Chương 2
HÀNG XÓM
Bill và Arlene Miller là một cặp hạnh phúc. Nhưng đôi khi họ cảm thấy so với bạn bè họ chẳng hưởng thụ cuộc sống mấy, Bill thì cứ chuyên chú công việc kế toán còn Arlene bận rộn với những việc thư ký thường nhật. Có lúc họ bàn về chuyện này, chủ yếu là so sánh với cuộc sống nhà hàng xóm, vợ chồng Harriet và Jim Stone. Đối với vợ chồng Miller, nhà Stone có vẻ có một cuộc sống đủ đầy và tươi sáng hơn. Vợ chồng Stone luôn luôn đi ăn tối ở tiệm, hoặc giải trí tại nhà, hoặc du lịch đó đây nhân những dịp Jim đi công tác.
Vợ chồng Stone ở căn hộ đối diện với nhà Miller. Jim là nhân viên bán hàng cho một công ty linh kiện máy móc và thường xoay xở kết hợp những chuyến công tác với du lịch, và dịp này vợ chồng Stone sẽ đi xa mười ngày, đầu tiên đi Cheyenne, rồi tới St Louis thăm viếng họ hàng. Khi họ đi vắng, vợ chồng Miller sẽ trông nhà hộ họ, cho con Kitty ăn, và tưới cây cảnh.
Bill và Jim bắt tay nhau phía sau xe. Harriet và Arlene khoác tay nhau và hôn phớt môi.
"Đi chơi vui nhé," Bill nói với Harriet.
"Vâng," Hairiet nói. "Các cậu cũng vui vẻ nhé."
Arlene gật đầu.
Jim nháy mắt với chị. "Chào, Arlene. Nhớ chăm sóc anh bạn già chu đáo."
"Dĩ nhiên," Arlene nói.
"Đi chơi vui nhé," Bill nói.
"Tất nhiên rồi," Jim nói, huých nhẹ cánh tay Bill. "Và cám ơn các cậu lần nữa nhé."
Vợ chồng Stone vẫy tay chào khi họ lái xe đi, nhà Miller cũng vẫy chào lại.
"Hừm, ước gì đó là mình," Bill nói.
"Biết đâu đấy, mình có thể nghỉ phép mà," Arlene nói. Chị cầm cánh tay anh đặt vòng quanh eo mình khi họ leo những bậc thang về lại căn hộ.
Ăn tối xong Arlene bảo, "Đừng quên. Đêm đầu tiên Kitty ăn đồ có vị gan." Chị đứng ở lối vào nhà bếp gấp cái khăn trải bàn may tay Harriet mua ở Santa Fe về cho chị hồi năm ngoái.
Bill hít một hơi dài khi bước vào căn hộ nhà Stone. Không khí đã đặc quánh và nhang nhác ngọt. Cái đồng hồ hình mặt trời tỏa sáng phía trên ti vi chỉ , tám giờ rưỡi. Anh nhớ hôm Harriett mang cái đồng hồ này vê, cô đã băng qua hành lang để khoe nó với Arlene, nâng niu cái vỏ bằng đồng thau trên tay và nói chuyện với nó qua lớp khăn giấy như thể nó là em bé sơ sinh.
Kitty cọ mặt vào dép anh rồi nằm kềnh ra nhưng lại vội nhảy lên khi Bill đi vào bếp chọn một trong những cái hộp xếp trên cái kệ gác đĩa sáng bóng. Để mặc con mèo nhỏ nhẻ ăn, anh đi vào nhà tắm. Anh nhìn mình trong gương, nhắm mắt, rồi lại nhìn. Anh mở tủ thuốc. Anh thấy một hộp thuốc trên nhãn có ghi - Harriet Stone. Mỗi ngày một viên theo chỉ dẫn - liền luồn nó vào túi. Anh quay lại bếp, lấy một bình nước, trở lại phòng khách. Anh tưới cây xong, đặt bình trên thảm, mở tủ rượu.
Anh thò tay vào lôi chai Chivas Regal từ phía sau ra. Anh uống hai ngụm thẳng từ chai, chùi mép vào tay áo, rồi để cái chai lại vào tủ.
Kitty nằm ngủ trên sofa. Anh tắt đèn, chậm rãi đóng và kiểm tra cửa. Anh có cảm giác như để quên một cái gi,
“Anh làm gì lâu thế?” Arlene nói. Chị ngồi xếp hình, xem ti vi.
“Đâu làm gì. Chơi với con Kitty thôi,” anh nói, bước lại thò tay lên ngực chị.
“Vào giường nào, em,” anh nói.
Ngày hôm sau Bill chỉ nghỉ trưa mười phút thay vì hai mươi phút và đi về lúc năm giờ kém mười lăm. Anh đậu xe vão bãi ngay khi Arlene vừa xuống xe buýt. Anh đợi chị bước vào tòa nhà rồi thì liền chạy lên thang để đón khi chị vừa ra khỏi thang máy.
“Bill! Chúa ơi, anh làm em hết hồn. Anh về sớm thế,” chị nói.
Anh nhún vai. “Ở sở chẳng có việc gì,” anh nói.
Chị để anh mở cửa bằng chìa khóa của chị. Anh nhìn cánh cửa bên kia hành lang trước khi theo chị vào nhà.
“Mình vào giường đi,” anh nói.
“Bây giờ á?” Chị bật cười. “Anh ăn phải cái gì đấy?”
“Không gì hết. Em cởi váy ra.” Anh tóm lấy chị, điệu bộ kỳ cục, và chị nói, “Chúa ơi, Bill.”
Anh cởi thắt lưng.
Chốc sau họ gọi đồ ăn Tàu, và khi đồ ăn được giao họ ăn ngấu nghiến, chẳng nói chẳng rằng, chỉ nghe nhạc.
“Đừng quên cho con Kitty ăn,” chị nói.
“Anh cũng vừa nghĩ đến,” anh nói. “Anh sẽ qua bên đó ngay.”
Anh chọn một hộp thức ăn vị cá cho con mèo, rồi lấy đầy bình nước đi tưới cây. Khi anh quay lại bếp, con mèo đang cào cào cái vỏ thùng dùng làm ổ cho nó. Nó nhìn anh chăm chú trước khi quay lại nằm vào ổ. Anh mở tủ chén ngó nghiêng chỗ đồ hộp, ngũ cốc, thức ăn đóng gói, ly uống rượu, ly uống cocktail đồ sứ, bình và chảo. Anh mở tủ lạnh. Anh ngửi nhánh cần tây, cắn hai miếng pho mát cheddar, vừa nhai một quả táo vừa đi vào phòng ngủ. Cái giường trông vĩ đại, có khăn trải giường trắng bồng bềnh phủ xuống tận sàn. Anh kéo một ngăn tủ đầu giường, thấy nửa gói thuốc lá bèn nhét nó vào túi. Rồi anh bước lại tủ quần áo và khi đang mở tủ thì nghe tiếng gõ cửa phía trước.
Anh tạt qua buồng tắm giật nước.
“Anh làm gì lâu thế?” Arlene nói. “Anh đã ở đây hơn một tiếng đồng hồ.”
“Thật thế à?” anh nói.
“Thật,” chị nói.
“Anh phải đi toa lét.”
“Ở nhà mình cũng có toa lét,” chị nói.
“Anh không nín được,” anh nói.
Đêm đó họ lại làʍ t̠ìиɦ.
Sáng hôm sau anh bảo Arlene gọi đến sở báo ốm. Anh tắm, mặc quần áo, chuẩn bị một bữa sáng nhẹ. Anh cố bắt đầu một cuốn sách. Anh ra ngoài đi bộ một lúc và thấy dễ chịu hơn. Nhưng được một lúc, hai tay vẫn đút túi, anh quay về căn hộ. Anh dừng lại trước cửa nhà Stone thử nghe có tiếng con mèo đi lại trong nhà không. Rồi anh vào nhà mình, vô bếp tìm chìa khóa.
Bên trong căn hộ nhà Stone có vẻ mát hơn căn hộ nhà anh, và cũng tối hơn. Anh không rõ mấy chậu cây cảnh có liên quan gì đến nhiệt độ không khí không. Anh nhìn ra ngoài cửa sổ, rồi anh chậm rãi rảo qua từng căn phòng, ngắm nghía mọi thứ rơi vào tầm mắt, một cách cẩn thận, từng cái một. Anh thấy nhũng cái gạt tàn, đồ gỗ, đồ làm bếp, cái đồng hồ. Anh thấy mọi thứ. Cuối cùng anh vào phòng ngủ, con mèo xuất hiện dưới chân anh. Anh vuốt nó một cái, mang nó vào phòng tắm, rồi đóng cửa.
Anh ngả ra giường ngó trần nhà chằm chằm. Anh nằm nhắm mắt một lúc, rồi thò tay xuống dưới thắt lung. Anh cố nhớ hôm đó là thứ mấy. Anh cố nhớ khi nào gia đình nhà Stone trở về, và rồi anh băn khoăn liệu họ có bao giờ trở về. Anh không thể nhớ ra gương mặt họ hay cách họ nói năng ăn mặc. Anh thở dài, gượng lăn khỏi giường để nhoài người qua bàn trang điểm nhìn mình trong gương.
Anh mở tủ quần áo chọn một cái sơ mi kiểu Hawaii. Anh tìm cho đến khi thấy cái quần lửng đã ủi gọn gàng mắc bên ngoài một cái quần tây vải chéo màu nâu. Anh cởi tung quần áo của mình rồi xỏ cái quần soóc và cái sơ mi vào. Anh lại nhìn mình trong gương. Anh vào phòng khách rót cho mình một ly và uống một ngụm trên đường quay lại phòng ngủ. Anh xỏ vào người một cái sơ mi xanh dương, vest sẫm màu, cái cà vạt xanh trắng, và một đôi giày đen mũi nhọn. Ly rượu đã cạn nên anh đi rót một ly nữa.
Quay lại trong phòng ngủ, anh ngồi tréo chân trên ghế, mỉm cười, quan sát mình trong gương. Điện thoại đổ chuông hai lần rồi chìm vào im lặng. Anh uống cạn ly rồi cởi bộ vest. Anh lục lọi những ngăn kéo phía trên cao cho đến khi tìm thấy một cái qυầи ɭóŧ và một cái áo ngực. Anh mặc cái qυầи ɭóŧ vào và gài khóa áo ngực, rồi lục trong tủ tìm một bộ mặc ngoài. Anh xỏ một cái váy ca rô trắng đen và có kéo dây kéo lên. Anh xỏ một cái áo màu huyết dụ cài nút phía trước. Anh ngắm nghía những đôi giày của Harriet, nhưng biết chúng sẽ không vừa. Từ sau màn cửa sổ phòng khách anh đứng nhìn ra một lúc lâu. Rồi anh quay lại phòng ngủ và cất mọi thứ đi.
Anh không đói. Chị cũng chẳng ăn nhiều. Họ nhìn nhau ngượng ngùng mỉm cười. Chị đứng lên, ngó xem cái chìa khóa có ở trên kệ không rồi nhanh chóng dọn đĩa.
Anh đứng ở cửa bếp, hút một điếu thuốc ngắm chị cầm chìa khóa lên.
“Em sang bên kia, anh nghỉ ngơi nhé,” chị nói. “Đọc báo hay gì đấy.” Chị nắm lấy chìa khóa. Chị nói anh trông có vẻ mệt.
Anh cố tập trung vào tin tức. Anh đọc báo và mở ti vi. Cuối cùng anh băng sang bên kia hành lang. Cửa đóng.
“Anh đây. Em vẫn còn đấy chứ, em?” anh gọi.
Mãi một lúc sau cửa mới mở, Arlene bước ra và đóng cửa. “Em đi có lâu không?” chị nói.
“Ừm, lâu,” anh nói.
“Thế à?” chị nói. “Chắc là do em mải chơi với Kitty.”
Anh ngắm chị, chị nhìn lảng đi, tay vẫn còn để trên nắm đấm cửa.
“Buồn cười thật,” chị nói. “Anh biết đấy – vào chỗ của người khác như thế.”
Anh gật, nhấc tay chị khỏi nắm đấm cửa, đưa chị về phía cửa nhà mình. Anh đưa chị vào căn hộ của họ.
“Thật là buồn cười,” anh nói.
Anh để ý xơ vải trắng còn bám phía sau áo vợ và má chị hơi đậm màu. Anh bắt đầu hôn cổ và tóc vợ và chị cũng xoay sang hôn đáp chồng.
“Ôi, trời ơi,” chị nói. “Trời ơi, trời ơi,” chị reo lên, vỗ tay như con gái. “Em mới nhớ ra. Em thật sự quên bẵng không làm cái việc em định làm ở bên ấy. Em đã không cho con Kitty ăn mà cũng chẳng tưới cây.” Chị nhìn anh. “Thế có ngớ ngẩn không?”
“Anh nghĩ là không,” anh nói. “Đợi một phút. Anh lấy thuốc lá và quay lại bên đó cùng với em.”
Chị đợi anh đóng và khóa cửa căn hộ của họ, rồi chị nắm bắp tay anh và nói, “Chắc em nên kể với anh. Em tìm thấy mấy tấm ảnh.”
Anh dừng lại giữa hành lang. “Ảnh gì?”
“Anh có thể tự xem lấy,” chị nói, và chị ngắm anh.
“Không đùa đấy chứ.” Anh cười toét. “Ở đâu?”
“Trong một ngăn kéo,” chị nói.
“Không đùa đấy,” anh nói.
Và rồi chị nói, “Có thể họ không trở về,” và ngay lập tức kinh ngạc về lời nói của mình.
“Chuyện đó có thể xảy ra,” anh nói. “Chuyện gì cũng có thể xảy ra.”
“Hoặc có thể họ sẽ trở về và...” nhưng chị không nói hết câu.
Họ nắm tay nhau khi đi qua hành lang, và khi anh nói chị hầu như không nghe giọng của anh.
“Cái chìa khóa,” anh nói. “Đưa cho anh.”
“Cái gì?” chị nói. Chị nhìn cánh cửa chằm chằm.
“Cái chìa khóa,” anh nói. “Em giữ chìa khóa.”
“Chúa ơi,” chị nói. “Em để quên chìa khóa bên trong rồi.”
Anh thử vặn tay nắm cửa. Nó bị khóa. Rồi chị thử vặn tay nắm cửa. Nó không xoay. Môi chị hé ra, hơi thở chị nặng nề, chờ đợi. Anh dang tay và chị ngã người vào.
“Đừng lo,” anh nói vào tai vợ. “Vì Chúa, đừng lo.”
Họ đứng đó. Họ ôm nhau. Họ tì vào cánh cửa như thể chống chọi một luồng gió, căng mình ra.