Tải app Android hoặc iOS để đọc truyện nhanh hơn

Hỗ trợ: Fanpage TruyenHD

Đường Xưa Mây Trắng

Chương 74: Tiếng Rú Của Con Voi Chúa

« Chương TrướcChương Tiếp »
Các đại đức Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên đã trở về Trúc Lâm sau hơn một tháng cư trú tại Tượng Đầu với đại đức Đề Bà Đạt Đa và giáo đoàn mới. Tất cả các vị khất sĩ khác trong tu viện đều mừng rỡ khi thấy hai vị trở về. Họ hỏi thăm hai vị rối rít về tình hình ở Tượng Đầu. Hai vị chỉ mỉm cười mà không trả lời.

Mấy hôm sau, các vị khất sĩ trong giáo đoàn của đại đức Đề Bà Đạt Đa theo gót hai đại đức Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên trở về Trúc Lâm rất đông. Đã có tới trên ba trăm vị bỏ trung tâm Tượng Đầu để trở về với Bụt. Các vị khất sĩ thường trú tại tu viện vui mừng khôn xiết. Họ tổ chức đón tiếp các vị từ Tượng Đầu về một cách nồng hậu.

Bốn hôm sau, đại đức Xá Lợi Phất kiểm điểm lại số lượng các vị khất sĩ đã từ Tượng Đầu trở về với Bụt. Đại đức đếm được ba trăm tám mươi lăm người. Cùng với Mục Kiền Liên, đại đức Xá Lợi Phất hướng dẫn ngót bốn trăm vị khất sĩ này lên núi Linh Thứu.

Đứng trên sân tịnh xá, Bụt đã trông thấy đoàn khất sĩ do haivị đệ tử lớn của Bụt hướng dẫn đang leo dần các bậc đá để lên núi. Khi đoàn này leo tới nơi, đại chúng thường trú trên núi Linh Thứu vui mừng khôn xiết. Họ xúm lại để hỏi thăm. Trong khi đó hai đại đức Xá Lợi Phất tiến về phía tịnh thất của Bụt.

Hai vị đảnh lễ Bụt và được Bụt mời ngồi. Đại đức Xá Lợi Phất mỉm cười:

– Lạy Bụt, chúng con đã đem về được cho giáo đoàn gần bốn trăm vị khất sĩ đi lạc.

Bụt hỏi:

– Các thầy giỏi lắm. Các thầy đã làm thế nào để mở mắt cho họ?

Đại đức Mục Kiền Liên nói:

– Bạch Thế Tôn, khi chúng con đến thì sư huynh Đề Bà Đạt Đa đã thọ trai xong và đang sửa soạn thuyết pháp. Đề Bà Đạt Đa bắt chước làm hệt như Thế Tôn. Thấy chúng con đến, Đề Bà Đạt Đa tỏ ý mừng rỡ. Đề Bà Đạt Đa gọi sư huynh con tới và mời sư huynh con ngồi chung trên pháp tọa. Sư huynh con từ chối, và chỉ ngồi xuống một bên, con ngồi phía bên kia. Đề Bà Đạt Đa nói với các vị khất sĩ:

– Hôm nay, có các đại đức Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên đến với chúng ta. Đây là một tin vui rất lớn. Đại đức Xá Lợi Phất đã từng là một người bạn rất thân của ta. Nhân có mặt đại đức ở đây, xin mời đại đức phụ trách nói buổi pháp thoại hôm nay.

Nói xong, Đề Bà Đạt Đa hướng về phía sư huynh con và chắp tay mời. Sư huynh con nhận lời, và bắt đầu thuyết pháp. Sư huynh nói về bốn sự thật mầu nhiệm. Sư huynh thuyết pháp thật hay, khiến mọi người đều nghe một cách chăm chú. Con để ý thì thấy Đề Bà Đạt Đa lim dim ngủ, có lẽ vì lo nhiều việc cho nên Đề Bà Đạt Đa mỏi mệt. Nửa phần sau của pháp thoại, anh ta ngủ khì.

– Chúng con ở lại Tượng Đầu hơn một tháng và tham dự vào tất cả những hoạt động của giáo đoàn bên đó. Cứ ba hôm một lần sư huynh con lại thuyết pháp và giảng dạy cho các vị khất sĩ. Sư huynh con dạy dỗ họ một cách tận tình. Có lần con thấy Kokalika, người phụ tá số một của Đề Bà Đạt Đa, thì thào to nhỏ với Đề Bà Đạt Đa, dường như có ý khuyên Đề Bà Đạt Đa đừng tin ở chúng con, nhưng hình như Đề Bà Đạt Đa không đồng ý. Đề Bà Đạt Đa rất thích khi thấy có người phụ trách dạy dỗ các vị khất sĩ thay cho mình, nhất là khi người ấy là một người xuất sắc như sư huynh con.

Một hôm, sau buổi thuyết pháp về Tứ Niệm Xứ, sư huynh con nói với đại chúng như sau:

– Các huynh đệ, chiều hôm nay tôi và sư đệ tôi sẽ từ giã các huynh đệ. Chúng tôi sẽ về với Bụt và với giáo đoàn khất sĩ do đức Thế Tôn lãnh đạo. Thưa các huynh đệ, chúng ta chỉ có một bậc chánh biến tri giác trên đời mà thôi, người ấy là sa môn Gotama, Bụt là người sáng lập ra giáo đoàn khất sĩ, là nguồn gốc của tất cả chúng ta. Tôi tin rằng nếu các huynh đệ trở về, các huynh đệ sẽ được đức Thế Tôn mở rộng tầm tay mà đón vào lòng người như cũ. Thưa các huynh đệ, không có điều gì làm đau nhức bằng việc giáo đoàn bị chia rẽ. Một đời tôi, tôi chỉ thấy Bụt là bậc đạo sư chính đáng cho tất cả chúng ta. Hai anh em tôi xin chào các huynh đệ. Nếu các huynh đệ muốn trở về với Bụt, thì các huynh đệ tìm về tu viện Trúc Lâm. Chúng tôi sẽ chờ quý vị ở đấy, và sẽ đưa quý vị lên núi Linh Thứu để gặp Bụt.

Thế Tôn, hôm ấy Đề Bà Đạt Đa có công việc phải về kinh đô. Kokalika đứng dậy phản đối, nhưng chúng con làm lơ đi như không nghe gì. Chúng con im lặng ôm y bát rời núi Tượng Đầu và đi về tu viện Trúc Lâm. Chúng con ở đó được năm hôm thì có tất cả ba trăm tám mươi lăm vị từ Tượng Đầu tìm về.

Đại đức Xá Lợi Phất bạch:

– Thế Tôn, ba trăm tám mươi lăm vị này có cần phải làm lễ xuất gia thọ đại giới lại hay không? Nếu cần, con sẽ làm lễ cho họ trước khi đưa họ lên làm lễ Thế Tôn.

Bụt nói:



– Thôi, Xá Lợi Phất, đừng bắt họ làm lễ xuất gia và thọ đại giới trở lại. Cho họ làm lễ phát lộ sám hối trước đại chúng là đủ.

Hai đại đức cúi đầu làm lễ Bụt rồi rút lui.

Trong những ngày kế tiếp, có thêm ba mươi lăm vị khất sĩ nữa từ Tượng Đầu trở về với Bụt. Đại đức Xá Lợi Phất cũng cho họ làm lễ phát lộ sám hối rồi cho họ lên trình diện Bụt. Số các vị khất sĩ trở về với giáo đoàn đã lên tới bốn trăm mười vị.

Đại đức A Nan Đà có đến nói chuyện với ba mươi lăm vị khất sĩ vừa mới từ Tượng Đầu trở về. Đại đức hỏi về tình hình bên đó. Các thầy cho biết là khi từ Vương Xá trở về, thấy gần bốn trăm đồ chúng đã bỏ đi về với Bụt, đại đức Đề Bà Đạt Đa giận tím mặt. Đại đức không nói gì hết trong nhiều ngày liên tiếp. A Nan Đà hỏi:

– Các sư huynh Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên đã nói gì với các huynh đệ mà các huynh đệ bỏ Đề Bà Đạt Đa về với Bụt đông như thế?

Một thầy đáp:

– Các sư huynh có nói gì đâu. Các sư huynh không hề động tới đại đức Đề Bà Đạt Đa, không hề thốt ra một lời nào để nói xấu giáo đoàn bên ấy. Các sư huynh chỉ thuyết pháp và dạy dỗ anh em chúng tôi hết lòng mà thôi. Phần lớn anh em chỉ mới có hai, ba hoặc năm tuổi tu là cùng, thành ra anh em còn non yếu lắm. Nghe sư huynh Xá Lợi Phất thuyết pháp, được sư huynh Mục Kiền Liên dạy dỗ, anh em mới thấy rằng giáo pháp của Bụt cao siêu mầu nhiệm vô cùng. Đệ tử của Bụt như hai sư huynh mà đạo đức còn cao viễn và học thức còn thâm uyên như thế huống gì là Bụt. Đại đức Đề Bà Đạt Đa nói thì hay lắm nhưng làm thì không được bằng hai sư huynh đâu. Vì vậy khi hai sư huynh đi rồi, anh em bàn luận với nhau và quyết định trở về với Bụt.

– Thế còn đại đức Kokalika?

– Đại đức Kokalika thấy anh em bỏ đi lấy làm tức giận lắm. Đại đức lên tiếng nguyền rủa hai sư huynh thậm tệ. Nhưng điều này chỉ làm cho anh em chán đại đức thêm và ý định quay về với Bụt lại mạnh mẽ hơn lên.

Một buổi chiều trong khi Bụt đang đứng trên sườn núi ngắm cảnh trời chiều, thì bỗng có tiếng một vị khất sĩ la hoảng lên:

– Thế Tôn, coi chừng! Có đá lăn xuống phía sau lưng!

Bụt ngoảnh lui nhìn. Một tảng đá lớn bằng một chiếc xe bò đang từ trên đỉnh núi lăn xuống hướng về phía người. Tảng đá lăn xuống với một tốc độ kinh khϊếp. Bụt bước mấy bước tránh sang phía bên. Chỗ người đứng toàn là những mô đá nên sự di chuyển rất khó khăn, nếu không có đủ thì giờ. May quá, tảng đá lăn xuống gần tới chỗ Bụt đứng thì bị hai tảng đá nhỏ chụm nhau chận lại, nhưng sự va chạm giữa ba tấm đá làm văng ra một mảnh đá nhọn. Mảnh đá nhọn bay trúng vào chân trái của Bụt và làm Bụt bị thương nơi ngón chân. Máu chảy thấm ướt chéo áo cà sa của người.

Nhìn lên, Bụt thấy bóng một người đang tìm cách chạy trốn.

Vết thương nơi bắp chân làm Bụt đau lắm, người lấy áo sanghati xếp lại làm tư, trải xuống đất, nằm nghiêng về bên mặt theo tư thế sư tử tọa, chân bị thương đặt lên chân không bị thương, và theo dõi hơi thở để làm dịu xuống sự đau đớn.

Nhiều vị khất sĩ chạy đến bên Bụt. Một người nói:

– Đây chắc là Đề Bà Đạt Đa chớ không còn ai khác nữa!

Một người khác:

– Các huynh đệ phải chia nhau ra giữ bốn phía núi để bảo vệ cho Thế Tôn, mau đi.

– Các thầy đừng la ó, đừng làm ồn ào. Không việc gì phải la ó, và làm ồn ào. Như Lai không cần người canh giữ, Như Lai không cần người bảo vệ. Tất cả các vị hãy trở về liêu xá của mình đi. A Nan Đà, thầy hãy nhờ chú sa di Cunda đi mời y sĩ Kỳ Bà.



Mọi người làm theo lời Bụt dạy.

Chỉ trong vài hôm, tin Bụt bị mưu sát hai lần được truyền đi khắp thủ đô. Quần chúng ngẩn ngơ và kinh hoàng. Quần chúng đang xôn xao thì đùng một cái có tin thượng hoàng Tần Bà Xa La băng hà. Không biết vì kẽ hở nào mà dân chúng khắp nơi biết được rằng thượng hoàng đã băng trong ngục thất. Một niềm xót thương dâng lên trong lòng người. Ai nấy đều nhìn về núi Linh Thứu như là biểu tượng của một sự đối kháng đạo đức. Càng thương xót thượng hoàng bao nhiêu thì thiên hạ càng mến phục Bụt bấy nhiêu. Bụt tuy không nói gì, nhưng người đã nói thay được tiếng nói của lòng người.

Thượng hoàng Tần Bà Xa La thọ sáu mươi bảy tuổi, thượng hoàng nhỏ hơn Bụt năm tuổi. Năm quy y làm đệ tử Bụt, thượng hoàng mới có ba mươi mốt. Lên ngôi từ năm mười lăm tuổi, thượng hoàng đã trị vì trong năm mươi hai năm. Chính thượng hoàng đã xây dựng lại kinh đô Vương Xá mới, sau khi kinh đô cũ bị hỏa hoạn tàn phá.

Trong năm mươi hai năm, đất nước Ma Kiệt Đà luôn luôn được hòa bình, chỉ trừ có một lần lâm chiến với vương quốc Ương Già. Trong cuộc chiến tranh đó quốc vương Phạm Thiêndatta của xứ Ương Già đã thua trận, và xứ Ương Già đã trở nên nội thuộc vương quốc Ma Kiệt Đà. Khi quốc vương Taxila Pukkusati lên cầm quyền ở Ương Già, quốc vương Tần Bà Xa La đã thiết lập liên lạc thân hữu với vua này và đã đưa vua này đến với đạo Bụt.

Để có hòa bình lâu dài với các nước, quốc vương Tần Bà Xa La đã thiết lập liên hệ thân tộc với các hoàng gia. Vua cưới công chúa Câu Tát Ladevi em ruột của quốc vương Pasenadi và lập làm chánh hậu, hiệu Videhi.

Vua cũng có thứ hậu từ các hoàng tộc Madra và Ly Xa.

Chị ruột của vua cũng đã được gả cho quốc vương Câu Tát La làm thứ hậu.

Vua Tần Bà Xa La từng tỏ lòng thương kính Bụt bằng cách xây một chiếc tháp đựng tóc và móng tay của người ngay trong vườn Ngự uyển. Vua thường nhắc các cung nhân đốt hương trầm và thắp đèn nến quanh tháp để cúng dường và để tỏ lòng biết ơn giáo hóa của Bụt. Vua lại giao cho cung nhân Srimatri trách vụ chăm sóc, quét dọn tháp và vun bón hoa cỏ quanh tháp.

Một hôm nọ, trong khi Bụt và một số các thầy đi khất thực trên con đường quen thuộc dẫn về thủ đô, đại đức A Nan Đà nhác thấy bóng một con voi lớn từ chuồng voi hoàng gia xổng ra và đang chạy về phía mình. Đại đức hoảng kinh. Con voi này ai cũng đã nghe tiếng. Đó là con voi dữ nhất trong vương quốc. Nó tên là Nalagira. Tại sao người ta lại để cho Nalagira xổng chuồng ra như thế? Vừa lúc đó những người đi đường cũng đã nhận ra sự nguy hiểm. Họ hô hoán lên và cùng nhau chạy núp ở hai bên vệ đường. Dân chúng hai bên đường phố đều đã trông thấy con voi Nalagira. Con voi đưa vòi lên cao, đuôi và hai tai thẳng đứng dậy, nó nhắm phía Bụt và các vị khất sĩ mà chạy tới.

Thấy tình trạng nguy hiểm quá, A Nan Đà vội nắm tay Bụtvà đẩy người về phía vệ đường, nhưng Bụt không theo A Nan Đà, người đứng yên tại chỗ, một số các vị khất sĩ núp sau lưng Bụt, một số khác chạy tứ tán tìm chỗ núp hai bên vệ đường. Dân chúng hai bên đường phố la hoảng lên. Mọi người nín thở, A Nan Đà vừa bước lên định đứng chận trước mặt Bụt thì bỗng nghe Bụt hú lên một tiếng lớn và dài. Tiếng rú vọng lên, nghiêm trang và oai vệ. Đây là tiếng hú của con voi chúa trong rừng Rakkhita ở Parileyyaka. Bụt đã an cư một mình trong rừng này, và trong thời gian ấy người đã học được tiếng hú của con voi chúa thường đem bầy voi con tới uống nước bên bờ suối.

Voi Nalagiri đã xông tới chỉ còn cách Bụt chừng mươi bước.Nghe tiếng hú vang dội, nó tự nhiên khựng lại. Lập tức nó khuỵu hai chân trước xuống, rồi khuỵu luôn hai chân sau, vòi nó hạ thấp xuống sát đất. Hai tai nó cụp xuống, đuôi nó cũng vậy.

Bụt tiến tới, người đưa tay phải sờ lên đầu voi với tất cả thương mến. Người ra hiệu cho voi đứng dậy, rồi người nắm lấy vòi của voi, dẫn nó đi trở về nơi xuất phát của nó. Con voi ngoan ngoãn đi theo người.

Tiếng hoan hô của dân chúng hai bên đường nổi lên vang dậy. Thầy A Nan Đà mỉm cười. Thầy nhớ lại Bụt hồi còn trẻ tuổi, không một môn thể thao nào mà Tất Đạt Đa không giỏi, từ bắn cung, cử tạ, đánh kiếm cho đến đua ngựa, cỡi voi. Bụt đã đối xử với voi Nalagira như đối xử với một con người hay một con vật đã từng quen thuộc lắm với người.

Đoàn khất sĩ và hàng trăm dân chúng đi theo Bụt và con voi. Khi vào tới chuồng voi, người nhìn vị quản voi với đôi mắt nghiêm nghị. Rồi với giọng từ bi, người bảo:

– Ai ra lệnh thả voi này ra, Như Lai không cần biết, nhưng quý vị nên biết rằng thả voi Nalagira ra giữa đường phố là một điều hết sức nguy hiểm. Voi này một khi được thả ra có thể làm cho hàng chục hay hàng trăm người mất mạng. Từ nay về sau quý vị không được làm như vậy nữa.

Vị quản tượng và viên giám đốc chuồng voi lạy xuống để chịu tội. Bụt đỡ họ lên, và cùng các vị khất sĩ rời khỏi chuồng voi. Người tiếp tục cuộc khất thực đang bị bỏ dở nửa chừng.

Đã đến ngày làm lễ trà tỳ thượng hoàng, Bụt tự thân hành tới dự lễ, và bảo tất cả các vị khất sĩ trong giáo đoàn cùng đi. Lễ trà tỳ được tổ chức rất long trọng. Quần chúng tiếc thương vị vua đạo đức của họ đã đến tham dự rất đông đảo vòng trong vòng ngoài chật ních. Riêng các vị khất sĩ trong xứ có mặt hôm đó cũng đã trên bốn ngàn người.

Trên đường dự lễ về, Bụt ghé lại vườn xoài của y sĩ Kỳ Bà nghỉ một đêm trước khi lên núi. Y sĩ cho Bụt biết là cả tháng nay thái hậu Videhi bị cấm không được vào thăm thượng hoàng. Thượng hoàng đã lìa đời trong nhà giam, bên cạnh không có một người thân thích. Người đã xoay đầu về núi Linh Thứu để thở hơi thở cuối cùng.

Một hôm y sĩ Kỳ Bà lên núi Thứu và tiến dẫn lên Bụt một người của hoàng gia muốn được đi xuất gia. Đó là hoàng đệ Abhayarajakumara con của vua Tần Bà Xa La và của thứ hậu Padumavati, thái tử Abhayaraja bạch với Bụt là sau cái chết của thượng hoàng Tần Bà Xa La, thái tử không còn tha thiết gì nữa đến nếp sống phù hoa danh lợi. Đã từng được nghe Bụt thuyết pháp nhiều lần, thái tử rất hâm mộ đạo lý giải thoát và ước mong được sống nếp sống thảnh thơi và vô ưu của người khất sĩ. Bụt chấp nhận lời thỉnh cầu của Abbhayaraja và cho thái tử được xuất gia.
« Chương TrướcChương Tiếp »