giữ phòng làm việc ngăn nắp và lưu trữ những tài liệu chi tiết trong các ngăn tủ đầy khϊếp đảm lại khác hẳn kẻ sở hữu căn phòng khách chứa toàn đống tạp chí bậy bạ và mấy quyển tiểu thuyết đáng đọc.
Tôi không thể biết gã Bob Robertson nào đang đứng bên kia cánh cửa vào lúc này.
Khi tôi liếc nhìn Stormy, nàng làm cử chỉ vừa tỏ ý “làm tiếp đi” vừa có nghĩa “đồ dở hơi”.
Dựa người vào cửa với sự quả quyết không đổi, tôi xoay hẳn quả đấm qua trái. Nó kêu cót két. Tôi sẽ kinh ngạc nếu nó không phát ra tiếng.
Tôi bỏ người ra và hé cửa nửa phân... một phân... rồi mở hẳn.
Nếu Robertson đứng chờ tại một trong hai lối dẫn vào phòng để đồ thờ thì gã đang ở ngoài khu đất nhà thờ. Đứng trong sắc đỏ cuối ngày ngả màu hung hung, chắc hẳn trông gã như thứ thuộc về bên dưới tấm bia bằng đá granit.
Stormy bước đi khỏi chỗ đang đứng. Chúng tôi nhanh chóng cùng nhau trở lại thánh đường từ nơi chỉ mới hai phút trước, hai đứa còn rất hăm hở muốn lẩn trốn.
Con bướm đêm nhảy múa giữa ngọn đèn và một lần nữa, Chúa như trở mình trên cây thánh giá.
Hương trầm còn sót lại không thơm dịu như lúc nãy mà bốc mùi nồng chưa từng có, những ngọn nến tế lễ rộn lên vẻ vội vã của nhiều đốm lửa đang tụ lại sắp bùng lên.
Đi xuống hành lang nhà thờ, qua khỏi vị trí của đội hợp ca, băng qua cánh cửa ở chỗ xưng tội, tôi nửa muốn nửa không muốn Robertson nhảy xổ vào chúng tôi từ chỗ nấp không ngờ tới. Gã đã trở thành đối tượng mang đầy vẻ đe dọa trong tâm trí tôi và tôi sẽ không ngạc nhiên nếu gã buông mình xuống từ mái vòm, thình lình có thêm đôi cánh, một ác quỷ dữ dằn mang cái chết trong từng hơi thở.
Đang ở trong lối đi chính thì tiếng kính rơi vỡ loảng xoảng cực lớn đã tống khứ sự tĩnh lặng của nhà thờ sau lưng chúng tôi. Hai đứa xoay người, quan sát nhưng không thấy mảnh vụn nào.
Phòng để đồ thờ không có cửa sổ, và không có kính gắn trên cánh cửa dẫn ra khu đất. Tuy nhiên căn phòng đó, nơi chúng tôi vừa rời khỏi, dường như là điểm xuất phát của những âm thanh phá hoại kia. Chúng lại vang lên, to hơn lúc trước.
Tôi nghe tiếng ghế dài đâm sầm vào tủ đựng lễ phục, tiếng những chai rượu bị đập bể, tiếng cốc rượu lễ bằng bạc và những chén thánh khác dội ra khỏi tường và các dãy tủ, vọng lại tiếng kim loại khua lách cách.
Trong lúc gấp rút tẩu thoát, chúng tôi còn để đèn bật sáng trong căn phòng đó. Giờ đây, qua cánh cửa để mở, có thể gián tiếp nhìn thấy chuyển động: một mớ hỗn độn những cái bóng nhấp nhô và những tia sáng lờ mờ.
Tôi không biết chuyện gì đang xảy ra và tôi không có ý định quay lại phòng để đồ thờ để nhìn ngó. Nắm lại bàn tay của Stormy, tôi cùng nàng chạy dọc theo lối đi chính giữa, suốt chiều dài gian giữa, qua cánh cửa ra tiền sảnh.
Ra khỏi nhà thờ, xuống bậc tam cấp, chúng tôi chạy trốn trong ánh chiều tà gần như đã đổ máu đến chết, chỉ còn chút ít sắc đỏ, và đã bắt đầu kéo tấm vải tím rịm lên bao phủ đường phố thị trấn Pico Mundo.
Trong giây lát tôi không thể đút chiếc chìa khóa run rẩy vào công tắc khởi động xe Mustang.
Stormy giục tôi nhanh lên, cứ như việc “nhanh lên” không phải là ý định của tôi, cuối cùng chìa khóa cũng lọt vào khe và động cơ lại rền vang hoạt động.
Để lại vết cao su khá rõ trước nhà thờ St. Bart, chúng tôi phóng trên lốp bánh xe bốc khói qua một khu nhà rưỡi, nhanh đến mức gần như dịch chuyển tức thời, sau đó tôi mới lấy hơi để nói, “Gọi cảnh sát trưởng.”
Nàng có điện thoại di động riêng và nàng nhấn số điện thoại nhà của ông Wyatt Porter mà tôi cho. Nàng chờ đợi điện thoại reo và cất giọng, “Chào bác, con Stormy đây,” lắng nghe rồi nói, “Dạ, nó nghe như dự báo thời tiết phải không ạ. Odd cần nói chuyện với bác.”
Tôi cầm lấy điện thoại và tuôn một tràng, “Bác ơi, nếu bác cho xe đến nhà thờ St. Bart thật nhanh, bác có thể tóm cả gã Robertson đang đập phá phòng để đồ thờ, mà không chỉ phòng để đồ thờ, có lẽ toàn bộ nhà thờ.”
Ông ấy bảo tôi giữ máy và gọi cú điện thoại bên đường dây khác.
Cách xa nhà thờ St. Bartholomew ba khu nhà, tôi tấp vào xe Mustang vào một quán thức ăn nhanh hương vị Mêxicô.
“Ăn tối nhé?” tôi hỏi Stormy.
“Sau tất cả mọi chuyện trong nhà thờ ư?”
Tôi nhún vai, “Toàn bộ phần còn lại của cuộc sống chúng ta sẽ diễn ra sau tất cả mọi chuyện trong nhà thờ. Về phía anh, anh định ăn trở lại, và sớm chừng nào tốt chừng ấy.”
“Nó sẽ không ngang bằng bữa tiệc trên tháp của em đâu.”
“Chứ sao?”
“Em đói chết đi được.”
Cầm điện thoại áp vào tai và lái xe một tay như thể chuyện đó vẫn hợp pháp, tôi ngoặt chiếc Mustang vào hàng xe cộ chờ chạy lên ô cửa bán hàng.
Khi cảnh sát trưởng Porter trở lại, ông hỏi, “Tại sao gã cố ý phá hoại nhà thờ St. Bart?”
“Không có manh mối, bác à. Gã cố bẫy con và Stormy trong tháp chuông nhà thờ...”
“Các con làm gì trong tháp chuông?”
“Dạ ăn ngoài trời.”
“Bác cho rằng điều đó có ý nghĩa với con.”
“Dạ phải. Thú vị lắm. Chúng con dùng bữa tối trên đó mỗi tháng vài lần.”
“Con trai à, bác không muốn lúc nào đó phải bắt hai đứa vì tội ăn tối trên cột cờ trụ sở tòa án đâu đấy.”
“Có lẽ chỉ món khai vị thôi bác, không bao giờ ăn tối cả.”
“Nếu muốn ghé qua đây, hai bác vẫn có thể mời các con món thịt nướng. Dẫn theo Elvis luôn.”
“Con cho ông ấy xuống xe ở nhà thờ Baptist rồi bác. Con đang đi với Stormy, xếp hàng mua bánh nhân thịt chiên giòn, nhưng dù sao con cũng cảm ơn bác.”
“Kể cho bác nghe về tên Robertson đi. Bác cử người đến canh chừng ngôi nhà của gã ở Camp’s End, nhưng gã chưa về nhà.”
Tôi nói, “Gã ở nghĩa trang bên dưới, ngước nhìn chúng con trên tháp chuông. Gã giơ tay khiếm nhã với chúng con rồi còn nhấn nhá nhiều lần và sau đó đuổi theo chúng con.”
“Con có nghĩ gã biết con đã vào nhà gã không?” cảnh sát trưởng hỏi.
“Nếu gã chưa hề về nhà từ lúc con vào đó thì con không hiểu làm cách nào gã biết được, nhưng chắc hẳn gã biết. Chờ con chút nhé bác.”
Chúng tôi đến tấm bảng thực đơn.
“Bánh nhân thịt cá kiếm chiên giòn lấy nhiều salsa[33], bắp nướng và một li coca lớn,” tôi nói với con lừa đội mũ rộng vành đeo trên miệng micro để gọi thức ăn. Tôi nhìn sang Stormy. Nàng gật đầu, “Lấy mỗi thứ hai phần.”
“Con đang ở quán Mexicali Rose hả?” cảnh sát trưởng hỏi.
“Dạ phải.”
“Họ có món churro[34] ngon tuyệt. Con nên thử xem.”
[33] Một loại nước sốt đặc thù của người Mêhicô.
[34] Một loại bánh rán dài của người Tây Ban Nha.
Tôi nghe lời khuyên của ông và đặt hai phần với con lừa, như khi nãy, nó lên tiếng cảm ơn bằng giọng một thiếu nữ.
Khi dòng xe nhích lên, tôi nói, “Lúc tụi con thoát khỏi tên Robertson trong nhà thờ, chắc hẳn gã giận điên lên. Nhưng tại sao gã quyết định trút giận lên tòa nhà thì con không biết.”
“Hai chiếc xe đang trên đường đến St. Bart, không còi hụ. Thậm chí giờ có lẽ xe đã đến nơi. Nhưng hành động phá hoại, nó không đạt tới nỗi kinh hoàng mà con nói gã phạm phải.”
“Dạ đúng. Chưa xong đâu. Và không đầy ba tiếng nữa sẽ sang ngày mười lăm tháng Tám.”
“Nếu người của bác có thể tống gã vào tù qua đêm vì tội phá hoại thì chúng ta sẽ có cớ xen vào cuộc sống của gã. Có thể điều đó cho ta cơ hội tìm ra việc to tát hơn mà gã định làm.”
Sau khi chúc cảnh sát trưởng may mắn, tôi nhấn nút tắt và đưa lại điện thoại cho Stormy.
Tôi nhìn đồng hồ. Nửa đêm, và ngày mười lăm tháng Tám, hệt một cơn sóng thần, cao lớn như tòa nhà, đang đuổi theo chúng tôi với sức mạnh thầm lặng nhưng chết người.