Một đêm nọ trong khi đang tọa thiền ngoài sân tịnh thất trên núi Linh Thứu, Bụt mở mắt và thấy có người đứng lấp ló sau cây đại thọ, Bụt lên tiếng mời người ấy đến. Dưới ánh trăng vằng vặc, người ấy đặt gươm xuống sân đất và quỳ xuống lạy Bụt như tế sao. Bụt hỏi:
– Ông là ai, đến đây để làm gì?
– Con xin lạy sa môn Gotama! Con xin lạy sa môn Gotama! Con vâng lệnh tới đây gϊếŧ ngài nhưng thấy ngài, con không dám. Con đã cầm gươm định bước tới có hơn mười lần rồi mà không lần nào con dám bước tới. Con quyết định thôi không gϊếŧ ngài nữa, nhưng con lại sợ nếu con không gϊếŧ ngài thì khi về, con cũng bị chủ tướng con gϊếŧ chết. Con chưa biết phải làm sao thì sa môn gọi con. Con xin lạy sa môn Gotama! Con xin lạy sa môn Gotama!
Bụt hỏi:
– Ai đã sai anh đến gϊếŧ Như Lai?
– Chủ tướng của con, nhưng con không dám nói tên chủ tướng của con đâu.
– Anh không nói cũng được, nhưng chủ tướng của anh nói với anh như thế nào?
– Bạch sa môn, chủ tướng của con chỉ cho con con đường phải đi để lên núi và chỉ cho con một con đường khác để trở về sau khi làm xong nhiệm vụ.
– Anh có vợ con gì không?
– Bạch sa môn, con chưa có vợ con gì cả. Con chỉ có một bà mẹ già.
– Anh nghe đây. Nghe cho thật kỹ và làm theo cho thật đúng. Anh hãy về nhà ngay đi, và đem mẹ anh vượt biên giới trốn sang nước Câu Tát La ngay lập tức. Anh đưa mẹ sang bên ấy tị nạn và sinh sống, nhưng anh đừng xuống núi bằng con đường mà chủ tướng anh đã chỉ bày. Nếu xuống núi bằng đường ấy, anh sẽ bị mai phục gϊếŧ chết giữa đường. Anh xuống núi bằng một con đường khác. Anh đi ngay đi.
Người lạ mặt lạy xuống một lạy nữa rồi đi mất, để lại thanh gươm trên nền đất.
Sáng hôm sau, hai đại đức Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên tìm tới viếng Bụt. Hai vị bạch:
– Chúng con nghĩ là đã đến lúc chúng con phải đi qua bên ấy để giúp các anh em khất sĩ đã vì dại dột mà đi lầm đường lạc lối. Chúng con xin phép Bụt cho chúng con vắng mặt một thời gian.
Bụt nhìn hai vị đại đệ tử:
– Các thầy đi thì đi, nhưng các thầy hãy giữ gìn cẩn thận vàlàm mọi cách để bảo toàn thân mạng.
Vừa lúc ấy đại đức Xá Lợi Phất trông thấy thanh gươm trên nền đất. Đại đức đưa mắt nhìn Bụt, không nói. Bụt gật đầu:
– Đúng như thế. Hồi hôm có anh lính được lệnh lên ám sát Như Lai, nhưng đã được Như Lai độ cho rồi. Thanh gươm ấy cứ để đó, chừng nào cư sĩ Kỳ Bà lên núi, Như Lai sẽ nhờ cư sĩ đem xuống núi.
Đại đức Mục Kiền Liên nhìn bạn:
– Bỏ Bụt mà đi lúc này, đệ không được an tâm lắm. Sư huynh nghĩ sao?
Xá Lợi Phất chưa trả lời thì Bụt nói:
– Các thầy cứ an tâm mà đi, Như Lai có đủ tỉnh thức để tránh được những tai họa có thể xảy tới.
Hai vị đại đệ tử sụp lạy thầy trước khi xuống núi.
Chiều hôm ấy có mấy vị khất sĩ từ tu viện Trúc Lâm lên thăm Bụt. Thấy Bụt họ không nói năng gì cả. Họ chỉ đứng ôm mặt khóc.
Bụt hỏi:
– Này các vị khất sĩ, tại sao các vị khóc?
Một vị khất sĩ lau nước mắt và trả lời Bụt:
– Thế Tôn, chúng con từ Trúc Lâm về, giữa đường chúng con gặp sư huynh Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên. Chúng con hỏi hai sư huynh đi đâu. Hai sư huynh nói là đi qua Tượng Đầu. Chúng con buồn quá nên chúng con khóc. Hơn năm trăm vị khất sĩ đã bỏ Bụt mà đi rồi, bây giờ hai vị đệ tử lớn nhất của Bụt mà cũng bỏ Bụt đi nữa thì chúng con không buồn sao được?
Bụt bật cười. Người an ủi các thầy khất sĩ:
– Này các vị, các vị đừng buồn nữa. Như Lai biết là ở đâu, lúc nào, Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên cũng không phản bội Như Lai đâu.
Nghe Bụt nói, các vị khất sĩ cảm thấy yên dạ hơn. Họ xin phép được ngồi im lặng một lát dưới chân Bụt.
Ngày hôm sau, Bụt được y sĩ Kỳ Bà mời về tịnh xá riêng của ông trong vườn xoài để thọ trai. Đại đức A Nan Đà cùng đi với người.
Bụt và đại đức A Nan Đà vừa thọ trai xong thì Kỳ Bà thông báo có hoàng thái hậu Videhi đến thăm ông và vì nghe nói có Bụt ở đây nên thái hậu xin vào viếng người. Bụt biết cuộc viếng thăm này đã được y sĩ sắp đặt trước. Người cho mời thái hậu vào.
Lạy Bụt xong, thái hậu khóc nức nở.
Bụt để yên cho thái hậu khóc. Một hồi sau, người nói:
– Có chuyện gì xin thái hậu cho Như Lai biết.
Thái hậu nói:
– Bạch Thế Tôn, tình trạng thượng hoàng rất nguy ngập. A Xà Thế quyết định bỏ đói thượng hoàng cho đến chết. Nó không cho con đem thức ăn vào cho thượng hoàng nữa.
Rồi bà kể cho Bụt nghe rằng mới hôm đầu tháng, bà còn được phép mang cơm vào cho thượng hoàng Tần Bà Xa La, nhưng sau đó mấy hôm, khi bà vào thăm thượng hoàng, quân lính chặn lại và lấy mất thức ăn. Bà vào thăm thượng hoàng mà chỉ biết ngồi khóc. Thượng hoàng an ủi bà, nói rằng người không oán giận A Xà Thế. Ngài nói ngài nhịn đói mà băng cũng được, miễn là nước nhà không bị nội chiến tàn phá.
Sáng ngày hôm sau, bà giấu mấy vắt cơm nhỏ trong tóc của bà, và bà cũng mang trên tay ít thực phẩm để vào thăm thượng hoàng. Bọn lính canh chặn bà lại, lấy mất thức ăn trên tay bà nhưng không biết bà có giấu cơm trong mái tóc. Thượng hoàng đã ăn cơm ấy. Bà đã làm như thế được tám hôm. Thấy thượng hoàng không chết, A Xà Thế bắt quân lính khám xét bà rất kỹ. Chúng tìm thấy cơm trong tóc bà. Vậy là bà không thể đem cơm vào cho thượng hoàng được nữa.
Ba hôm sau bà nghĩ ra được một cách mới. Bà nấu một loại đề hồ gồm có sữa, mật ong và bột. Bà tắm gội sạch sẽ, lau mình thật khô rồi trát một lớp đề hồ lên thân thể, đợi cho ráo rồi mới mặc xiêm y. Quân lính canh không thấy có thức ăn và cơm giấu trong tóc, liền để cho bà vào. Vào tới nơi, bà cởϊ áσ và bóc lớp đề hồ ra để thượng hoàng ăn tạm. Bà đã làm được hai lần như thế, nhưng bà rất sợ là trong một vài tuần, mưu của bà sẽ bị khám phá và bà sẽ không còn được phép vào thăm thượng hoàng nữa.
Kể tới đây, thái hậu lại ôm đầu khóc.
Bụt lặng thinh. Một lát sau, người hỏi về tình trạng sức khỏe của thượng hoàng, về thể chất cũng như về tinh thần. Thái hậu nói thượng hoàng đã ốm đi nhiều, nhưng vẫn còn khương kiện. Tinh thần thượng hoàng rất cao. Ngài không tỏ vẻ oán giận hay buồn rầu gì cả. Thì giờ trong tù, ngài dùng vào việc thiền tọa và thiền hành. Có một hành lang khá dài, ngài thường đi thiền hành dọc hành lang đó. Phòng giam ngài có một cánh cửa có chấn song. Từ khung cửa ấy ngài có thể nhìn thấy núi Linh Thứu. Ngài ngồi trước cửa ấy để nhìn về núi Linh Thứu mỗi ngày, ngồi rất lâu. Ngồi thiền, thượng hoàng cũng ngồi ở đấy, mặt xoay về núi Linh Thứu.
Bụt hỏi thái hậu xem bà đã đưa tin về vua Pasenadi chưa. Bà nói là bà chưa có phương tiện, Bụt nói người sẽ nhờ một vị khất sĩ đưa tin về Xá Vệ giúp bà.
Thái hậu tạ ơn Bụt. Bà kể cho Bụt nghe là hồi A Xà Thế chưa sinh, các chiêm tinh gia đã đoán rằng A Xà Thế là người sẽ phản lại vua cha. Bà nói hồi bà có mang thái tử, một hôm không biết vì cớ gì mà bà rất thèm cắn vào bàn tay vua Tần Bà Xa La mà hút máu. Bà hoảng kinh, không ngờ rằng chính bà mà lại có được cái ý tưởng và cái thèm khát ghê tởm đó. Từ nhỏ đến lớn chưa bao giờ bà dám nhìn người ta gϊếŧ một con gà hay một con cá, bà rất sợ khi thấy máu chảy, nhưng hôm ấy thật sự là bà muốn cắn tay vua để hút máu trong tay ngài. Bà chống trả lại sự thèm khát đó một cách tuyệt vọng. Cuối cùng bà ôm mặt khóc nức nở, và cảm thấy tủi hổ vô cùng.
Một hôm khác trong bữa ăn, vua Tần Bà Xa La cầm dao gọt trái cây làm sao đó mà bị đứt tay, mấy giọt máu chảy ra, lập tức bà ôm lấy tay vua đưa miệng mυ"ŧ máu chỗ bị thương. Vua rất lấy làm lạ, nhưng vẫn để cho bà hút. Hút xong mấy giọt máu, bà nằm lăn khóc nức nở. Hoảng kinh, vua tới nâng bà dậy hỏi han. Bà phải nói cho vua nghe cái thèm muốn ghê gớm đó của bà. Bà đã chống trả một cách kịch liệt nhưng cuối cùng đã bị thua. Bà biết cái thai trong bụng bà đã là nguyên nhân đưa đến cái thèm khát kỳ dị đó.
Các chiêm tinh gia được vua mời tới đều nói rằng đứa con trong bụng sau này sẽ làm hại vua và đề nghị nên tiêu diệt nó. Vua Tần Bà Xa La không chịu, bà cũng không chịu. Tuy nhiên khi sinh, thái tử đã được đặt tên là A Xà Thế. Tên này nghĩa là “kẻ thù không sinh ra”.
Bụt khuyên bà đừng nên vào thăm thượng hoàng mỗi ngày. Cứ hai hoặc ba ngày thì mới nên vào một lần để vua A Xà Thế khỏi nghi.
Mỗi lần vào thăm như thế, bà có thể ở lại… với vua thật lâu. Đề hồ bóc ra, nên để dành và ăn mỗi ngày ít thôi, đề phòng trường hợp thái hậu bị cấm vào thăm viếng.
Dặn dò thái hậu xong, Bụt giã từ Kỳ Bà và trở về Linh Thứu.