Chương 34: Mùa Xuân Đoàn Tụ

Công viên Ni Câu Đà ở về phía Nam Ca Tỳ La Vệ, cách kinh thành non ba dặm đường, Bụt và các vị khất sĩ tùy tùng nghỉ tại đây, theo lời đề nghị của khất sĩ Ca Lưu Đà Di. Đi theo Bụt về quê hương người có khoảng ba trăm vị khất sĩ do đại đức Xá Lợi Phất dẫn đầu. Đại đức Mục Kiền Liên ở lại tu viện Trúc Lâm và cùng các vị cao đức khác như Kiều Trần Như với ba anh em khất sĩ Ca Diếp lãnh đạo và duy trì nếp sống tu học của tu viện.

Ca Lưu Đà Di sau khi đã về báo tin cho vua, hoàng hậu và Da Du Đà La ngày về của Bụt, lại một mình ôm bát ra đi. Lần này thầy không đi với Xa Nặc. Thầy đi một mình với tư cách một du tăng, hướng về phương Nam để đón Bụt. Thầy áp dụng phép khất thực của giáo đoàn khất sĩ, ngày đi đêm nghỉ. Chỉ dừng lại các thôn lạc vào giờ khất thực mà thôi. Tới đâu thầy cũng báo tin là thái tử Tất Đạt Đa đi tu hành thành đạo sắp sửa trở về. Đi được chín hôm thì thầy gặp Bụt và đoàn khất sĩ từ phương Nam đi lên. Mừng rỡ, thầy gia nhập phái đoàn và cùng đi về hướng Bắc. Bụt và giáo đoàn khất sĩ được tiếp đón niềm nở bất cứ nơi nào ghé đến.

Về tới Ca Tỳ La Vệ, Bụt và các vị khất sĩ nghỉ một đêm tại công viên Ni Câu Đà. Sáng hôm sau người ôm bát cùng tăng đoàn đi vào kinh thành khất thực.

Cảnh tượng ba trăm vị khất sĩ khoác cà sa vàng, tay ôm bình bát, lặng lẽ và trang nghiêm đi khất thực trong thành phố đã gây một ấn tượng lớn trong lòng người thủ đô. Chẳng mấy chốc mà tin này được báo vào hoàng cung. Vua Tịnh Phạn, hoàng hậu và phu nhân Da Du Đà La được báo rằng Tất Đạt Đa hiện đang ở trong thành cùng đi xin ăn với hàng trăm vị khất sĩ khác. Vua truyền đánh xe ngự ra để vua đi gặp thái tử. Hoàng hậu Kiều Đàm Di hồi hộp chờ trong cung. Hai mẹ con La Hầu La cũng hồi hộp chờ trong cung. Xa giá vừa ra tới phố Đông thì vua gặp được đoàn khất sĩ.

Tất Đạt Đa có mặt trong đoàn khất sĩ ấy và vị võ quan hầu cận bên vua nhận ra ngay thái tử.

– Tâu bệ hạ, bệ hạ nhìn vị khất sĩ đi đầu, người mang chiếc cà sa dài màu hỏa hoàng kia.

Vua chợt nhận ra người con của mình, dáng điệu của Bụt uy nghi, từ tốn, người Bụt như tỏa chiếu hào quang. Bụt đang ôm bát đứng trước một ngôi nhà có vẻ nghèo nàn, người đứng trang nghiêm và lặng lẽ, làm như việc xin ăn là việc quan trọng nhất trong đời. Một lát sau, vua thấy một thiếu phụ ăn mặc rách rưới từ trong nhà đi ra, trong tay chỉ có một củ khoai nhỏ. Thiếu phụ quỳ xuống dưới chân Bụt rồi kính cẩn đặt củ khoai ấy trong bình bát của người. Bụt cũng kính cẩn không kém. Người nghiêng mình đáp lễ thiếu phụ, rồi mới lặng lẽ giã từ, bước sang ngôi nhà bên cạnh.

Xa giá của vua còn cách Bụt khá xa, nhưng vua bảo ngừng xe để vua xuống đi bộ. Ngài đi thẳng về phía Bụt. Bụt cũng vừa thấy vua. Hai người tiến lại gần nhau, dáng đi của vua hấp tấp, nhưng dáng đi của Bụt vẫn thong dong.

– Tất Đạt Đa! Vua thốt lên.

– Phụ vương! Bụt trả lời.

Đại đức Nagasamala lúc ấy cũng vừa đi tới bên Bụt. Bụt trao chiếc bát của người cho thầy thị giả. Người nắm lấy hai bàn tay của vua trong hai tay người. Mấy giọt nước mắt ứa ra và chảy xuống trên gò má đã bắt đầu nhăn nheo của vua. Bụt nhìn vua, hai mắt người bao phủ vua với một cái nhìn vừa dịu dàng vừa đầm ấm.

Vua biết rằng Tất Đạt Đa con mình bây giờ đây không còn là một vị đông cung thái tử nữa mà đã là một nhà tu, một vị lãnh đạo tinh thần. Vua muốn ôm Bụt vào lòng, nhưng biết làm như vậy là không ổn. Cuối cùng vua chắp hai tay nghiêng mình trước người con của mình, theo thể thức một vị quốc vương làm lễ một vị đạo sĩ. Vị võ quan hầu cận cũng bắt chước vua chắp tay nghiêng mình làm lễ Bụt.

Lúc ấy đại đức Xá Lợi Phất cũng đã đi tới gần bên Bụt. Bụt nói với Xá Lợi Phất:

– Tăng đoàn khất thực xong, xin thầy hướng dẫn họ về công viên Ni Câu Đà để thọ thực và an nghỉ. Thầy Nagasamala sẽ đi theo tôi. Chúng tôi vào thăm hoàng gia và sẽ thọ thực ở đấy. Chiều nay thầy Nagasamala và tôi sẽ trở về cùng quý vị.

Khất sĩ Xá Lợi Phất kính cẩn nhận lệnh của Bụt. Thầy nghiêng mình làm lễ vua và Bụt rồi quay gót.

Vua nhìn Bụt:

– Ta tưởng con về tới là đi về thăm gia đình ngay. Ai ngờ con còn đi khất thực ngoài phố. Tại sao con không về thẳng hoàng cung để ăn cơm?

Bụt mỉm cười nhìn cha:

– Con đâu có đi một mình. Con đi với cả giáo đoàn. Giáo đoàn các vị bikkhu, nghĩa là những người khất sĩ. Con cũng là mộtvị khất sĩ như mọi người và vì vậy con phải đi ăn xin như mọi người.

– Nhưng tại sao con phải xin ăn tại những nhà nghèo hèn như thế? Dòng họ Thích Ca ta trong bao nhiêu đời có ai làm như con không?

– Thưa phụ vương, dòng họ Thích Ca thì không ai làm như thế, nhưng dòng họ khất sĩ thì ai cũng làm như thế. Thưa phụ vương, đi khất thực là một phép tu nhằm thực hiện tinh thần khiêm cung và bình đẳng. Khi con nhận một củ khoai của một gia đình nghèo khổ, con cũng có thái độ cung kính như khi con nhận một món ăn sang trọng do một vị đế vương cúng dường. Thái độ cung kính này chứng tỏ rằng con đã có thể vượt ra khỏi sự phân biệt sang hèn, và cũng chứng tỏ rằng bất cứ ai dù nghèo hèn đến mấy cũng có nhân phẩm và cũng có thể đạt tới giải thoát và giác ngộ. Trong xã hội có nhiều sự chênh lệch về tài sản và quyền thế. Trong xã hội có rất nhiều bất công. Trong đạo pháp mà con tìm ra, mọi người đều được hoàn toàn bình đẳng. Đi ăn xin như thế này, con không làm cho nhân cách của con thấp thỏi đi mà trái lại, con làm cho giá trị của tất cả mọi con người được sáng tỏ ra. Thưa phụ vương, con mong phụ vương nghĩ tới một đường lối chính trị mà trong đó phẩm giá của mọi người dân đều được tôn trọng.

Vua Tịnh Phạn há miệng nghe người con trai mình thuyết pháp. Những lời đồn đãi lâu nay về Tất Đạt Đa thì ra đã là sự thật: con mình bây giờ đã trở nên một vị lãnh đạo tinh thần, và đạo đức của con mình đã bắt đầu chiếu sáng khắp thế gian.

Cầm tay vua, Bụt đưa vua đi bộ về hoàng cung. Thầy Nagasamala cũng đi theo sau vua và Bụt.

Trong khi ấy đứng ở lan can trên một từng lầu nơi hoàng cung, hoàng hậu Kiều Đàm Di, công nương Da Du Đà La và công chúa Tôn Đà Lợi Nan Đà đã nhìn thấy hết tất cả những gì xảy ra. La Hầu La cũng đang đứng gần đấy với một người thị nữ. Người thị nữ này trước đây khi còn dọn dẹp trên lầu đã trông thấy tăng đoàn đang khất thực và đã chạy xuống báo với hoàng hậu. Hoàng hậu dắt tay Tôn Đà Lợi Nan Đà cùng Da Du Đà La lên lầu. Từ trên cao, ba người nhận ra được Bụt đang dẫn đầu đoàn người khất sĩ, rồi họ thấy xa giá của vua dừng lại và chứng kiến cuộc gặp gỡ giữa vua và người con trai lớn của ngài.

Họ đã thấy vua vái chào Bụt theo nghi lễ cần có đối với một vị đạo sĩ lớn.

Bây giờ vua và Bụt đang tiến gần tới cửa hoàng cung. Da Du Đà La gọi La Hầu La lại. Một tay nắm tay con, một tay chỉ xuống Bụt, bà bảo:

– Này con yêu quý của mẹ, con có thấy ông thầy tu đang cầm tay ông nội và đi vào cửa hoàng cung đó không?

– Dạ con có thấy, La Hầu La đáp.

– Ông thầy tu ấy là cha của con đó. Con chạy xuống chào cha con đi. Cha con có gia tài quý báu lắm, cha con sẽ trao gia tài ấy cho con. Con xuống xin gia tài của con đi.

La Hầu La nghe lời mẹ, chạy xuống lầu. Trong khoảnh khắc cậu đã xuống tới sân điện chầu. Cậu chạy ra cửa hoàng cung, rồi cậu chạy lại với Bụt.

Bụt biết ngay cậu bé đang chạy tới là La Hầu La. Người mở rộng hai tay ôm lấy cậu bé. La Hầu La vừa thở hổn hển vừa nói:



– Ông thầy tu ơi, mẹ bảo xuống xin gia tài của ông thầy tu. Gia tài của con đâu, ông đưa cho con đi.

Bụt vuốt má La Hầu La. Người nói:

– Gia tài của con hả? Thong thả rồi cha sẽ trao lại cho con.

Bụt nắm lấy tay cậu bé. Người đi ở giữa, tay trái cầm tay La Hầu La, tay phải cầm tay vua cha, và ba người tiến vào cung. Hoàng hậu Kiều Đàm Di, Da Du Đà La và Tôn Đà Lợi Nan Đà cũng hướng về phía cầu thang đi xuống. Xuống tới sân điện, ba người thấy vua, Bụt và La Hầu La đi rẽ vào vườn Thượng Uyển. Ba người cũng đi theo lối ấy.

Trời mùa Xuân nắng lên rất ấm áp. Ngoài vườn Thượng Uyển tất cả các loại hoa đều đang nở rộ. Chim chóc ríu rít vang lừng. Bụt đưa vua và La Hầu La tới ngồi trên những chiếc cẩm đôn. Thầy Nagasamala cũng được Bụt mời ngồi xuống trên một chiếc cẩm đôn. Lúc ấy hoàng hậu Kiều Đàm Di, Da Du Đà La và Tôn Đà Lợi Nan Đà bước vào vườn Ngự.

Bụt đứng ngay dậy. Người đi tới phía ba người. Hoàng hậu Kiều Đàm Di, dáng dấp vẫn còn trẻ trung và khỏe mạnh. Bà khoác áo sari màu lá tre xanh mát. Cù Di vẫn xinh đẹp như tự thuở nào tuy nước da có hơi xanh. Chiếc sari nàng khoác trên người màu trắng như tuyết. Nàng không đeo một thứ phục sức nào cả, còn cô em gái Bụt năm nay mười sáu tuổi, đang vận sari màu vàng, mắt đen lay láy. Cả hai vị phu nhân đều chắp tay búp sen trước ngực và cúi đầu rất thấp để chào Bụt. Họ đã thấy quốc vương làm như thế và họ cũng bắt chước làm như thế. Bụt chắp tay lại thành búp sen để đáp lễ. Người kêu lên hai tiếng:

– Mẹ! Em!

Nghe tiếng Bụt gọi, bà Kiều Đàm Di và Da Du Đà La đều rơi nước mắt.

Bụt cầm lấy tay hoàng hậu và đỡ bà ngồi xuống trên một cẩm đôn. Người hỏi:

– Em Nan Đà của con đâu?

Hoàng hậu nói:

– Em nó đi tập võ, chắc cũng sắp về tới. Đây là em gái của con. Con thấy nó mau lớn không?

Bụt nhìn đứa em gái sau gần tám năm xa cách.

– Tôn Đà Lợi Nan Đà, em chóng lớn quá!

Bụt tiến tới cầm lấy tay Da Du Đà La, bà cảm động đến run rẩy trong tay Bụt. Người đưa bà tới ngồi xuống trên một chiếc cẩm đôn khác. Khi mọi người đã an tọa, Bụt mới ngồi xuống trên chiếc cẩm đôn của người. Từ hồi nãy đến giờ vua không ngớt hỏi thăm Bụt, nhưng bây giờ vua ngồi im lặng. Mọi người đều ngồi im lặng, kể cả chú La Hầu La. Bụt nhìn vua, nhìn hoàng hậu, nhìn Da Du Đà La, rồi nhìn Tôn Đà Lợi Nan Đà. Niềm vui đoàn tụ được biểu hiện trong mắt của từng người. Cuối cùng, Bụt lên tiếng:

– Thưa phụ vương, con đã về. Thưa mẹ, con đã về. Cù Di, em thấy không, ta đã về với em.

Lúc ấy hai người phụ nữ mới òa lên khóc.

Những giọt nước của họ là những giọt nước mắt sung sướиɠ. Bụt để yên cho họ khóc. Người gọi La Hầu La tới ngồi bên cạnh người, và vuốt tóc chú bé.

Một lát sau, lệnh bà Kiều Đàm Di lấy chéo áo sari lau khô nước mắt rồi mỉm cười nói với Bụt:

– Con đi lâu quá. Như vậy là đã hơn bảy năm trời. Con biết không, Cù Di là một người phụ nữ rất can đảm.

Bụt nhìn bà Kiều Đàm Di rồi nhìn Da Du Đà La. Người nói:

– Điều này con thấy từ lâu rồi. Mẹ và Cù Di là hai người phụ nữ can đảm nhất mà con đã biết. Không những mẹ và Cù Di đã gây dựng được ý chí cho người nam nhi, mẹ và Cù Di còn là mẫu mực của những người đàn bà đức hạnh nữa. Con có duyên lành lắm mới có được mẹ và có được Cù Di.

Da Du Đà La bây giờ mới mỉm cười. Có mặt vua và hoàng hậu, bà ít khi dám lên tiếng nói chuyện thân mật với Tất Đạt Đa.

Vua nói:

– Hồi nãy con có kể sơ lược cho ta nghe về những năm con đi tìm thầy học đạo và tu khổ hạnh. Bây giờ con có thể nhắc lại những điều đó được không, trước khi con kể tiếp?

Vâng lời phụ vương, Bụt kể sơ lược về những năm học đạo và hành đạo của mình. Người kể lại cuộc gặp gỡ giữa người với vua nước Ma Kiệt Đà, về ngày thành đạo, về những đứa trẻ ở xóm nghèo Ưu Lâu Tần Loa, về năm người bạn tu khổ hạnh, và về cuộc tiếp đón vĩ đại của vua Tần Bà Xa La. Mọi người lắng nghe Bụt với tất cả sự chăm chú. Cả La Hầu La cũng không phát ra một tiếng động.

Khi Bụt kể đến đoạn vua Tần Bà Xa La cúng dường Rừng Trúc, một cô thị nữ đi ra vườn Ngự và đến gần hoàng hậu Kiều Đàm Di, cô cúi xuống thầm thì mấy câu bên tai hoàng hậu. Hoàng hậu thầm thì mấy câu trả lời, rồi người thị nữ đi vào, bà đã ra lệnh cho người thị nữ đặt bàn dọn cơm trưa hoàng gia ra ngoài vườn Ngự.

Tiếng của Bụt đầm ấm. Người kể khái quát những gì đã xảy ra và không nói nhiều đến các chi tiết. Người cũng không nói nhiều đến những gian truân khổ hạnh của người. Nhưng người đã nhân câu chuyện mà gieo vào trong lòng những người thân thuộc những hạt giống tốt lành của chánh pháp.

Khi cơm nước đã được người hầu dọn ra đầy đủ ngoàivườn thì hoàng thái tử Nan Đà cũng vừa đi du hành về tới. Chàng mặc võ phục màu trắng.

Quân gác ở cửa thành đã cho Nan Đà biết là Bụt đã về, vìvậy Nan Đà đã vội vàng chạy vào cung. Không thấy ai, chàng hỏi người thị nữ. Thị nữ cho biết mọi người đang ở ngoài vườn Ngự. Chàng ra vườn Ngự. Thấy Bụt, Nan Đà vội chạy đến chào mừng, Bụt nắm tay em, người nói:

– Em lớn mau lắm. Năm ta đi, em mới có mười lăm tuổi. Bâygiờ em đã hai mươi hai rồi phải không?

Nan Đà gật dầu. Hoàng hậu nói:



– Con phải chắp tay chào anh con theo cách chào một vị đạo sĩ. Con làm cho quen đi.

Nan Đà vâng lời chắp hai tay trước ngực cúi đầu xá Bụt. Bụt cũng chắp tay lại đáp lễ em.

Mọi người quây quần quanh bàn ăn. Bụt đưa thầy Nagasamala tới ngồi gần bên mình. Người hầu đem nước tới để mọi người rửa tay. Vua hỏi:

– Hồi nãy hai thầy đã khất thực được những gì trong bát?

Bụt nhìn vào bát mình rồi nhìn vào bát của thầy thị giả. Ngườinói:

– Con chỉ mới xin được có một củ khoai, còn thầy Nagasamala chưa xin được gì hết.

Vua Tịnh Phạn đứng dậy:

– Vậy để ta sẽ cúng dường hai thầy.

Vua đứng dậy. Da Du Đà La cũng đứng dậy. Bà nói:

– Con xin mang các thức ăn đến để phụ hoàng cúng dường vào bát các thầy.

Bà nâng chậu cơm trắng giữa bàn lên trên hai tay rồi tiến đếnbên cạnh thầy Nagasamala.

Sau khi vua đã sớt cơm vào bát của thầy Nagasamala và của Bụt rồi, bà mới đặt chậu cơm xuống và nâng vịm thức ăn lên. Vịm thức ăn này toàn là thức ăn chay nấu với cà-ri, thức ăn bốc lên thơm ngát. Cúng dường xong, vua ngồi xuống, Bụt và thầy Nagasamala nâng bát lên mặc niệm. Ngồi quanh bàn, mọi người thấy thế cũng đều giữ im lặng. Mọi người ăn cơm im lặng theo Bụt. La Hầu La ngồi trước bát thức ăn do mẹ xới cho, cũng biết ăn cơm trong im lặng. Nắng càng ấm và tiếng ca hát của loài chim càng vọng lên rộn rã hơn.

Cơm nước xong, hoàng hậu thỉnh vua và Bụt rời bàn ăn trở về ngồi trên những chiếc cẩm đôn. Người hầu cận dâng lên mỗi người một trái quít. Ngoài La Hầu La, ai cũng cầm trái quít trong tay mà không ăn, bởi vì ai cũng lắng tai nghe Bụt kể chuyện. Phu nhân Kiều Đàm Di là người hỏi Bụt nhiều câu hỏi nhất. Khi Bụt nói chuyện về túp lều của Bụt tại tu viện Trúc Lâm, vua có ý định cất cho Bụt một tịnh thất như vậy ở công viên Ni Câu Đà và một số các tịnh xá nhỏ khác cho các vị đại đức lớn tuổi trong giáo đoàn. Vua ngỏ ý muốn Bụt ở lại vương quốc lâu ngày để giáo hóa. Hoàng hậu Kiều Đàm Di, Da Du Đà La, Nan Đà và Tôn Đà Lợi Nan Đà ai cũng tỏ vẻ vui mừng khi nghe lời phát biểu của vua.

Bụt nói đã đến lúc người cần trở về với tăng đoàn. Vua hỏi Bụt:

– Ta muốn Bụt và tăng đoàn tới thọ trai trong hoàng cung. Con nghĩ điều ấy có tiện không? Ta cũng muốn làm như vua nước Ma Kiệt Đà mời các vương hầu và nhân sĩ đến để được nghe con giảng bày về đạo lý.

Bụt cho phụ vương biết là điều đó có thể làm được. Mọi người thảo luận và đồng ý rằng trong bảy hôm nữa, hoàng gia sẽ thỉnh Bụt và tăng đoàn đến để cúng dường. Da Du Đà La cũng tỏ ý muốn mời Bụt và đại đức Ca Lưu Đà Di tới thọ trai ở Đông Cung, Bụt cũng nhận lời, nhưng người cho biết cần chờ đợi ít hôm sau ngày trai tăng của đại chúng.

Vua truyền đem xe tứ mã đưa Bụt về công viên Ni Câu Đà, nhưng người từ chối. Người nói người đã lập hạnh chỉ đi bộ mà thôi. Cả nhà đưa Bụt và thầy Nagasamala ra tận cổng hoàng cung. Cả nhà kể cả ông hoàng bé La Hầu La đều theo gương vua chắp tay trước ngực kính cẩn chào hai vị khất sĩ.

– Hồi nãy hai thầy đã khất thực được những gì trong bát?

Bụt nhìn vào bát mình rồi nhìn vào bát của thầy thị giả. Người nói:

– Con chỉ mới xin được có một củ khoai, còn thầy Nagasamala chưa xin được gì hết.

Vua Tịnh Phạn đứng dậy:

– Vậy để ta sẽ cúng dường hai thầy.

Vua đứng dậy. Da Du Đà La cũng đứng dậy. Bà nói:

– Con xin mang các thức ăn đến để phụ hoàng cúng dường vào bát các thầy.

Bà nâng chậu cơm trắng giữa bàn lên trên hai tay rồi tiến đến bên cạnh thầy Nagasamala.

Sau khi vua đã sớt cơm vào bát của thầy Nagasamala và của Bụt rồi, bà mới đặt chậu cơm xuống và nâng vịm thức ăn lên. Vịm thức ăn này toàn là thức ăn chay nấu với cà-ri, thức ăn bốc lên thơm ngát. Cúng dường xong, vua ngồi xuống, Bụt và thầy Nagasamala nâng bát lên mặc niệm. Ngồi quanh bàn, mọi người thấy thế cũng đều giữ im lặng. Mọi người ăn cơm im lặng theo Bụt. La Hầu La ngồi trước bát thức ăn do mẹ xới cho, cũng biết ăn cơm trong im lặng. Nắng càng ấm và tiếng ca hát của loài chim càng vọng lên rộn rã hơn.

Cơm nước xong, hoàng hậu thỉnh vua và Bụt rời bàn ăn trở về ngồi trên những chiếc cẩm đôn. Người hầu cận dâng lên mỗi người một trái quít. Ngoài La Hầu La, ai cũng cầm trái quít trong tay mà không ăn, bởi vì ai cũng lắng tai nghe Bụt kể chuyện. Phu nhân Kiều Đàm Di là người hỏi Bụt nhiều câu hỏi nhất. Khi Bụt nói chuyện về túp lều của Bụt tại tu viện Trúc Lâm, vua có ý định cất cho Bụt một tịnh thất như vậy ở công viên Ni Câu Đà và một số các tịnh xá nhỏ khác cho các vị đại đức lớn tuổi trong giáo đoàn. Vua ngỏ ý muốn Bụt ở lại vương quốc lâu ngày để giáo hóa. Hoàng hậu Kiều Đàm Di, Da Du Đà La, Nan Đà và Tôn Đà Lợi Nan Đà ai cũng tỏ vẻ vui mừng khi nghe lời phát biểu của vua.

Bụt nói đã đến lúc người cần trở về với tăng đoàn. Vua hỏi Bụt:

– Ta muốn Bụt và tăng đoàn tới thọ trai trong hoàng cung. Con nghĩ điều ấy có tiện không? Ta cũng muốn làm như vua nước Ma Kiệt Đà mời các vương hầu và nhân sĩ đến để được nghe con giảng bày về đạo lý.

Bụt cho phụ vương biết là điều đó có thể làm được. Mọi người thảo luận và đồng ý rằng trong bảy hôm nữa, hoàng gia sẽ thỉnh Bụt và tăng đoàn đến để cúng dường. Da Du Đà La cũng tỏ ý muốn mời Bụt và đại đức Ca Lưu Đà Di tới thọ trai ở Đông Cung, Bụt cũng nhận lời, nhưng người cho biết cần chờ đợi ít hôm sau ngày trai tăng của đại chúng.

Vua truyền đem xe tứ mã đưa Bụt về công viên Ni Câu Đà, nhưng người từ chối. Người nói người đã lập hạnh chỉ đi bộ mà thôi. Cả nhà đưa Bụt và thầy Nagasamala ra tận cổng hoàng cung. Cả nhà kể cả ông hoàng bé La Hầu La đều theo gương vua chắp tay trước ngực kính cẩn chào hai vị khất sĩ.