Hồi mới chín tuổi, Tất Đạt Đa đã nghe kể lại rằng ngày có mang Tất Đạt Đa, mẹ của Tất Đạt Đa nằm mộng thấy một con voi trắng sáu ngà từ trên trời đi xuống. Trên không nhã nhạc vang lừng và tiếng ca hát chúc tụng của chư thiên vọng lên không ngớt. Con voi trắng đi xuống càng lúc càng gần, da của nó trắng như tuyết trên đỉnh núi và vòi của nó quấn một đóa sen hồng. Con voi tới gần bà, đưa đóa hoa chạm vào người bà. Rồi con voi ấy đi vào trong bà. Tự nhiên bà thấy trong người sảng khoái lạ thường. Bà có cảm tưởng rằng từ nay bà sẽ không bao giờ còn khổ đau, lo lắng, giận dữ và phiền muộn nữa. Bà thức giấc. Chưa bao giờ bà cảm thấy hạnh phúc như thế. Bà trỗi dậy. Những tiếng hát ca của chư thiên và nhạc trời êm ái còn như văng vẳng bên tai bà. Bà đi tìm vua Tịnh Phạn và kể cho vua nghe về giấc mộng. Vua chia sẻ niềm vui với bà. Sáng hôm ấy, vua vời những đạo sĩ và những thầy Bà La Môn nổi tiếng ở kinh đô vào cung để nhờ đoán mộng. Sau khi đã nghe kể về giấc mộng của hoàng hậu, các vị đều nói:
– Tâu bệ hạ, hoàng hậu sẽ hạ sinh một hoàng nam. Thái tử sau này sẽ là một người xuất chúng. Thái tử có thể sẽ là một vị chuyển luân thánh vương trị vì cả bốn cõi; thái tử cũng có thể sẽ đi tu và trở thành vị lãnh đạo tinh thần cho cả cõi người và cõi trời, cõi đất của chúng ta, tâu bệ hạ, đã chờ đợi từ lâu rồi một người như thái tử.
Vua Tịnh Phạn rất vui mừng. Sau khi hội ý với hoàng hậu, vua cho lệnh lấy bớt tài vật trong kho ban phát cho những người ốm đau và bệnh tật trong xứ. Thần dân ở vương quốc Thích Ca đều được thấm nhuần ơn đức của vua và hoàng hậu.
Mẹ của Tất Đạt Đa tên là Mahamaya người nước Koliya. Hoàng hậu Maya là một người đức hạnh. Bà thương yêu con người, nhưng bà cũng biết thương yêu các loài cầm thú và cỏ cây. Mùa Xuân năm sau, đúng vào ngày trăng tròn tháng tư, hoàng hậu hạ sinh thái tử trên đường từ Ca Tỳ La Vệ về thủ đô Ramagama của vương quốc Koliya quê hương của bà.
Tục lệ của nước bà là người con gái có chồng phải về sinh con tại nhà cha mẹ. Trên đường đi, bà đã ghé vào nghỉ tại vườn Lumbini. Trong vườn muôn hoa đang nở rộ, chim chóc ca hát vang lừng. Những con công xòe đuôi rực rỡ trong nắng mai. Thấy một cây vô ưu hoa nở rực đầy cành, bà bước tới. Khi tới gần cây này, bà thấy hơi lảo đảo. Bà vội đưa tay nắm chặt một cành cây vô ưu. Một giây sau đó, bà sinh em bé. Thái tử Tất Đạt Đa được các thị nữ nâng lên và bọc lại trong một tấm khăn choàng bằng lụa màu vàng. Các thị nữ biết rằng chuyến đi Ramagama không cần thiết nữa cho nên dìu hoàng hậu ra xe bốn ngựa đi trở về Ca Tỳ La Vệ. Thái tử được đem tắm bằng nước ấm rồi được đặt lên giường bên cạnh hoàng hậu. Được tin, vua Tịnh Phạn lập tức vào thăm hai mẹ con. Vua vui mừng khôn xiết. Mặt vua sáng rỡ. Vua đặt tên cho thái tử là Tất Đạt Đa.
Hôm đó tất cả quần thần đều được nghe tin, mọi người đều đến chúc mừng vua và hoàng hậu. Vua Tịnh Phạn truyền mời các ông thầy tướng giỏi đến coi tướng cho Tất Đạt Đa. Ông thầy nào cũng nói rằng Tất Đạt Đa có tướng của một vị chuyển luân thánh vương, và cũng đều tiên đoán rằng thái tử sẽ là một vị vua trị vì không phải một phương mà cả bốn biển.
Một tuần lễ sau đó, có một ông đạo sĩ Bà La Môn tên là Asita Kaladevala đến thăm. Đạo sĩ Asita là một ẩn sĩ trên núi. Vị đạo sĩ này đã già lắm, lưng ông đã còm. Ông phải chống gậy đi từ trên núi xuống.
Khi được quân hầu báo tin, vua Tịnh Phạn đích thân ra khách đường chào ông và đưa ông vào cung thăm thái tử. Ông nhìn thái tử một hồi mà không nói năng gì. Bỗng nhiên ông nấc lên khóc. Thân hình ông rung rung trên chiếc gậy. Vua hoảng kinh, hỏi:
– Tại sao, tại sao thầy khóc như thế? Có điều gì không hay sẽ xảy ra cho trẫm hoặc cho thái tử đây không?
Đạo sĩ Asita lấy tay quệt nước mắt. Ông lắc đầu:
– Tâu bệ hạ không có chuyện gì xấu cả. Tôi khóc là khóc cho số phận tôi. Tôi biết thái tử sau này sẽ thành một bậc vĩ nhân, thấu suốt được mọi lẽ huyền vi trong vũ trụ. Thái tử sẽ không làm vua đâu: thái tử sẽ làm một vị đạo sĩ lấy trời đất làm quê hương, lấy muôn loài làm thân tộc. Tôi khóc là vì tôi sẽ chết trong nay mai, và chẳng có diễm phúc được nghe tiếng nói chân thốt ra từ miệng người. Bệ hạ có phúc lớn lắm, nước nhà có phúc lớn lắm mới có được thái tử.
Tâu xong đạo sĩ Asita lập tức rời bỏ hoàng cung để về núi, vua Tịnh Phạn tìm đủ mọi cách để lưu ông lại, nhưng vua không thành công.
Cuộc viếng thăm của đạo sĩ Asita làm vua bâng khuâng. Vua không muốn rằng sau này Tất Đạt Đa đi tu. Vua chỉ muốn sau này Tất Đạt Đa nối nghiệp vua để làm vua, và mở rộng bờ cõi. Vua nghĩ rằng vị đạo sĩ Asita chỉ là một đạo sĩ trong hàng trăm hàng ngàn vị đạo sĩ khác. Có thể là ông nói sai. Và có thể những vị đạo sĩ khác đã nói đúng. Nghĩ như thế, vua thấy yên dạ.
Hoàng hậu Maya sinh thái tử được tám ngày thì mất. Cả nước thương tiếc bà. Vua Tịnh Phạn tuyển ngay em ruột của bà là bà Ma ha ba xà ba đề vào cung và đưa lên ngôi hoàng hậu. Phu nhân Pajapati cũng được gọi là Kiều Đàm di. Bà thay thế chị để chăm sóc Tất Đạt Đa. Tất Đạt Đa là cháu gọi bà bằng dì, nhưng bà thật sự xem Tất Đạt Đa như con ruột của chính bà. Lớn lên, Tất Đạt Đa đã nhiều lần hỏi bà về mẹ. Tất Đạt Đa biết rằng dì Kiều Đàm Di thương mẹ lắm và cũng biết rằng trong trời đất có lẽ ngoài dì Kiều Đàm Di không ai có thể thương mình bằng mẹ của mình. Được săn sóc và thương yêu, Tất Đạt Đa lớn lên rất mau.
Một hôm đang ngắm Tất Đạt Đa chơi ngoài vườn ngự, bà Ma ha ba xà ba đề nghĩ:
– Đã đến lúc mình có thể dạy cho con trai đeo vòng và đeo ngọc.
Bà truyền thị nữ đem đủ các thứ vòng và chuỗi đến để bà đeo thử cho Tất Đạt Đa. Bà thử hết mọi loại vòng vàng và mọi loại chuỗi ngọc, nhưng không thứ nào đeo vào mà có thể làm cho Tất Đạt Đa đẹp hơn và dễ thương hơn, Tất Đạt Đa cũng tỏ ý không thích các loại trang sức này. Cuối cùng Kiều Đàm Di nhận thấy rằng cứ để cho Tất Đạt Đa tự nhiên thì Tất Đạt Đa lại đẹp hơn và dễ thương hơn, và bà truyền lệnh cất hết các thứ vòng vàng và chuỗi ngọc.
Đến tuổi đi học, Tất Đạt Đa được học đọc, học viết, học vẽ, học âm nhạc và học thể thao. Tất Đạt Đa được học chung với các vương tử khác trong dòng họ Thích Ca. Tất cả đều là con trai. Trong số các bạn học của Tất Đạt Đa có Đề Bà Đạt Đa, Ca Lưu Đà Di và Kim Tỳ La. Đề Bà Đạt Đa là em chú bác của Tất Đạt Đa. Ca Lưu Đà Di là con của một vị đại thần trong triều, Kim Tỳ La là một người em cô cậu của Tất Đạt Đa. Vì tư chất thông minh, Tất Đạt Đa học rất mau chóng. Thầy dạy chữ của Tất Đạt Đa là giáo sư Visvamitra. Đề Bà Đạt Đa đã là một đứa trẻ thông minh đối với ông, nhưng Tất Đạt Đa mới là đứa trẻ làm cho ông kinh ngạc. Ông chưa bao giờ dạy một đứa trẻ thông minh đến như thế.
Năm lên chín, Tất Đạt Đa được cùng các bạn đi dự lễ cày ruộng đầu năm. Bà Kiều Đàm Di đã tự tay mặc áo và mang giầy cho Tất Đạt Đa. Các bạn cùng lớp học đều được đi theo Tất Đạt Đa. Chính vua Tịnh Phạn sẽ đứng ra chủ tọa buổi lễ này.
Các vị đạo sĩ và tu sĩ Bà La Môn ở những cấp cao đều được mời tới tham dự.
Các thầy mặc áo và đội mũ rất sặc sỡ. Buổi lễ được cử hành ở những thửa ruộng tốt nhất của vương quốc không xa vòng ngoài hoàng thành là mấy. Đang là mùa Xuân, cờ xí treo đầy đường đầy ngõ. Thức ăn thức uống và rượu được bày la liệt trên các đài cúng thần. Các đội âm nhạc và ca vũ chia nhau đi các ngả đường để giúp vui cho ngày hội. Không khí tưng bừng náo nức. Các thầy Bà La Môn xướng tụng rất uy nghiêm.
Phụ vương của Tất Đạt Đa mặc áo hoàng bào và các vị đại thần trong triều phục lớn đều đang đứng xoay mặt về phía lễ đài. Tất Đạt Đa đứng với các bạn phía sau, một bên là Đề Bà Đạt Đa, một bên là Ca Lưu Đà Di. Các thị nữ nói rằng sau buổi lễ thì sẽ có ăn cỗ, và cỗ sẽ được bày ngay trên các bãi cỏ. Tất Đạt Đa thích lắm, vì ít khi Tất Đạt Đa có dịp được ngồi trên bãi cỏ mà ăn cơm, nhưng các thầy tụng kinh lâu quá, bọn trẻ nóng ruột chờ không nổi. Chúng rủ nhau đi chơi. Ca Lưu Đà Di kéo tay Tất Đạt Đa. Bọn trẻ kéo nhau về phía có ca vũ và âm nhạc. Trời đã bắt đầu nắng gắt. Áo quần các nhạc công đều đã ướt đẫm mồ hôi. Trán các nàng vũ nữ cũng lấm tấm mồ hôi. Chạy chơi một hồi lâu, Tất Đạt Đa cũng thấy nóng bức. Tất Đạt Đa bỏ các bạn đến núp nắng dưới một cây táo đỏ bên đường. Dưới bóng cây im mát, Tất Đạt Đa cảm thấy dễ chịu. Vừa lúc ấy bà Kiều Đàm Di đi đến. Bà nhìn Tất Đạt Đa:
– Mẹ đi tìm con từ hồi nãy. Con đi đâu lâu thế? Có lẽ con nên trở về dự cho xong buổi lễ để cho phụ vương vui lòng.
– Thưa mẹ, buổi lễ kéo dài quá. Các thầy đọc kinh gì mà lâu vậy hả mẹ?
– Họ đọc kinh Vệ Đà đó con, kinh đó nghĩa lý huyền diệu lắm. Mai này con sẽ được học. Kinh này do chính Thượng Đế Phạm Thiên mặc khải cho các thầy Bà La Môn tự không biết bao nhiêu đời rồi.
– Thế sao phụ vương không đọc kinh mà lại phải mời các thầy ấy đọc thưa mẹ?
– Chỉ những người sinh ra trong dòng họ Bà La Môn mới có quyền xướng tán và đọc tụng kinh này thôi con ạ. Họ thuộc giai cấp tăng lữ. Vì vậy các nhà chính trị như phụ vương con uy quyền nhiều như thế mà cũng cần phải nhờ tới họ.
Tất Đạt Đa suy nghĩ về những điều mà bà Kiều Đàm Di vừa nói. Cậu lặng yên hồi lâu rồi chắp hai tay lại:
– Xin mẹ trở lại với phụ vương con đi. Mẹ xin phép cho con được ở lại đây chơi. Ngồi dưới cây hồng táo này con thấy vui và khỏe quá thưa mẹ.
Chiều con, bà Kiều Đàm Di gật đầu. Bà lấy bàn tay vuốt lại tóc trên đầu Tất Đạt Đa, mỉm cười rồi trở lại lối cũ.
Các thầy Bà La Môn đã kết thúc việc đọc kinh. Vua Tịnh Phạn đã bước xuống ruộng, nắm lấy cán cày, và với sự phụ tá của hai vị võ quan, đi luống cày đầu tiên của mùa làm ruộng mới. Quần chúng hoan hô vang dội. Các nông dân trong vùng bắt đầu xuống ruộng làm theo vua, cày những luống đầu tiên trên ruộng họ.
Nghe tiếng hò reo, Tất Đạt Đa cũng chạy ra đứng ở bờ ruộng. Cậu thấy một con trâu đang nặng nhọc kéo cày, theo sau là một bác nông dân thân hình lực lưỡng, nước da như đồng đen. Tay trái bác cầm cày, tay phải bác cầm roi quất vào lưng trâu. Trời nắng gắt và mồ hôi ông ta chảy ra nhễ nhại. Đất lật ngửa rẽ ra thành luống hai bên lưỡi cày, thật đẹp. Có những con giun bị lưỡi cày xắn làm hai khúc, quằn quại trên luống đất mới cày. Có những con chim bay sà xuống xuống thấp, mổ những con giun và đứng ăn giun trên luống đất mới.
Rồi cậu thấy một con chim lớn sà xuống, cặp một con chim nhỏ bay lên.
Tất Đạt Đa đứng xem mải mê một hồi ngoài nắng, và đến lượt cậu, cậu cũng thấy mồ hôi chảy ướt trong người. Trời nóng quá, Tất Đạt Đa chạy về núp ở dưới cây hồng táo. Những hình ảnh mà cậu vừa chứng kiến đối với cậu thật là mới lạ. Những hình ảnh ấy kí©h thí©ɧ cậu. Tất Đạt Đa tới dưới cây hồng táo, ngồi xếp bằng và nhắm mắt lại để chiêm nghiệm về những gì đã thấy. Cậu ngồi rất thẳng, rất đẹp và khá lâu. Khắp nơi quần chúng đã bắt đầu tập họp ca hát, đàn địch, nhảy múa. Có những người đã bắt đầu dọn cỗ bàn trên những bờ ruộng hay dưới những bóng cây. Nhưng Tất Đạt Đa vẫn ngồi yên chăm chú vào những hình ảnh trong nội tâm, không nghe thấy gì.
Một lát sau, khi vua và hoàng hậu tới cây hồng táo để tìm con thì Tất Đạt Đa vẫn còn ngồi đó. Hoàng hậu Kiều Đàm Di cảm động đến muốn khóc khi thấy Tất Đạt Đa ngồi đẹp như bức tượng nhỏ dưới gốc cây, nhưng vua Tịnh Phạn thì khác. Vua cảm thấy lo ngại, chín tuổi mà con mình đã biết ngồi trầm tư như thế thì lời ông đạo sĩ Asita có thể thành sự thực. Phiền muộn, vua truyền lấy xa giá về cung trước, không ở lại dự tiệc trên bãi cỏ với quần thần.
Một đám trẻ con dân dã đi ngang qua đùa giỡn lớn tiếng. Bà Kiều Đàm Di đưa tay ra hiệu cho bọn trẻ im lặng. Bà chỉ cho bọn trẻ thấy Tất Đạt Đa đang ngồi dưới gốc hồng táo. Bọn trẻ đứng lại im lặng nhìn, bỗng nhiên Tất Đạt Đa mở mắt. Thấy hoàng hậu, thái tử mỉm cười:
– Mẹ ơi, đọc kinh cũng không giúp được những con chim và những con giun, mẹ ạ.
Tất Đạt Đa đứng dậy chạy đến cầm tay bà Kiều Đàm di. Cậu nhìn bọn trẻ con nhà dân dã đang đứng yên nhìn cậu.
Các em bé này cũng trạc tuổi với Tất Đạt Đa nhưng ăn mặc rách rưới, mặt mày lấm láp và tay chân gầy ốm.
Nhìn lại sắc phục của mình, Tất Đạt Đa thấy ngượng. Tuy nhiên cậu rất ưa chơi với bọn này. Tất Đạt Đa cười và đưa tay vẫy bọn trẻ. May cho Tất Đạt Đa là có một đứa con trai cười đáp lại. Được khuyến khích bằng nụ cười đó, Tất Đạt Đa quay lại xin phép mẹ cho bọn trẻ con được tới tham dự cuộc vui trên bãi cỏ với mình.
Bà Kiều Đàm Di lưỡng lự một chút rồi gật đầu chìu ý thái tử.