Lúc này, Tuấn Hạc đã bắt kịp Tần Thái Bách và lão bộc cạnh cánh rừng già :
- Tần công tử! chúng ta vào trong rừng già đàm đạo một lát.
Thái Bách quay lại, cười hỏi :
- Ta đánh Đơn huynh có đau không?
Tuấn Hạc lắc đầu, ngồi xuống thảm cỏ lá khô rồi nghiêm giọng :
- Tại hạ không phải là Đơn Thu Cốt mà cũng chẳng phải là Doãn Tự Vân.
Thái Bách dụi mắt ngơ ngẩn :
- Thế này là thế nào?
Tuấn Hạc bèn kể lại khúc nôi từ nông trại Anh Túc cho đến âm mưu của Thiên Độc giáo.
Thái Bách nghe xong, mồ hôi lạnh toát ra.
Gã quay lại hỏi lão già hói :
- Có đúng thế không, Tung lão?
Lão ta tuy câm điếc nhưng có thể nhìn miệng người mà đoán ra câu nói, vì vậy, lão gật đầu xác nhận.
Tần công tử buồn bã nói :
- Trong việc này, còn nhiều điều bí ẩn, tiểu đệ phải về hỏi cho ra lẽ mới được. Chỉ hy vọng rằng gia phụ chẳng phải tay sai của người Mông, nếu không, tiểu đệ còn mặt mũi nào mà sống nổi.
Tuấn Hạc an ủi gã :
- Tần huynh, dầu sự thể có thể nào, chúng ta cũng vẫn là bằng hữu. Việc Luân Hồi ma cung phục vụ ngoại bang vẫn chưa có bằng chứng xác thực.
Thái Bách chán nản, nói lời cáo biệt. Gã đi rồi, Tuấn Hạc mới nhớ lại rằng họ Tần có thể bị Thiên Độc giáo hoặc ai đó chặn bắt. Tấm họa đồ kho báu kia sẽ khơi dậy lòng tham của nhiều người. Họ sẽ bắt cho được Thái Bách để đổi lấy họa đồ. Nhưng chàng lại nghĩ rằng, Luân Hồi Đế Quân tất sẽ bảo vệ ái tử của mình.
Chàng khôi phục dung mạo Văn nhị công tử, cởi bỏ bộ võ phục màu đen bên ngoài. Tấm trường bào thư sinh bên trong may bằng tơ thượng hạng nên không nhàu nát.
Nửa canh giờ sau, Tuấn Hạc đến một trấn lớn - cách Hoa Sơn ba chục dặm. Chàng ăn uống rồi mua ngựa và ít quần áo.
Trưa ngày hai mươi sáu, chàng đến bến đò sông Hoàng Hà, nhận ra hàng trăm hào kiệt võ lâm đang chờ sang sông. Thấy có cả Thiết Long và Nhật Nguyệt song ma, chàng ẩn vào chỗ kín đáo, cải trang lần nữa.
Hàn Khiết Doanh đã trao cho chàng đến bốn chiếc mặt nạ để phòng thân. Giờ đây, Tuấn Hạc trở thành một nho sĩ tứ tuần không râu, mặt mũi hiền lành, trắng trẻo. Chàng ung dung thúc ngựa đến cạnh đám đông, đứng chờ đò sang.
Nhìn gương mặt sầu héo của Thiết Long, chàng định nói cho lão biết mình đang có mặt nơi này. Nhưng sợ lão không giữ được trầm tĩnh chàng đành im lặng. Nuôi dưỡng mối nghi ngờ trong suốt mấy năm dài, chẳng thể nhất thời mà quên đi được. Vì vậy, giữa chàng và Thiết Long vẫn còn một khoảng cách nhất định Tuấn Hạc rất đau khổ vì chuyện này.
Cuối cùng thì quần hùng cũng sang được bờ Nam. Từ đây, họ tỏa đi các hướng, trở về cố quận. Số người xuôi theo hướng chính Nam chỉ độ hai chục.
Tuấn Hạc không ngạc nhiên khi thấy Vô Giới hòa thượng theo sát Thiết Long, cùng ông cười nói vui vẻ. Cha chàng là bậc anh hùng hào sảng, dễ mến và thích kết giao, hòa thượng kia tuy hơi quái dị nhưng cũng là một hảo hán kiệt xuất họ thân nhau cũng là phải đạo.
Đám hào khách râm ran bàn tán về đại hội Hoa Sơn, ai nấy đều không hiểu vì sao Doãn Tự Vân không trở lại nhận ngôi Minh chủ? Và nhất là việc gã công khai tiết lộ vai trò nội gián của cha gã là Đông điện chủ Ma cung. Phen này, lão ta chắc chắn khó mà toàn mạng. Hơn nữa, Thiên Độc giáo cũng chẳng yên thân với Luân Hồi Đế Quân.
Thiết Long cao giọng :
- Tại hạ cho rằng Doãn Tự Vân muốn Ma cung và Thiên Độc giáo chém gϊếŧ lẫn nhau. Tự Vân là con riêng của Giang Lăng Thần Nữ nên đâu cần đến cơ nghiệp của họ Ôn? Còn về lão Điện chủ họ Doãn kia chắc cũng đã cao chạy xa bay từ trước rồi.
Vô Giới cười khanh khách :
- Văn thí chủ luận việc rất chính xác, nhưng bần tăng lại có ý khác.
Nhật Ma nóng nảy hỏi ngay :
- Hòa thượng ngươi nghĩ gì sao không nói phứt ra đi.
Vô Giới nghiêm giọng :
- Bần tăng đoán rằng gã ta cũng chẳng phải Doãn Tự Vân. Kẻ đã mang được một lớp mặt nạ thì cũng có thể còn lớp thứ hai.
Cao luận của gã khiến ba người kia tỉnh ngộ.
Nhật Ma vỗ đùi rú lên :
- Đúng thế! Gã ấy chính là tiểu quỷ Văn Tuấn Hạc. Ngoài Hạc nhi ra, không ai có thể biết được Hoàng Long tiên pháp!
Tuấn Hạc thầm khâm phục đầu óc của Vô Giới hòa thượng. Thiết Long thì vui mừng khôn xiết :
- Hay lắm! Hay lắm! Thế mà ta không đoán ra.
Vô Giới tủm tỉm hỏi :
- Dám hỏi lệnh lang học nghệ với cao nhân nào?
- Đối với đại sư tại hạ không dám giấu, hắn là truyền nhân của Cuồng Kiếm Thần Y Công Tôn tiền bối!
Vô Giới ngẩn người xoa đầu than :
- Thế thì bần tăng địch không lại là phải rồi!
Bỗng từ xa vọng lại tiếng khí giới chạm nhau và tiếng quát tháo. Bọn Thiết Long vội thúc ngựa phi mau để xem thử. Tuấn Hạc bám theo nhưng cách xa họ mười mấy trượng.
Thì ra, trên ngọn đồi nhỏ cách đường quan đạo nửa dặm, cuộc ác chiến đẫm máu đang diễn ra. Phe trên đồi gồm mấy chục kiếm thủ áo đen đang liều mình cố thủ để bảo vệ cho một chàng công tử áo lam. Chàng ta chính là Tần Thái Bách, ái tử của Luân Hồi Đế Quân. Phe đang vây đánh tuy mặc y phục đủ màu nhưng chắc chắn là tín đồ Thiên Độc giáo. Ngay cạnh đường có cắm một ngọn đại kỳ thân hình rắn rít. Phe này đông gấp ba lần nên chiếm được thượng phong.
Rải rác từ đường vào đến chân đồi là mấy chục xác chết của hai bên. Một lão già râu dài đến ngực đang đứng dưới đại kỳ đốc chiến, thấy bọn Thiết Long đến liền quát lớn :
- Đây là chuyện riêng của Thiên Độc giáo, các ngươi mau cút đi.
Thực ra chẳng ai muốn dây vào cuộc chiến giữa hai phe tà ma, nhưng chính lời nói trịch thượng kia đã gây tác dụng ngược lại. Nguyệt Ma cười the thé :
- Ngươi chỉ là loại chó săn của họ Ôn, thế mà dám bảo lão nướng cút đi ư?
Hân Hàn Thúy còn ôm mối hận Động Đình hồ nên vung trượng đánh liền. Lão râu dài nhận ra Nhật Nguyệt song ma, cũng nhớ đến cái chết của Tam, Tứ hộ pháp và Nhị tướng. Lão bèn nhổ phăng cây đại kỳ phản công. Lão ta chính là Chưởng kỳ lệnh sứ Cao Viên Lý của Thiên Độc giáo. Cây cờ kia cũng là vũ khí của họ Cao.
Cán cờ bằng thép luyện, mũi nhọn hoắt như mũi giáo. Còn lá đại kỳ được dệt bằng tơ Thiên Tầm đất Miêu Cương nên rất bền chắc. Cao Viễn Lý vũ lộng lá cờ lớn bằng mảnh chiếu, tạo thành luồng gió rất mạnh. Nó còn có tác dụng che phủ nhãn tuyến đối phương.
Nhưng rất tiếc, đối thủ của lão lại là một bậc tiền bối thành danh, có trên sáu mươi năm công lực. Nguyệt Ma lạnh lùng múa tít. Quải Trượng xông vào đám mây kỳ ảnh. Tiếng thép chạm nhau chan chát và họ Cao biến sắc, cố giữ chặt lá cờ.
Nhật Ma, Thiết Long, Vô Giới hòa thượng cũng xuống ngựa, tấn công bọn giáo đồ Thiên Độc giáo. Những người đồng hành phân vân một lúc cũng lao theo.
Nhờ vậy áp lực quanh đỉnh đồi giảm đi, phe Ma cung có thể thay nhau chống cự và băng bó vết thương. Lát sau, họ đánh thốc xuống mở đường máu mà thoát thân. Tần Thái Bách giờ đây đã mê man, nằm gục trên lưng lão bộc họ Tung.
Tuấn Hạc vẫn kiên nhẫn không xuất thủ. Chàng đoán rằng lát nữa đây, Luân Hồi Đế Quân và Thiên Độc giáo chủ sẽ xuất hiện. Hơn nữa, toán kiếm thủ Ma cung vô cùng kiêu dũng, đã tiến được đến chân đồi.
Có lẽ bọn Thiên Độc giáo đã dùng hết số ám khí và chất độc nên chẳng còn gì để tung ra nữa. Tuy quân số đông đảo nhưng gặp những cao thủ như Song ma, Thiết Long và Vô Giới hòa thượng thì chúng tan tác ngay.
Ngoài Chưởng kỳ lệnh sứ, còn có hai lão già võ công rất cao siêu. Nhật Ma cầm chân cả hai lão để Thiết Long và Vô Giới rảnh tay tàn sát.
Thanh Ngô Câu kiếm xanh biếc trong tay Thiết Long liên tiếp chém bay những chiếc thủ cấp hay những cánh tay của bọn giáo đồ Thiên Độc giáo, còn Vô Giới hòa thượng luôn miệng cười ha hả và quyền cước tung ra như chớp giật.
Tâm trạng Tuấn Hạc giờ đây rất mâu thuẫn. Một mặt, chàng chán ghét cả hai phe Thiên Độc giáo và Ma cung. Mặt khác, chàng lại lo lắng cho thương thế của Thái Bách. Chờ mãi không thấy Luân Hồi Đế Quân xuất hiện, chàng thầm nghĩ có thể lão không có mặt ở Hoa Sơn. Nếu không, lúc chàng uy hϊếp Thái Bách, lão đã ra mặt rồi. Tuấn Hạc toát mồ hôi nghĩ đến việc Thiên Độc giáo chủ sẽ kéo thêm cao thủ đến. Lão ta đã dự tính đến lúc lấy được họa đồ, tất sẽ đưa nhiều người đến Hoa Sơn. Khi ấy ngay cả bọn Thiết Long cũng khó thoát thân.
Tuấn Hạc muốn kiểm tra xem trong đám ấy có cao thủ của Biến Hình môn hay không, liền thay trâm cài tóc. Lập tức, một vóc dáng quen thuộc chạy đến bên chàng. Lão già to béo này chính là Vô Ảnh Đao Đồng Túc Luân. Họ Đồng nhìn chàng với cặp mắt hân hoan, nghẹn ngào nói :
- Thiếu môn chủ! Thuộc hạ xin chờ lệnh.
Tuấn Hạc biết gã thực lòng vui mừng khi mình còn sống. Chàng cười bảo :
- Chuyện ta thoát chết rất dài dòng. Giờ hãy lo việc trước mắt cái đã. Tổng số anh em được bao nhiêu người có mặt nơi này?
- Dạ bẩm! Bốn chục người.
- Được! Các hạ cho anh em nhập cuộc, tiêu diệt nhanh bọn Thiên Độc giáo.
Đồng Túc Luân hăng hái chạy đi. Lát sau, trong đám khách quan chiến, có mấy chục người rút đao xông lên Đồng Túc Luân quát vang :
- Hãy gϊếŧ sạch bọn Thiên Độc giáo.
Toán cao thủ Biến Hình môn hành động rất quyết liệt. Họ tung ám khí gϊếŧ liền mười mấy tên. Cũng may, bọn giáo đồ Thiên Độc giáo đã đem hết bửu bối đối phó với các kiếm thủ Ma cung, nếu không, đối phương sẽ khốn đốn vì những vũ khí cực độc của họ. Thiên Độc giáo vốn dương danh võ lâm nhờ chất độc của họ.
Thấy có người đến hỗ trợ, Thiết Long và Vô Giới quay sang tấn công hai đối thủ của Nhật Ma.
Văn Chí Lãm gầm lên, múa tít Ngô Câu kiếm chém vào vai tả lão già cao gầy. Lão ta đang phải đối phó với cây Hoàng Long Tiên nên tả chưởng giáng mạnh.
Thiết Long cắn răng chịu đòn, tiếp tục lao đến, đâm thủng ngực đối phương. Lão già thứ hai cũng trúng một quyền như búa bổ của Vô Giới hòa thượng, hồn du Địa phủ.
Bên kia, Nguyệt Ma bật cười ghê rợn, lao vào Chưởng kỳ lệnh sứ. Chiêu “Tống Hữu Tây Thiên” cực kỳ ảo diệu và mãnh liệt, đánh bật cán đại kỳ khỏi tay đối thủ và quét ngay lưng lão Cao Viễn Lý gãy xương sống, chết không kịp ngáp.
Cuối cùng, chẳng còn một tên giáo đồ Thiên Độc giáo nào chạy thoát. Vô Ảnh Đao cao giọng :
- Chúng ta phải rút cho mau, quân tiếp viện đối phương sắp đến.
Mọi người lập tức lên ngựa phi nhanh, để lại chân đồi hơn trăm tử thi.
Trời sẫm tối, đoàn người mới tới Trinh Châu, hòa vào cảnh náo nhiệt mà ẩn mình.
Thế lực Thiên Độc giáo rất đáng sợ nên sáng hôm sau, phe Ma cung phải cải trang, đi lẫn với các đoàn khách thương hồ, chỉ có bọn Thiết Long là vẫn giữ nguyên diện mạo, hiên ngang đi tiếp về Nam.
Tuấn Hạc đi theo họ vì không thấy phe Ma cung đâu cả. Có lẽ chúng đã đưa Thái Bách đi từ lúc nửa đêm?
Cuộc hành trình êm ả trong suốt bốn ngày. Khi họ còn cách Hứa Xương mười dặm thì bị chặn lại ở bìa một cánh rừng. Thiên Độc giáo chủ Ôn Thiên Bảo và tám mươi cao thủ đã chờ sẵn Tuấn Hạc thắc mắc, không hiểu lão ta đi đường nào mà lại đến đây trước bọn chàng?
Ôn lão lạnh lùng bảo :
- Thiết Long! Lão phu chưa hỏi tội Văn gia bảo là đại phúc cho ngươi, sao còn dám xen vào chuyện của bổn giáo?
Thiết Long cười nhạt :
- Lão phu cũng chẳng ưa gì bọn Ma cung, nhưng do lão Chưởng kỳ lệnh sứ kia quá khinh người đấy thôi.
Tuấn Hạc thấy có đến bốn lão hộ pháp áo vàng đứng cạnh Ôn giáo chủ, chàng biết trận này lành ít dữ nhiều. Vô Ảnh Đao tiến đến gần hỏi nhỏ :
- Thiếu môn chủ tính sao?
Tuấn Hạc không thể để Thiết Long mất mạng, cố nghĩ cách đối phó. Trước đây, chàng chẳng hề quen với việc mưu mô, thủ đoạn, cố giữ một lòng trung kiên, chính trực. Nhưng sau những tao ngộ vừa qua, chàng hiểu rằng đã dấn thân vào chốn giang hồ, tất phải quyền biến, cơ trí.
Tuấn Hạc suy nghĩ rất nhanh :
- Các hạ cứ lên tiếng xin đi qua. Sau đó bất thần tập kích vào lưng bọn chúng.
Vô Ảnh Đao nhìn chàng với vẻ khâm phục, quay lại dặn dò anh em. Xong xuôi, gã thúc ngựa lên phía trước, gãi đầu, ấp úng nói :
- Bẩm chư vị anh hùng, bọn tiểu nhân chỉ là đám lương dân vô tội, buôn bán kiếm miếng ăn cho thê tử. Mong chư vị cho phép đi qua để kịp chuyến hàng.
Thiên Độc giáo chủ thấy phe mình đã làm ách tắc đường quan đạo, khiến cho mấy chục cỗ xe hàng và hơn trăm người ngựa phải chờ đợi liền gật đầu :
- Được! Chư vị cứ đi qua, bổn giáo chẳng phải bọn cướp đường.
Lão ra lệnh cho đám giáo đồ đứng vào vệ đường nhường cho bách tính đi qua.
Tuấn Hạc và bốn mươi cao thủ Biến Hình môn cố tình đi sau cùng. Thủ pháp hóa trang của họ thiên hạ vô song nên ai cũng trông rất hiền lành yếu đuối. Gia dĩ, loan đao lại giấu kín trong quần, dọc theo đùi, nên không ai biết được.
Đoàn người vừa đi qua khỏi, bọn giáo đồ Thiên Độc giáo lập tức dàn hàng ngang chặn kín mặt đường.
Bọn Thiết Long mừng rỡ tấn công ngay. Ôn Thiếu Bảo không thèm ra tay, đứng vào vệ đường khoanh tay quan chiến, để bốn lão áo vàng đối phó.
Họ chính là Đại hộ pháp Cố An Tử, Nhị hộ pháp Cung Vĩnh Thống, Ngũ hộ pháp Cốc Tòng Châu, Bát hộ pháp Dương Linh Lạc. Bốn lão này không hề khách sáo, rải ngay độc phấn để chiếm tiên cơ. Nhưng may thay, Thiết Long cho ba người kia uống Phòng Độc đan của Tuấn Hạc nên không bị ảnh hướng gì. Họ thản nhiên xông qua luồng phấn độc, như không hề biết sợ chết.
Chính yếu tố bất ngờ này đã khiến cho họ chiếm được tiên cơ. Bốn lão hộ pháp bị dồn cho cuống cả tay chân.
Toán giáo chúng Thiên Độc giáo cũng phóng độc châm và nhận được kết quả y như các hộ pháp. Bọn đao thủ Biến Hình môn đều được uống Phòng Độc đan.
Tuấn Hạc đã lén nhảy lên một cây hoàng cam rậm rạp gần đấy, chờ cơ hội xuất thủ.
(Tập tục trồng cây ven đường đã có từ thời Tiên Trần. Và đến năm thứ hai mươi bảy, Tần Thủy Hoàng cho đắp đường giao thông rộng hai mươi bước, hai bên đường cứ cách ba trượng trồng một cây tùng. Cây trên đường không những cho bóng mát mà còn bảo vệ đường bởi vậy, được các triều đại nối tiếp duy trì)
Ôn giáo chủ biến sắc khi thấy phe đối phương không sợ chất độc. Lão chưa kịp ra tay thì Bát hộ pháp Dương Linh Lạc đã bị Nguyệt Ma giáng một trượng vào đầu. Tiếp đó, Nhật Ma thắt đứt cổ Ngũ hộ pháp Cốc Tòng Châu.
Song ma rảnh tay, nhảy đến tấn công Thiên Độc giáo chủ. Ôn Thiếu Bảo cười ngạo mạn, vung độc kiếm chống đỡ. Lúc này mới thấy được chân bản lãnh của họ Ôn. Một mình lão đấu với Song ma mà vẫn không chịu lép. Tuấn Hạc kinh hãi nhận ra pho kiếm pháp kia cực kỳ hiểm ác và ảo diệu. Những luồng độc chưởng phát ra từ tay tả của lão chứng tỏ một tu vi thâm hậu, hơn cả tuổi tác.
Chàng nhớ đến thủ pháp Thiên Độc thần châu lại càng thêm lo lắng. Ôn Tiểu Băng đã tìm nói cho chàng biết rằng đó là tuyệt học vô thượng của Độc môn. Chất độc được tích lũy nhiều năm trong cơ thể được đẩy ra ngoài theo kinh Thủ Thái Dương Tiền Trường, qua huyệt Thiếu Trạch - ở đầu ngón út.
Giọt nước độc này tụ lại thành viên bi nhỏ và sẽ vỡ tan khi chạm phải bất cứ một lực nhỏ nào. Nó lại bay ra rất âm thầm nên đối phương không bao giờ ngờ đến. Giải dược duy nhất có công hiệu là Thiên Độc đan của dòng họ Ôn.
Nhưng không hiểu sao đến giờ này mà Ôn giáo chủ vẫn chưa sử dụng đến tuyệt học ấy. Lão rú lên cao vυ"t và đám giáp sĩ trong rừng chạy ra.
Tuấn Hạc đã chạm trán chúng một lần ở Động Đình hồ nên ngao ngán thở dài. Chàng tung mình xuống tấn công Ôn lão ma. Chỉ có cách đả thương lão mới vãn hồi được cục diện.
Mượn sức bật của cành cây, Tuấn Hạc vượt khoảng cách bốn trượng, chụp lưới chưởng xuống đầu đối phương.
Chiêu “Hồng Lạc Mãn Kính” (hoa hồng rụng đầy vườn) này chàng mới sử dụng lần đầu. Chưởng ảnh trùng trùng, giăng mắc và thoáng có màu hồng nhạt. Chưởng phong chỉ hiu hiu như gió Xuân chứ không mạnh mẽ gì.
Ôn lão ma cơ trí hơn người, biết ngay chiêu thức kia không hiền lành như vẻ bên ngoài, lão vung tả thủ phóng Thiên Độc thần châu, đón đánh từ xa.
Độc thủy vỡ tan, hóa thành làn sương mù mịt, bao phủ lấy đối phương. Nhưng gã lạ mặt không hề rơi xuống mà vẫn tiếp tục lao đến. Một đạo chưởng kình từ trong đám hoa hồng kia bay vào ngực lão. Ôn Thiếu Bảo trúng đòn, đau đớn hự lên, máu phun thành vòi, quay mình đào tẩu.
May mà Song ma đã chạy xa để tránh làn sương độc nên không ai cản đường lão tặc. Tuấn Hạc nể lão ta là thân phụ Tiểu Băng nên đã giảm đi ba thành lực đạo, nếu không, Ôn Thiếu Bảo chẳng thể toàn mạng. Hai lão hộ pháp còn lại thấy Giáo chủ bôn đào cũng vội quát thuộc hạ rút lui.
Vô Ảnh Đao không cho anh em truy sát mà lên ngựa đi ngay.
Tuấn Hạc thì bị bọn Thiết Long vây chặt.
Văn Chí Lãm buồn bã nói :
- Hạc nhi! Sao ngươi cứ trốn tránh ta mãi vậy?
Dòng lệ thương tâm ứa ra từ đôi mắt hổ khiến Tuấn Hạc bối rối. Chàng cúi đầu ấp úng :
- Hài nhi chỉ sợ liên lụy đến Văn gia bảo nên không dám lộ diện.
Chàng lại cúi đầu ra mắt Song ma. Hách lão gia vỗ vai Tuấn Hạc cười ha hả :
- Ta biết lòng ngươi còn nghi ngờ Lãm nhi là Văn Chí Khải. Vợ chồng lão phu xin đem thanh danh của mình ra bảo đảm rằng không hề có chuyện ấy.
Nguyệt Ma ứng tiếng :
- Chẳng lẽ bọn ta đã gần chín chục tuổi đầu mà còn nói láo ngươi sao?
Tuấn Hạc hổ thẹn đáp :
- Tiểu tôn chẳng dám không tin.
Thiết Long cười ha hả, bước đến ôm chàng vào lòng.
Vô Giới hòa thượng cười hì hì :
- Ở đây chẳng có ai khác, mong thí chủ cho bần tăng được thấy chân diện mục.
Tuấn Hạc gỡ mặt nạ rồi lại mang vào. Vô Giới gật gù cười :
- Thí chủ là người trung hậu nhưng hơi ngốc một chút!
Tuấn Hạc không hiểu, chỉ cười mát :
- Có một vị tiểu cô nương cũng thường chê tại hạ là ngốc tử.
Thiết Long cười hỏi :
- Có phải con bé Hàn Diệu Anh hay không? Ả đang ở Văn gia bảo cùng với Doanh nhi.
Tuấn Hạc vội hỏi :
- Bẫm phụ thân! Khiết Văn cô nương có ở dó không?
- Không! Nghe nói Văn nhi đi núi Ba Sơn, Ba Đông thăm thân mẫu.
Tuấn Hạc nghe nỗi ưu tư xâm chiếm tâm hồn. Khiết Văn đã hẹn gặp chàng ở Hoa Sơn, thế mà đến giờ cũng chẳng thấy đâu. Chàng muốn đi ngay Ba Đông nhưng lại sợ Thiên Độc giáo chặn đường bọn Thiết Long.
Đầu tháng mười, khi về đến thành Nam Xương, chàng cung kính nói :
- Bẩm thân phụ! Chắc Thiên Độc giáo chủ thọ thương khá năng nên không dám đυ.ng đến chúng ta nữa. Hài nhi sẽ đi Hồ Bắc tìm Khiết Văn chư vị cứ về Lư Lăng trước. Vô Ảnh Đao và bốn chục cao thủ sẽ theo hộ tống.
Vô Giới hòa thượng cười hì hì :
- Bần tăng xin tháp tùng thí chủ cho có bạn. Vô Giới này đã mến mộ ai thì chẳng muốn rời xa.
Thiết Long cũng nói :
- Có hòa thượng đi theo Hạc nhi ta mới yên tâm.
Tuấn Hạc đành phải nhận lời. Chàng khôi phục dung mạo Văn nhị công tử, cùng lão đi ngược lên hướng Tây bắc.
Chín ngày sau, hai người đến gần núi Ba sơn. Trên ngọn núi nhỏ này chỉ có duy nhất một tòa đạo am. Tuấn Hạc thả hai con ngựa ở chân núi rồi kéo Vô Giới thượng sơn.
Đến nơi, chàng kinh hãi nhận ra cánh cửa am đã bị đánh vỡ tung. Trên sân cỏ còn lại dấu chân người dầy xéo và rải rác những vũng máu đen sậm.
Tuấn Hạc gọi lớn :
- Khiết Văn!
Không thấy hồi âm, chàng phi thân vào trong. Người thì không thấy nhưng trên chiếc chõng tre vẫn còn tấm võ phục đen quen thuộc.
Tuấn Hạc tìm trước sau, bỗng nhớ đến Tiểu Bạch liền vận công rú lên cao vυ"t. Từ trên đỉnh núi, một bóng trắng lao xuống như bay. Tiểu Bạch nhảy xổ vào lòng Tuấn Hạc, ôm chặt lấy chàng.
Tuấn Hạc hỏi ngay :
- Khiết Văn đâu rồi?
Tiểu Bạch múa tay ra dấu và thọt khét liên hồi. Vô Giới cười hỏi :
- Con vượn này nói gì vậy?
Tuấn Hạc buồn bã nói :
- Tiểu Bạch bảo rằng một sáng nọ, nó lên khu rừng trên đỉnh núi hái trái cây, lúc trở về thì không còn thấy ai nữa.
Vô Giới trầm giọng :
- Nghe nói thí chủ có tín phù trưởng lão Cái bang trong tay, sao không vào thành hỏi bọn hóa tử xem?
Tuấn Hạc bừng tỉnh, lập tức hạ sơn. Chàng mang theo cả tấm áo cũ của Khiết Văn. Mùi hương da thịt cố nhân như còn vương vấn trong manh áo này. Chàng nghe lòng sôi sục nổi nhớ thương cô gái xấu xí Khiết Văn. ánh mắt, nụ cười của nàng dành cho chàng biết bao nồng thắm.
Xuống đến chân núi, hai người chú tâm quan sát dấu vó ngựa và nhận ra toán cao thủ tập kích đông đến mười mấy người. Họ đến từ hướng Bắc và cũng rút theo hướng ấy.
Tuấn Hạc thở dài :
- Có lẽ hung thủ không phải là Thiên Độc giáo vì Khiết Văn chỉ là một tỳ nữ tầm thường. Nếu là họ thì dấu chân sẽ đi về hướng Nam.
Tuấn Hạc và Vô Giới hòa thượng lên ngựa đi vào huyện thành Ba Đông. Bọn hóa tử nói rằng không biết gì về việc bắt cóc trên núi Ba Sơn.
Vô Giới cau mày hỏi :
- Thế ở phía Bắc khu vực này có bang hội nào mới nổi lên hay không?
Gã Phân đà chủ suy nghĩ rồi đáp :
- Bẩm có! Cạnh Hồng Hồ xuất hiện một gia trang tên gọi Tàng Long trang. Thực ra cơ ngơi ấy đã được xây dựng trên hai chục năm. Nhưng không có hoạt động gì lạ. Chỉ mới tháng rồi, Tàng Long trang mở cửa, mời đón anh hùng, hào kiệt ở tứ phương đến tham quan. Khách được chiêu đãi rất nồng hậu, nếu muốn gia nhập sẽ hướng lương rất cao.
Vô Giới gật gù :
- Bần tăng sẽ đến làm khách của Tàng Long trang vài tháng.
Tuấn Hạc thưởng cho anh em Phân đà Ba Đông hai trăm lượng rồi khởi hành.
Trên đường đi, Vô Giới cười :
- Chắc là do dung mạo của vị cô nương kia quá xinh đẹp nên mới bị bắt đi.
Tuấn Hạc lắc đầu :
- Không phải! Khiết Văn rất xấu xí, mặt nạm đen, loang lổ.
Vô Giới giật mình :
- Thế thì hung thủ bắt cóc nàng và mẫu thân vì động cơ gì?
Tuấn Hạc lặng lẽ thúc ngựa phi mau. Chàng nóng ruột muốn đến Tàng Long trang càng sớm càng tốt. Đêm nay có ánh trăng non soi đường chàng sẽ kiêm trình không nghỉ. Nhưng nếu muốn như vậy, phải ăn cho no bụng và mang ít lương khô.
Hai người dừng cương trước một phạn điếm bằng gỗ - mái lợp cỏ - nằm lẻ loi cạnh đường. Quán vắng tanh nên hai gã tiểu nhị hớn hở chạy ra tiếp đón thần tài.
Tuấn Hạc biết rõ phạn lượng và tửu lượng của bạn đồng hành nên gọi một mâm lớn và một vò rượu mười cân.
Nhưng không phải chỉ mình Vô Giới phàm ăn Tiểu Bạch cũng chẳng khách sáo gì.
Tuấn Hạc cố lùa hết ba chén cơm cho vững bụng rồi ngồi nhâm nhi chung rượu. Chàng thả hồn vào quá khứ, hồi tưởng đến những ngày kề cận Khiết Văn ở Chiết Giang. Giờ đây, chàng không còn hổ thẹn khi nghĩ đến thân hình nõn nà của cố nhân. Đó chính là kỷ niệm sâu sắc nhất mà nàng đã để lại. Thời gian gần gũi chẳng được bao lâu nhưng không hiểu sao lại thân thiết như đã quen nhau từ kiếp trước?
Tuấn Hạc không hiểu tại sao nhưng tự biết lòng mình đã nặng tình với nữ lang mặt nam đen kia. Hình bóng của nàng đã làm mờ nhạt cả Ôn Tiểu Băng trong tim chàng.
Tuấn Hạc nghe lòng quặn đau, buột miệng ngâm bài từ Vọng Giang Nam của Nam Đường Hận Chủ Lý Dục:
Đa thiêu lệ.
Đoạn kiếm phục hành di
Tâm sự mạc tương hòa lệ huyết
Phong sinh lưu hướng lệ thời xung.
Trường đoạn cách vô nghi!
(Dịch thơ)
Bao ngấn lệ
Chảy đầy mặt đầy vai
Tâm sự chớ hòa vào nước mắt
Bi thương sáo gió tủi làm chi.
Đút ruột chăng còn nghi!
Trong lúc ngâm, bất giác gióng châu lệ lén ứa ra. Vô Giới thở dài :
- Không ngờ thí chủ lại nặng tình với một nữ nhân kém nhan sắc như vậy. Bần tăng không hiểu nổi chữ tình.
Tuấn Hạc ngượng ngùng lau lệ rồi thở than :
- Tại hạ đang lo là làm sao xác định được Khiết Văn có trong Tàng Long trang hay không?
Vô Giới cười khà khà :
- Bần tăng nghe gia sư nói rằng con Thần viên của Cuồng Kiếm tiền bối có tài đánh hơi rất giỏi. Khi đến nơi, cứ cho Tiểu Bạch ngửi tấm áo kia rồi bảo nó đi tìm.
Tiểu Bạch hiểu được lời lão, vui vẻ vỗ ngực, ra hiệu rằng mình làm được.
Tuấn Hạc vui mừng nói :
- Hay lắm! Nếu đại sư không chỉ giáo thì tại hạ cũng chẳng biết Tiểu Bạch có khả năng ấy.
Ăn xong, Tuấn Hạc Bảo chủ quán gói cho mình ba chục chiếc bánh bao và hai con gà nướng. Loại bánh bao này không có nhân. Vốn là thức ăn thông dụng của vùng phía Bắc Hoàng Hà. Nhưng sau này đã lan truyền xuống miền Nam.
Hai người lên ngựa phi nước đại, chỉ nghĩ vài khắc để dùng lương khô. Trưa hôm sau, họ đã đến huyện thành Hồng Hồ.