Bụt đã rời khỏi vương quốc Thích Ca nhưng người vẫn còn hoằng hóa ở miền Bắc vương quốc Câu Tát La. Người và khoảng một trăm hai mươi vị khất sĩ đang cư trú ở một công viên gần thành phố Anuplya của bộ tộc Mạt La.
Đại đức Xá Lợi Phất vẫn còn ở bên người. Ca Lưu Đà Di, Nan Đà và chú tiểu La Hầu La cũng ở bên người.
Trong thời gian Bụt ở ngoại thành Ca Tỳ La Vệ, nhiều thanh niên trong hoàng tộc đã đến xin xuất gia với người, phần lớn là xuất thân từ những gia đình có từ ba người con trai trở lên. Sau khi Bụt rời Ca Tỳ La Vệ được nửa tháng, có hai anh em ruột thuộc dòng họ Thích Ca cũng muốn đi xuất gia. Nhà của họ giàu lắm. Gia đình có tới ba cơ sở cư trú, một cho mùa Hè, một cho mùa mưa, và một cho mùa Đông. Hai anh em tên là Ma Nam Câu Lợivà A Nậu Lâu Đà. Thấy nhiều bạn hữu của mình trong hoàng gia đã đi xuất gia với Bụt, Ma Nam Câu Lợicũng muốn được đi xuất gia. Ma Nam Câu Lợinghĩ trong gia đình có hai người con trai thì nên đi xuất gia một người thôi, chàng nhường quyền xuất gia cho em. A Nậu Lâu Đà đi tìm mẹ để xin phép. Bà mẹ nói.
– Mẹ chỉ có hai con là niềm vui của mẹ thôi. Nếu một đứa trong các con xuất gia thì mẹ buồn lắm.
A Nậu Lâu Đà thưa với mẹ là đã có nhiều thanh niên trong hoàng tộc xuất gia, và nếp sống xuất gia sẽ đem lại lợi lạc không phải chỉ cho người xuất gia mà cho cả gia đình và xã hội. Chàng đã được nghe Bụt giảng tại tu viện Ni Câu Đà nhiều lần nên chàng giảng thuyết về đạo pháp rất hay. Cuối cùng bà mẹ nói:
– Nếu bạn của con là Baddhiya mà xuất gia, thì mẹ cũng cho con đi xuất gia.
Bà nói vậy vì bà nghĩ là Baddhiya chẳng bao giờ xuất gia đâu. Baddhiya là người trong hoàng gia, và chàng có chức vị rất cao, quyền hành và danh vọng rất lớn, khó có thể bỏ được tất cả để mà đi tu.
A Nậu Lâu Đà nghe mẹ nói liền tìm tới Baddhiya. Baddhiya làm trấn thủ các tỉnh miền Bắc vương quốc. Dưới quyền chàng có nhiều đội binh. Dinh thự của chàng có lính gác bốn phía. Kẻ hầu người hạ tấp nập. Baddhiya tiếp A Nậu Lâu Đà như một thượng khách. A Nậu Lâu Đà bảo bạn:
– Tôi muốn đi xuất gia theo học với Bụt, nhưng tôi không xuất gia được, đó là tại vì anh.
Baddhiya cười:
– Tại sao vì tôi mà anh không đi xuất gia được? Tôi cấm anh xuất gia hồi nào? Tôi sẽ làm đủ mọi cách để anh được xuất gia.
A Nậu Lâu Đà kể lại đầu đuôi câu chuyện, rồi chàng nói:
– Anh vừa hứa với tôi là anh sẽ làm đủ mọi cách để tôi có thể đi xuất gia, mà cách duy nhất là anh cùng đi xuất gia với tôi.
Baddhiya thấy mình kẹt quá, không phải là chàng không hâm mộ Bụt và đạo lý tỉnh thức. Chàng cũng đã có ý định sau này sẽ đi xuất gia, nhưng không phải bây giờ. Chàng nói:
– Bảy năm nữa tôi sẽ đi xuất gia. Anh cứ đợi tôi.
– Bảy năm nữa thì lâu quá. Biết tôi có còn sống đến lúc ấyhay không?
Baddhiya cười:
– Sao anh bi quan quá như vậy? Nhưng thôi, nếu anh nóng lòng xuất gia thì anh đợi ba năm nữa vậy.
– Ba năm cũng còn lâu quá.
A Nậu Lâu Đà nói:
– Thôi thì bảy tháng. Tôi còn phải sắp đặt công việc nhà cửa và trao trả quyền hành.
– Đã xuất gia thì cần gì phải sắp đặt lâu như thế. Xuất gia là từ bỏ hết để đi theo con đường xuất trần siêu thoát. Anh đợi lâu như thế lỡ ra anh đổi ý thì sao.
– Anh đã nói vậy thì bảy hôm nữa tôi sẽ đi với anh. Thôi anh về đi.
A Nậu Lâu Đà mừng rỡ về báo mẹ và anh biết tin này. Bà mẹ không ngờ quan tổng trấn Baddhiya lại chịu bỏ chức tước và danh vọng một cách dễ dàng như vậy. Bà chợt thấy tầm cao siêu của đạo lý giải thoát, và bà bằng lòng cho con đi xuất gia.
A Nậu Lâu Đà rủ thêm được một số các bạn hữu nữa cùng đi xuất gia. Đó là Bhagu, Kim Tỳ La, Đề Bà Đạt Đa và A Nan Đà. Cả thảy là sáu người, tất cả đều là các vương tử quý phái. Đúng ngày hẹn, họ gặp nhau tại nhà Đề Bà Đạt Đa rồi lên đường. Tất cả đều đã là những chàng trai thành niên, trừ A Nan Đà ra, A Nan Đà mới có mười tám tuổi, nhưng chàng đã được phép cha là thân vương Bạch Phạn Vươngraja cho phép đi theo anh.
Bảy vị vương tử đi bằng xe tứ mã cho đến khi họ tới một thị trấn nhỏ nằm sát biên giới Câu Tát La. Họ cho xe trở về và cùng đi bộ tới biên giới. Họ biết Bụt và các vị khất sĩ tùy tùng đang cư trú ở Anupiya, cách biên giới không xa, A Nậu Lâu Đà đề nghị mọi người cởi bỏ hết những trang sức trên người và ăn mặc thật đơn giản trước khi vượt biên. Mọi người tán thành.
Họ cởi những xâu chuỗi ngọc và những chiếc vòng bằng vàng bằng bạc ra và gói lại trong một cái áo. Họ định đi tìm một người nghèo để tặng tất cả những châu báu đó rồi sẽ tìm đường ra biên giới sau.
Vừa định đi vào trong thôn để kiếm một người nghèo thì họ thấy có một quán hớt tóc bên đường. Cái quán khá tồi tàn: người thợ hớt tóc là một chàng thanh niên trạc tuổi họ, mặt mày cũng khôi ngô, nhưng ăn mặc rách rưới nghèo nàn. A Nậu Lâu Đà ghé vào quán. Chàng hỏi tên người thợ hớt tóc. Anh ta nói anh tên là Ưu Ba Ly. Chàng nói các vị vương tử muốn nhờ anh ta chỉ đường ra biên giới. Ưu Ba Ly bằng lòng.
Ưu Ba Ly đưa các vương tử đến biên giới nước Câu Tát La. Anh ta chào các vị vương tử để trở về. A Nậu Lâu Đà cám ơn Ưu Ba Ly và trao cho Ưu Ba Ly một chiếc áo cuốn tròn, trong đó có đầy đồ trang sức châu báu. Chàng nói:
– Ưu Ba Ly, chúng tôi muốn theo Bụt xuất gia. Chúng tôi không cần những thức trang sức châu báu này. Chúng tôi tặng lại anh. Từng ấy châu báu vàng bạc đủ để anh sống sung sướиɠ suốt đời.
Các vương tử chào Ưu Ba Ly, và lên đường. Người thợ hớt tóc mở chiếc áo ra. Vàng ngọc làm anh ta lóe mắt. Anh ta không tin đây là sự thật. Anh thuộc về giai cấp hạ tiện trong xã hội. Cha ông của anh đời này sang đời khác đã sống cần cù lam lũ và chưa bao giờ có được một lạng vàng hay một chiếc cà rá. Bây giờ đây anh có một bọc châu báu trong tay. Bỗng nhiên anh cảm thấy lo sợ. Ôm một bọc châu báu trong người, anh cảm thấy anh mất hết sự an ổn và thảnh thơi. Anh có thể mất mạng như chơi nếu có người biết anh đang ôm cái gì trong tay.
Ưu Ba Ly suy nghĩ. Anh thấy các vương tử giàu sang đến thế, quyền hành nhiều như thế mà vẫn bỏ hết để đi xuất gia. Chắc chắn những người này đã nhận thấy sự nặng nề và nguy hiểm của giàu sang và của danh vọng. Anh chợt có ý liệng bỏ gói châu báu để đi theo các vị vương tử, tìm cầu an lạc và giải thoát. Nghĩ như thế, anh làm ngay. Anh treo gói áo trên một cành cây gần đó, thầm nhủ rằng ai là người đầu tiên thấy được gói châu báu này thì gói châu báu này sẽ thuộc về người ấy. Treo gói áo lên cây xong, anh vượt biên và chạy theo các vị vương tử.
Chỉ một giờ sau, Ưu Ba Ly bắt kịp họ. Các vị vương tử ngạc nhiên thấy Ưu Ba Ly chạy theo mình. Đề Bà Đạt Đa hỏi:
– Ưu Ba Ly, anh chạy theo chúng tôi làm chi? Gói châu báu anh để đâu?
Ưu Ba Ly thở hổn hển một hồi, rồi kể lại câu chuyện.Chàng nói chàng đã treo gói áo lên một cành cây và nguyện tặng lại châu báu ấy cho người đầu tiên bắt gặp. Chàng nói chàng không cảm thấy an ổn với gói châu báu và xin được cùng các vị vương tử tìm tới Bụt để xuất gia.
Đề Bà Đạt Đa cười ha hả:
– Anh cũng muốn xuất gia như chúng tôi? Anh là…
A Nậu Lâu Đà ngắt lời Đề Bà Đạt Đa:
– Hay lắm, hay lắm! Chúng tôi rất hân hạnh được anh cùng đi với chúng tôi. Bụt có dạy rằng tăng đoàn như là biển cả, và người xuất gia như những con sông. Sông nào cũng chạy ra biển và cũng thành biển. Chúng ta tuy xuất thân từ những giai cấp khác nhau, nhưng khi đã gia nhập tăng đoàn thì chúng ta sẽ là anh em, không còn phân biệt giai cấp nữa.
Baddhiya tán thành ý kiến của A Nậu Lâu Đà. Chàng đưa tay nắm tay người thợ cạo Ưu Ba Ly. Chàng giới thiệu chàng là quan tổng trấn từng tri nhậm các tỉnh miền Bắc của vương quốc, và chàng giới thiệu các vị vương tử khác với Ưu Ba Ly. Ưu Ba Ly cúi chào từng vị với một dáng điệu kính cẩn. Sau đó bảy người lại tiếp tục lên đường.
Ngày hôm sau họ tới Anupiya. Họ hỏi thăm nơi cư trú của Bụt và tăng đoàn. Họ được biết Bụt và tăng đoàn hiện cư trú ở một khu rừng về phía Đông Nam cách thành phố chừng hai dặm. Bảy người tìm tới nơi này và được gặp Bụt.
Baddhiya thay mặt cả nhóm trình lên Bụt ý nguyện của họ được theo Bụt xuất gia. Bụt lặng yên ưng thuận. Baddhiya nói:
– Chúng con xin Bụt cho Ưu Ba Ly được xuất gia trước. Chúng con sẽ lạy Ưu Ba Ly như là một vị sư huynh. Như vậy chúng con có thể trừ khử ý niệm phân biệt và kỳ thị có thể còn sót lại nơi chúng con.
Bụt khen ngợi cả bảy người. Bụt cho Ưu Ba Ly làm lễ xuất gia trước, và sau đó làm lễ xuất gia cho sáu người: Baddhiya, A Nậu Lâu Đà, Bhagu, Kimbala, Đề Bà Đạt Đa và A Nan Đà. Tuy mới có mười tám tuổi, A Nan Đà cũng được xuất gia, nhưng chàng chỉ được thọ giới sa di và học theo hạnh khất sĩ. Đúng hai mươi tuổi chàng mới được thọ giới khất sĩ. Chàng là người trẻ nhất trong tăng đoàn, trừ La Hầu La. Được gặp lại chú A Nan Đà, La Hầu La mừng lắm. Ba hôm sau lễ thọ giới của bảy chàng, Bụt và các vị khất sĩ rời Anupiya, hướng về Tỳ Xá Ly.
Tại Tỳ Xá Ly, Bụt nghỉ ở rừng Mahavana, Bụt lưu lại ba hôm ở đây. Trong thời gian ấy Bụt có thuyết pháp cho dân chúng, rồi Bụt lại lên đường. Đi lần hồi trên mươi hôm nữa, Bụt về tới tu viện Trúc Lâm ở Vương Xá.
Các đại đức Ca Diếp, Mục Kiền Liên và Kiều Trần Như thấy Bụt về rất hoan hỷ. Đại chúng trong tu viện đông gần sáu trăm vị, ai cũng tỏ vẻ vui mừng. Vua Tần Bà Xa La nghe Bụt đã về, lập tức tìm tới thăm Bụt. Không khí Trúc Lâm rất sống động và vui tươi. Mùa mưa đã gần tới, và các đại đức Kiều Trần Như và Ca Diếp đã chuẩn bị đầy đủ về mặt tổ chức để đại chúng có thể an cư tu học. Đây là mùa an cư thứ ba từ ngày Bụt thành đạo. Mùa thứ nhất, Bụt ở Vườn Nai, mùa thứ hai và mùa thứ ba, Bụt ở tại Trúc Lâm.
Đại đức Baddhiya, trước kia làm quan tổng trấn miền Bắc vương quốc Sakka, và là người trong hoàng tộc Thích Ca, tu học rất tinh tiến. Tại tu viện Trúc Lâm, ông học theo đại đức Ca Diếp, chỉ cư trú dưới gốc cây mà không ngủ trong am thất. Ông học tập rất chuyên cần và sử dụng phần lớn thì giờ của ông vào việc thực tập thiền quán.
Một đêm kia trong lúc thực tập thiền tọa dưới một gốc cây, ông bỗng cảm nhận một niềm vui sướиɠ mà chưa bao giờ ông từng biết tới trong thời gian còn ở nhà. Ông thốt lên:
– Ôi, hạnh phúc! Ôi, hạnh phúc!
Lúc ấy trời đã về khuya. Có một vị khất sĩ ngồi thiền tọa cách ông không xa nghe được những tiếng ấy. Sáng hôm sau, vị này tới gặp Bụt. Ông thưa với Bụt:
– Thế Tôn, hồi khuya trong lúc thiền tập, con có nghe khất sĩ Baddhiya thốt lên hai tiếng “Ôi, hạnh phúc!”, con nghĩ là thầy Baddhiya không cảm thấy thoải mái với đời sống xuất gia. Có lẽ thầy ấy tiếc nuối những giàu sang và danh vọng khi còn là cư sĩ. Con xin trình bày để Thế Tôn biết, và để người định liệu.
Bụt gật đầu.
Trưa hôm ấy sau khi tăng đoàn đã thọ trai, Bụt thuyết pháp cho đại chúng. Sau thời thuyết pháp, Bụt gọi đại đức Baddhiya ra trình diện. Đại chúng có mặt đầy đủ trong giờ này, không những các vị khất sĩ mà còn có những người đệ tử cư sĩ đã đến cúng dường và nghe pháp. Bụt hỏi:
– Baddhiya, hồi khuya trong lúc thiền tọa, thầy có thốt lên “Ôi, hạnh phúc! Ôi, hạnh phúc!”, có đúng như thế không?
Đại đức Baddhiya chắp tay trả lời:
– Thế Tôn, hồi đêm quả thật con có thốt lên những tiếng đó.
– Tại sao xin thầy hãy nói cho đại chúng cùng nghe.
– Thế Tôn, ngày trước làm tổng trấn, con sống trong giàu sang, phú quý và có nhiều quyền lực. Đi đâu con cũng có một đội binh theo hầu cận và bảo vệ. Dinh phủ của con luôn luôn có binh lính canh gác ngày đêm, bên trong cũng như bên ngoài. Vậy mà lúc nào con cũng lo lắng, sợ hãi, cảm thấy thiếu an ninh.
Bây giờ đây đi một mình trong rừng, ngồi một mình dưới cội cây trong đêm vắng, vậy mà con không hề có cảm tưởng nghi ngại và sợ hãi. Con cảm thấy có một niềm thảnh thơi và an lạc chưa bao giờ từng có. Thế Tôn, đời sống xuất gia thật là thoải mái đối với con, con không sợ ai, con không sợ mất gì, con không có gì để sợ mất, và con sống vui thú như một con nai trong rừng. Trong thiền định đêm qua con thấy được rất rõ niềm thảnh thơi vui thú đó, cho nên con đã buột miệng kêu lên hai lần: “Ôi, hạnh phúc! Ôi, hạnh phúc!” làm kinh động đến Thế Tôn và các bạn tu của con. Con xin thành tâm sám hối.
Bụt ngợi khen Baddhiya trước mặt đại chúng. Người nói:
– Hay lắm, khất sĩ Baddhiya. Thầy đang đi những bước vững chãi trên con đường tự tại và vô úy. Niềm an lạc của thầy, cả chư thiên cũng biết ước ao, huống nữa là người đời.
Giữa mùa an cư năm ấy, Bụt có độ cho nhiều người xuất gia, trong số đó một nhân tài lỗi lạc: đó là MahaCa Diếp. MahaCa Diếp là con trai một thương gia giàu có vào bậc nhất ở vương quốc Ma Kiệt Đà. Tên cha mẹ đặt của chàng là Pippali. Gia tài của vị thương gia này chỉ thua có công khố quốc gia mà thôi, trong nước không ai giàu có bằng ông ta. MahaCa Diếp đã thành hôn với một thiếu nữ sinh trưởng ở Tỳ Xá Ly. Nàng tên là Bhadra Kapilani.
Hai người đã sống với nhau được mười hai năm, nhưng cả hai đều có chí xuất trần, cả hai đều muốn tìm thầy học đạo.
Một buổi sáng nọ khi thức giấc, MahaCa Diếp thấy vợ mình đang ngủ say và một cánh tay nàng buông thõng từ trên giường xuống tới gần mặt đất. Trong khi đó có một con rắn độc đang trườn qua dưới gầm giường nàng. MahaCa Diếp nín thở, không dám động dậy. Khi con rắn đã bò ra khỏi nhà, chàng tức tốc chỗi dậy đánh thức nàng.
Cả hai người cùng ngồi chiêm nghiệm về tính cách vô thường của cuộc đời. Vợ chàng khuyên chàng nên tức tốc đi tìm thầy học đạo. Nghe nói có Bụt hiện đang hướng dẫn đại chúng tu học tại Trúc Lâm gần thành Vương Xá, MahaCa Diếp liền vội vã đi tìm. Ngay khi mới trông thấy Bụt, chàng biết ngay đây là thầy của mình. Nói chuyện với MahaCa Diếp, Bụt nhận thấy đây là một con người lỗi lạc, hiếm có trên đời, Bụt nhận cho chàng xuất gia. MahaCa Diếp có trình bày với Bụt về trường hợp người bạn trăm năm của mình. Bụt bảo chàng cơ duyên chưa thuận lợi để có thể chấp nhận phụ nữ vào giáo đoàn. Người nói cần đợi thêm ít lâu nữa.