Nửa tháng sau, vua Tịnh Phạn thỉnh Bụt tới thọ trai trong hoàng cung để vua và hoàng gia lại có cơ duyên được nghe Bụt thuyết pháp. Lần này vua chỉ mời Bụt và đại đức Xá Lợi Phất chứ không mời tăng đoàn. Vua cũng không mời vị tân khách nào cả. Trong không khí gia đình, Bụt đã giảng dạy về cách theo dõi hơi thở, quán chiếu các cảm thọ, phương pháp đi thiền hành và ngồi thiền tọa. Người dạy dỗ rất kỹ về cách thức quán chiếu để duy trì chánh niệm và an trú trong chánh niệm. Da Du Đà La, La Hầu La, Nan Đà và Tôn Đà Lợi Nan Đà cũng có mặt trong buổi thuyết pháp này. La Hầu La đặc biệt có cảm tình với thầy Xá Lợi Phất. Cậu rất ưa đứng gần thầy và nắm lấy tay thầy.
Khi Bụt đứng dậy ra về, mọi người đều muốn đưa người ra tới cổng Nam. Bụt trao bình bát cho em là Nan Đà cầm và chắp tay búp sen chào mọi người. Nan Đà ôm bát, đợi Bụt chào xong thì trả bát lại, nhưng Bụt không lấy lại bát. Vì thế Nan Đà mang bát đi theo Bụt về tới tu viện.
Về tới tu viện, Bụt bảo Nan Đà ở lại chơi và sinh hoạt năm bảy hôm tại đây. Vừa yêu vừa kính Bụt, Nan Đà vâng lời. Thấy nếp sống ở đây rất thanh tịnh và thoải mái, vị hoàng tử trẻ đem lòng mến mộ. Một hôm, Bụt hỏi Nan Đà có muốn xuất gia theo Bụt tu học một thời gian không. Nan Đà đáp có. Bụt bảo thầy Xá Lợi Phất làm lễ xuất gia cho hoàng tử.
Việc xuất gia của Nan Đà, Bụt đã có bàn trước với phụ vương. Vua cũng đồng ý với Bụt rằng tuy Nan Đà đủ thông minh và rất hiền lành, chàng vẫn chưa có đủ nhận thức độc lập và tính cương quyết cần có của một nhà chính trị. Bụt nói với vua có thể cho Nan Đà đi theo tu học và gần gũi với Bụt một thời gian để Bụt có thể rèn luyện cho chàng những đức tính cần thiết. Vua đã đồng ý với Bụt.
Nan Đà xuất gia được một tháng thì bắt đầu nhớ vị hôn thê của mình là tiểu thư Yanapada Kalyani. Thầy có thể che giấu nỗi buồn, nhưng Bụt đã thấy hết. Bụt nói với thầy:
– Kẻ nam nhi muốn thực hiện chí nguyện lớn thì phải vượt qua được những tình cảm thông thường. Em phải quyết tâm học đạo và rèn luyện bản thân thì sau này mới có cơ giúp ích được cho đời.
Rồi Bụt dặn đại đức Xá Lợi Phất sắp đặt để thầy Nan Đà khỏi đi khất thực về khu phố của tiểu thư Kalyani. Khi Nan Đà biết điều này, thầy vừa oán Bụt mà cũng vừa thương Bụt. Thầy thầm bảo là ông anh mình không có cái gì là không biết. Ông ấy nhìn thấu tận đáy tâm can của mình.
La Hầu La thấy chú được xuất gia ở suốt ngày với Bụt thì ham lắm. Cậu phân bì với mẹ. Da Du Đà La vuốt đầu con, bảo rằng phải lớn lên ít nhất là bằng chú Nan Đà thì mới được đi xuất gia. La Hầu La hỏi mẹ làm sao để có thể lớn mau, Da Du Đà La bảo cậu phải ăn uống cho đàng hoàng và tập thể dục mỗi buổi sáng và mỗi buổi chiều. La Hầu La đã được mẹ dạy gọi Bụt bằng thầy. Bà nhớ hôm đầu tiên La Hầu La được thấy Bụt từ trên lầu cao, bà đã chỉ Bụt và nói với con: “Cái ông thầy tu ấy là cha con đó. Con chạy xuống chào cha con đi và bảo cha con trao gia tài lại cho con”. Từ hôm ấy, La Hầu La cứ quen gọi Bụt là “ông thầy tu ơi”. Da Du Đà La nghe được. Bà bật cười, gọi La Hầu La lại và bảo:
– Con đừng gọi Bụt là “ông thầy tu ơi”. Con phải gọi Bụt là “Thầy ơi”. Từ đó, La Hầu La mới dùng tiếng “Thầy ơi” để gọi Bụt.
Có một hôm tăng đoàn đi khất thực rất gần hoàng cung. Da Du Đà La và La Hầu La đứng ở trên lầu. Bà trông thấy Bụt giữa đám các vị khất sĩ. La Hầu La cũng trông thấy người. Da Du Đà La nói với con:
– Con chạy xuống với Bụt đi, và lần này nhớ xin cho được gia tài của người.
La Hầu La chạy xuống lầu. Cậu rất thương mẹ nhưng cũng rất thương Bụt. Ngày nào cậu cũng được ở với mẹ suốt ngày, nhưng cậu chưa từng được ở với Bụt suốt một ngày nào. Cậu ao ước được như chú là hoàng thái tử Nan Đà, hiện đang được sống suốt ngày bên cạnh Bụt.
Cậu chạy mau lắm, cậu đã xuống tới sân hoàng cung. Cậu chạy ra cửa Nam và thấy Bụt. Lúc bấy giờ Bụt đã khất thực xong và đang cùng các vị khất sĩ trong nhóm đi thành hàng chậm rãi trở về tu viện.
La Hầu La chạy thẳng tới một bên Bụt. Thấy La Hầu La, Bụt đưa một ngón tay trái ra. La Hầu La nắm lấy ngón tay ấy rồi đi theo Bụt. Cậu nói:
– Thầy ơi, đi ở bên thầy mát lắm, và dễ chịu nữa.
Nắng cuối Xuân đã bắt đầu gay gắt. Cậu bé đi bên Bụt vừađược hưởng bóng mát của người vừa được hưởng tình thương của người.
Đứng trên lầu cao, Da Du Đà La thấy hết. Bà biết La Hầu La được Bụt cho theo về tu viện.
Một lát sau, La Hầu La hỏi:
– Thầy ơi, gia tài của con đâu?
Bụt đáp:
– Về tu viện thầy sẽ trao cho con.
Trưa ấy về tới tu viện, đại đức Xá Lợi Phất chia phần ăn của mình với La Hầu La, La Hầu La được ăn cơm im lặng bên cạnh Bụt và bên cạnh đại đức Xá Lợi Phất. La Hầu La lại được gặp chú Nan Đà để nhõng nhẽo. Bụt bảo La Hầu La ngủ chung phòng với đại đức Xá Lợi Phất. Thầy nào cũng cưng quý cậu. Cậu muốn ở luôn tại tu viện. Đại đức Xá Lợi Phất nói muốn được ở luôn tu viện thì phải đi tu. La Hầu La nắm tay thầy Xá Lợi Phất tới xin Bụt cho phép đi tu. Bụt gật đầu. Bụt bảo thầy Xá Lợi Phất cho La Hầu La được xuất gia.
Đại đức Xá Lợi Phất ngạc nhiên. Thầy tưởng là Bụt nói đùa, ai dè Bụt lại nói thật. Thầy hỏi:
– Thế Tôn, làm sao mà cho La Hầu La xuất gia được?
Bụt dạy:
– Thì cho cháu tập sự xuất gia, thọ giới khu ô sa di, và giao cho cháu phận sự đuổi quạ trong giờ các thầy ngồi thiền. Quạ ở đây nhiều quá, chúng đến quấy phá các thầy trong giờ thiền tập khá nhiều.
Thầy Xá Lợi Phất xuống tóc cho La Hầu La, cho chú thọ tam quy và dạy cho chú bốn giới: không gϊếŧ hại, không trộm cắp, không nói dối, không uống rượu. Thầy lấy bớt một chiếc cà sa của thầy, cắt ra và may lại thành một chiếc cà sa nhỏ xíu cho La Hầu La mặc. Thầy dạy cho La Hầu La cách khoác y và ôm bát. Khoác y và ôm bát vào, La Hầu La trông giống một vị khất sĩ con con, ai thấy cũng thương. La Hầu La được lệnh ngủ chung với thầy Xá Lợi Phất, đi khất thực và học hỏi với thầy Xá Lợi Phất. Từ hôm có La Hầu La bên mình, thầy ít khi vào thành khất thực. Thầy đưa La Hầu La đi khất thực trong những thôn lạc gần tu viện. Theo phép người xuất gia, ai cũng chỉ được ăn mỗi ngày một bữa trước khi giờ Ngọ chấm dứt, nhưng La Hầu La còn nhỏ quá, sợ chú tiểu mất sức, thầy Xá Lợi Phất cho phép chú được ăn một lần nữa vào buổi chiều. Các vị thí chủ thường nhớ mang sữa và thức ăn để dành cho chú.
Tin La Hầu La đã được cạo đầu mặc áo cà sa làm chú tiểu đãvào tới trong cung điện. Vua Tịnh Phạn buồn lắm. Từ ngày La Hầu La đi với Bụt về tu viện, ông nội, bà nội, và mẹ chú nhớ chú lắm. Họ tưởng chú đi chơi vài hôm rồi về, ai ngờ chú lại ở trong tu viện và trở thành chú tiểu. Ông bà nội của La Hầu La không có cháu để cưng, rất lấy làm buồn khổ, nhưng Da Du Đà La thì buồn vui lẫn lộn. Tuy nhớ con quay quắt, nhưng mỗi khi nghĩ đến con đang được gần gũi Bụt, bà cũng thấy ấm áp trong lòng, bảy năm nay cậu bé đã thiếu cha.
Một buổi chiều, vua truyền lấy xe cho ngài về tu viện. Hoàng hậu Kiều Đàm Di và bà Da Du Đà La cũng được đi với ngài. Vua được Bụt ra đón tiếp. Nan Đà và La Hầu La cũng ra đón tiếp hoàng gia. La Hầu La chạy ra đón mẹ. Thầy Xá Lợi Phất gọi chú lại, bảo chú chỉ được đi chứ không được chạy. Da Du Đà La ôm lấy chú tiểu vào lòng. Sau đó, La Hầu La lại đi đến với ông nội và bà nội.
Vua làm lễ Bụt và nói, giọng có vẻ trách móc:
– Thế Tôn, trẫm đã đau xót vô cùng khi người bỏ nhà đi xuất gia, rồi mới đây, Nan Đà cũng bỏ trẫm, bây giờ đến La Hầu La cũng bỏ trẫm. Như vậy là quá đáng. Thế Tôn, đối với một người tại gia như trẫm, tình cha con và ông cháu rất nặng. Niềm đau xa cách cũng như nhát dao cắt vào da. Cắt vào da xong, dao cắt sâu vào da thịt, cắt sâu vào da thịt rồi, dao lại cắt vào xương và vào tủy. Vậy xin Thế Tôn nghĩ lại cho. Xin Thế Tôn và các vị đại đức từ nay đừng nhận cho người còn nhỏ tuổi xuất gia nếu không có sự ưng ý của cha mẹ chúng.
Bụt an ủi vua. Người thuyết pháp cho vua nghe để vua thấy được rõ thêm sự thực về vô thường và vô ngã. Người nói đến công phu tu tập tinh tiến hàng ngày như là cửa ngõ duy nhất thoát ra ngoài khổ nạn. Người nói Nan Đà và La Hầu La đang thực sự sống trong chánh đạo, đó là một điều may mắn và người khuyên vua tinh tiến trong sự tu tập đạo giải thoát, tìm được niềm vui chân thật trong nếp sống tỉnh thức hàng ngày.
Càng nghe Bụt, vua càng cảm thấy nhẹ nhõm, và cuối cùng vua đã vui lên trở lại. Bà Kiều Đàm Di và Da Du Đà La cũng được nghe Bụt nói. Hai người cũng cảm thấy được an ủi rất nhiều.
Nhân có đại đức Xá Lợi Phất ngồi bên, Bụt quay lại nói với thầy:
– Từ nay trở đi, các vị khất sĩ sẽ không chấp nhận cho trẻ em xuất gia nếu không có sự đồng ý của phụ huynh các em. Xin đại đức ghi vào quy chế như vậy.
Thấm thoát mà Bụt và giáo đoàn đã ở lại vương quốc Thích Ca hơn nửa năm. Số người đến xin xuất gia với Bụt hoặc với các vị khất sĩ lớn đã lên tới gần năm trăm vị. Số cư sĩ tại gia thì đông quá không thể nào đếm cho xiết. Vua Tịnh Phạn đã dâng cúng cho giáo đoàn một cơ sở mới để làm tu viện. Cơ sở này là cung điện mùa Hè ngày xưa của thái tử Tất Đạt Đa, có vườn cây rất rộng rãi và rất mát, nằm về phía Bắc kinh đô, đại đức Xá Lợi Phất sắp đặt để đưa mấy trăm vị khất sĩ về chủ trì tu viện này. Tăng đoàn đạt được cơ sở vững chắc cho sự hành đạo tại vương quốc, Bụt sẽ trở về tu viện Trúc Lâm cho kịp mùa an cư, như người đã hứa với vua Tần Bà Xa La và với tăng đoàn ở đấy. Vua Tịnh Phạn biết Bụt sắp ra đi nên đã thỉnh người vào cung để cúng dường và xin người thuyết pháp. Vua đã mời hoàng tộc và triều đình đến để nghe Bụt.
Trong buổi thuyết pháp này, Bụt đã nói về đạo đức và chính trị. Người nói đạo đức có thể soi sáng cho chính trị và người làm chính trị có thể nương theo đạo đức để thực hiện công bằng và hạnh phúc trong xã hội. Người nói:
– Nếu quý vị biết tu dưỡng bản thân, mở rộng tầm hiểu biết và lòng từ bi, thì quý vị sẽ tìm ra được một đường lối giúp nước và trị dân có thể đem lại thái bình và hạnh phúc mà không cần đến những phương thức bạo động. Quý vị không cần chém gϊếŧ, không cần đến những bản án tử hình, không cần đến những biện pháp tra tấn, tù đày và tịch biên gia sản. Điều này không phải là mộng tưởng mà là một điều có thể thực hiện được.
Khi người làm chính trị có đủ hiểu biết và thương yêu thì họ có thể thấy được sự thật về những người dân đang sống trong nghèo khổ và áp bức. Thấy được như thế, nhà chính trị sẽ tìm cách cải thiện guồng máy cai trị, để làm giảm bớt sự chênh lệch giàu nghèo trong xã hội và để loại trừ sự lạm dụng quyền thế và sự bóc lột dân nghèo.
Thưa quý vị, người làm chính trị phải sống đời gương mẫu. Đừng sống đời giàu sang thái quá, bởi vì sự giàu sang là bức tường ngăn cách mình với dân chúng. Nên sống thanh bạch, giản dị, và dùng thì giờ của mình vào việc ích nước lợi dân chứ đừng mải mê trong việc hưởng thụ dục lạc. Có như thế, người làm chính trị mới có được niềm tin của dân chúng. Hễ mình thương dân thì dân sẽ thương mình lại, do đó, mình có thể thực hiện được con đường chính trị nhân ái của mình. Con đường chính trị này có thể gọi là con đường đức trị, khác với con đường pháp trị. Đức trị thì dùng đạo đức nhiều hơn sự trừng phạt. Pháp trị thì dùng sự trừng phạt nhiều hơn đạo đức. Theo đạo lý Tỉnh Thức, hạnh phúc chân thật có thể đạt được bằng con đường đức trị.
Vua Tịnh Phạn và quần thần lắng nghe Bụt với tất cả sự chú ý. Hoàng thúc Bạch Phạn Vươngja, chú của Bụt, và là thân sinh của Đề Bà Đạt Đa, nói:
– Con đường đức trị mà Bụt nói thật là một con đường rất đẹp, nhưng có lẽ ở đây chỉ có một mình Bụt là có đủ tư cách và đức độ để thực hiện mà thôi. Tại sao Bụt không ở lại Ca Tỳ La Vệ, tại sao Bụt không nắm lấy giềng mối chính trị ở vương quốc Thích Ca này để tạo an lạc và hạnh phúc cho muôn dân?
Vua Tịnh Phạn cũng nói:
– Tuổi trẫm đã cao rồi. Nếu Bụt chịu ở lại thì trẫm sẽ thoái vị để Bụt ngồi vào vương vị. Với đạo đức của Bụt, với uy tín và sự thông minh của người, trẫm tin chắc là quốc dân sẽ hoàn toàn đứng sau lưng Bụt, và vương quốc chẳng lao lâu sẽ trở nên giàu sang và lừng lẫy.
Bụt mỉm cười, người lặng thinh cúi đầu. Cuối cùng nhìn vua, Bụt nói:
– Phụ vương, con không còn là người của một gia đình, của một dòng họ hay của một vương quốc nữa. Bây giờ đây gia đình của con là nhân loại, nhà cửa của con là trời đất và địa vị của con là một ông thầy tu sống nhờ vào hạt cơm bố thí của mọi người. Con đường mà con đã chọn là con đường của người đạo sĩ chứ không phải là con đường của nhà chính trị. Con nghĩ là con sẽ phụng sự cho nhân loại được bền bỉ hơn với tư cách của một người tu.
Hoàng hậu Kiều Đàm Di và Da Du Đà La không tiện phát biểu trong một cử tọa như cử tọa hôm nay, nhưng cả hai đều cảm động gần rơi lệ khi nghe Bụt nói. Hai người đều thấy Bụt nói đúng.
Bụt tiếp tục thuyết giảng cho vua và cho mọi người nghe về năm giới và cách tổ chức hành trì năm giới trong khung cảnh gia đình và trong xã hội. Người nói năm giới có thể được xem như là những nguyên tắc sống có thể đem lại hạnh phúc trong gia đình và hòa bình trong xã hội. Người giảng cặn kẽ về từng giới một. Cuối cùng người nói:
– Muốn có đoàn kết toàn dân, một niềm tin cần được tạo dựng.
Những người làm chính trị nếu thực hành được năm giới thì sẽ tạo được niềm tin lớn trong quốc dân. Với niềm tin ấy không có công trình gì mà không xây dựng được. Niềm tin ấy có thể bảo đảm được hòa bình, hạnh phúc và công bằng xã hội trong vương quốc. Nếp sống tỉnh thức là nền đạo lý mà chúng ta đang cần đến như một đường lối và một niềm tin. Giáo lý truyền thống Bà la môn không chứa đựng được đức tự tin và không bảo đảm được quyền bình đẳng giữa mọi con người. Ta hãy dùng đạo lý Tỉnh Thức như một niềm tin mới.
Bụt cho biết người sắp lên đường trở về vương quốc Ma Kiệt Đà, nhưng người sẽ còn trở lại Ca Tỳ La Vệ.
Vua, triều thần và hoàng tộc rất vui khi nghe người nói như vậy.