“Làm thế nào? Vυ" đã khẳng định với tôi, tuyệt đối không băn khoăn gì, nhớ không, rằng vυ" luôn khóa phòng đó. Vυ" không kiểm tra sao?”
“Tôi có chìa khóa”, bà nhắc anh. “Tôi thấy không cần thiết phải kiểm tra vì biết rằng có kiểm tra thì nó cũng chẳng thế bung khóa được.”
“Nhưng rõ ràng là có mà!”
“Lại là Henry”, bà nói theo kiểu giải thích.
“Henry?”
“Khi cậu thay két sắt trong thư phòng, tôi bảo nó mang két cũ lên gác mái. Chắc hẳn nó đã quên khóa cửa. Lúc tôi hỏi, nó khẳng định với tôi là có, và tôi thấy không cần thiết nghi ngờ lời nó làm gì.”
Alex thở dài. “Tin Henry để rồi nghĩ rằng cậu ta đã khóa cửa trong khi không khóa. Đáng lẽ ra tôi nên tự mình kiểm tra.” Ngước nhìn chiếu nghỉ tầng hai, anh nhíu mày. “Gác mái? Trong tất cả những chỗ bẩn thỉu và gớm ghiếc...” Anh lắc đầu. “Thế quái quỷ nào mà cô ấy lại lên đấy?”
“Tôi cũng chịu. Đó là lý do tại sao tôi mời cậu đến để lên tìm con bé xuống. Đáng ra là tôi lên nhưng cậu biết tôi ghét lũ chuột thế nào rồi đấy. Frederick ngỏ ý muốn lên, nhưng Annie không gặp ông ấy nhiều và tôi chẳng muốn con bé hoảng sợ. Lạy Chúa, con bé sẽ cố chạy và giẫm lên một trong số các bẫy chuột trên đó.”
Các bẫy chưa sập trên gác mái không phải là mối lo duy nhất của Alex, mặc dù, như anh nhớ, sàn căn phòng trên cùng này rải đầy bẫy chuột. Điều làm anh lo lắng hơn là vào thời gian này trong năm gác mái chắc hẳn rất ngột ngạt, đấy là chưa kể đến tối tăm, bụi bặm và nhện thì mở hội trên đó. Chuyện nhện độc ăn đời ở kiếp trên đó cũng thật chẳng phải ý nghĩ dễ chịu gì.
Alex vượt qua bà Maddy và đi lên cầu thang.
“Cậu có muốn tôi bảo Frederick lên đấy tìm giúp không?”, bà la lớn.
Anh vẫn cứ sải bước. “Tôi nghĩ mình có thể tìm được cô ấy. Cứ tiếp tục làm công việc của mình đi, vυ" Maddy. Tôi sẽ đưa cô ấy xuống.”
Cầu thang dẫn lên gác mái nằm ở cánh tây trên tầng ba. Hình dung ra cảnh Annie bị nhện độc cắn, Alex bước lên bậc thang hẹp và dốc đến nguy hiểm với một tốc độ chết người. Cánh cửa hoen rỉ vì không dùng đến, kêu cọt kẹt đầy kỳ quái lúc anh đẩy ra. Lúc bước vào vùng nhập nhoạng, anh ước mình đã nghĩ ra phải cầm theo cây đèn. Nguồn sáng duy nhất phát ra từ giếng trời và cửa sổ mái được đặt đầy thuận lợi nhưng hiệu quả của chúng bị cáu bẩn làm giảm đi đáng kể. Mùi bụi bặm và nấm mốc thiêu đốt cánh mũi anh.
Trong khi dừng lại để xác định phương hướng và để mắt quen dần, anh nghe thấy tiếng chạy nhốn nháo lạo xạo làm anh khϊếp hoảng. Bọn gặm nhấm. Dù không bao giờ thừa nhận với bất cứ ai nhưng anh đã giấu nhẹm nỗi sợ phi lý bọn sinh vật nhỏ bé, bẩn thỉu này. Anh không chắc tại sao. Anh có thể xử lũ rắn. Nhện khó làm anh chững lại. Anh thậm chí không đặc biệt cảnh giác với mấy con thú ăn thịt to xác. Nhưng chuột? Hiếm lắm có lần phát hiện ra một con ở tầng dưới, anh cũng muốn bắt chước bà Maddy, đứng trên ghế đến khi ông Frederick tới loại trừ nó.
Mồ hôi lấm tấm trên trán. Bên phải anh có tiếng cào rồi tiếng gặm nhấm. Da trên lưng và hai cánh tay anh co lại. Chúa ơi. Bao năm qua, anh đã chế ngự được nỗi sợ chỉ đủ để đối mặt với một con chuột vãng lai. Vì niềm kiêu hãnh của mình nên anh không còn sự lựa chọn nào. Nhưng một đàn chuột? Anh có cảm giác giống như gã khổng lồ Goliath lúc đối mặt với tráng sĩ David(2). Chỉ có điều, trong cuộc chạm trán này, có đến cả chục chàng David.
(2) Theo Kinh Thánh, David là người đã đánh bại tên khổng lồ Goliath, đem lại thắng lợi cho người Israel trước quân đội Philistines.
Khi mắt đã quen dần với bóng tối, Alex nhận ra được các hình dáng quanh mình. Két sắt bỏ đi. Đồ nội thất cũ. Chiếc gương đã từng làm cho phòng khách mỹ miều giờ cáu bẩn đến nỗi không còn phản chiếu được chút ánh sáng nào. Được đỡ giữa hai chồng thùng hộp, anh thấy vài bức tranh sơn dầu được phủ ga và chằng chịt dây nhợ. Trong đống bừa bộn dưới bệ đỡ tranh là một loại đồ trông có vẻ như xoong chảo nấu nướng. Tất cả các món đồ đều phủ một lớp bụi bẩn dày cộp, và chăng từ đồ này đến thứ kia là những mớ mạng nhện nhóng nhánh, những sợi tơ đan vào nhau đầy phức tạp được điểm tô bằng mấy con bướm đêm chết khô hoặc những con côn trùng xấu số khác. Nơi này kể cả người hay ác quỷ cũng không dùng được. Nhưng Annie lại ở đâu đó trên đây.
Bước lên phía trước, Alex làm trầy ống quyển của mình khi va vào cái rương cũ. Khốn nạn. “Annie!”, anh khản giọng la lớn. Liều mình thêm vài bước nữa, anh vấp phải cái vạc sắt to tướng trước kia được dùng để luộc quần áo. “Chết tiệt!”, anh xì xầm. Rồi gọi to hơn, “Annie, em ở đâu vậy?”.
Khi len qua đống bừa bãi toàn đồ bỏ đi được tích trên đây qua nhiều năm, Alex tự nhắc rằng vợ mình không thể trả lời được. Quả ngốc thật khi hét lên cứ như mong chờ một câu hồi đáp. Mặt khác, gác mái cũng gần rộng như ba tầng dưới, và anh không ưa gì cái ý nghĩ phải lục tìm từng li từng tí. Không ưa khi thiếu ánh sáng làm anh nửa mù nửa tỏ và lũ chuột thì nhốn nháo chạy trong bóng tối.
“Annie? Ra đây nào, cưng ơi. Vυ" Maddy có trà và bánh đang đợi em kìa.” Đó không hẳn là một lời nói dối. Khi đưa được cô xuống dưới, anh sẽ đảm bảo rằng cô được thết đãi theo cách nào đó. Bất cứ thứ gì để dụ cô ra khỏi chỗ trốn. “Nghe thấy anh nói không? Bánh. Chết tiệt!” Alex cúi xuống xoa bên đầu gối vừa bị đập đau điếng vào cạnh sắc của chiếc két sắt cũ kỹ. “Cưng à? Anh biết em ở đâu đó trên đây. Em không ra sao? Làm ơn đi! Trên đây không an toàn đâu.”
Khi đứng thẳng lên, Alex nghe thấy một âm thanh mà anh nghĩ là phát ra từ cánh cửa phía đông. Không phải tiếng chạy nhốn nháo, nhưng giống tiếng thình thịch hơn. Tiếng động lớn thế này nên chắc chắn không phải là lũ chuột nhắt hay là… Lạy Chúa xin đừng là… một con chuột đồng. Khuây khỏa vì ít nhất cũng xác định được vị trí chung chung của Annie, anh xoay người và đi theo hướng đó. Anh vô cùng nhẹ nhõm khi thấy lối đi đã được làm sạch vài bước ra quá cửa, gần như là cô đã đặt các đồ vật sang một bên để lấy lối đi. Anh co rúm trước ý nghĩ cô dịch chuyển những đồ vật nặng. Nếu nỗi lo lắng là chí tử thì cô gái này đang sắp làm anh chết yểu rồi.
Khi anh đến gần phần phía đông của gác mái, ánh sáng dường như dần mạnh hơn. Nghĩ kỹ xem nguồn sáng từ đâu, anh nhớ ra có một cửa sổ mái sườn bên cánh này. Bị lôi kéo về phía ánh sáng, anh vững dạ tiến lên, cứ vài giây lại gọi thật to. Thậm chí nếu Annie không hiểu, thì chí ít cũng giật mình khi anh tìm thấy cô.
Bước quanh bức vách ngăn, cuối cùng Alex cũng phát hiện thấy con mồi của mình. Anh dừng lại, không thể tin vào mắt mình, Annie… chỉ là không phải Annie mà anh biết. Mặc một bộ lễ phục màu hồng và đôi giày da dê non màu đen mà chắc hẳn cô đã bới được trong mấy chiếc rương của người mẹ kế quá cố của anh, cô là một người ăn mặc hợp mốt thực thụ, dù chiếc váy bây giờ đã lỗi thời. Với mái tóc sẫm màu được bới lên thành những búi xoăn bù xù, hơi lệch trên đỉnh đầu và được cô buộc chặt bằng một ít đăng ten, từ góc nghiêng, cô hiện lên như một viên đá quý được chạm khắc tuyệt hảo, người phụ nữ xinh đẹp nhất mà anh từng thấy, không trừ một ai cả.
“Annie, cái gì đây?”
Không một lời đáp. Thậm chí còn không cả một cái giật mình để biểu lộ rằng cô nghe thấy anh.
Quá choáng váng đến nỗi không thể di chuyển, Alex chỉ đứng đó và há hốc miệng. Annie tiếp tục việc đang làm, một công việc bận rộn. Với những món nội thất linh tinh, cô đã tạo ra một phòng na ná phòng khách mà theo anh thấy, không hề có bụi bặm hay mạng nhện. Trên chiếc bàn ba chân với một góc được mấy chiếc thùng thưa bằng gỗ chống đỡ, cô bày các đồ sứ đã sứt mẻ và đang giả vờ hầu trà.
Hai vị khách tưởng tượng của cô, những hình nộm nam nữ được cô tạo ra bằng cách nhồi vào mấy bộ đồ cũ, ngồi trên hai trong ba chiếc ghế khác loại mà cô đã lấy được ở đâu đó trên gác mái. Quý ông là một anh chàng bảnh bao trong bộ vest xám bị nhậy cắn, quý cô thanh lịch cân xứng với váy dài xanh bạc màu tô điểm bằng hàng đăng ten đã ố vàng. Đầu hai người, được làm từ những chiếc tất trắng được nhồi ruột, điểm trang với hai chiếc mũ, người đàn ông có mũ quả dưa nỉ, người phụ nữ có những bông hoa lụa được xếp rủ xuống với mạng che kéo qua phần trên khuôn mặt cô ta.