Chương 1: Đi Để Mà Đi

Trong bóng tre im mát, vị khất sĩ Cát Tường đang thực tập phép quán niệm hơi thở. Chú ngồi trong tư thế hoa sen. Từ hơn một tiếng đồng hồ, chú đã ngồi thực tập như thế một cách chăm chú. Đó đây trong tu viện Trúc Lâm, hàng trăm vị khất sĩ cũng đang ngồi thực tập thiền quán, hoặc trong bóng tre, hoặc trong những chiếc am lá nhỏ dựng rải rác khắp nơi trong tu viện, xen lẫn giữa những bụi tre xanh tươi và khỏe mạnh.

Bụt hiện đang cư trú trong tu viện này cùng với khoảng gần bốn trăm vị khất sĩ, học trò của người. Tu viện đông như thế mà vẫn thanh tịnh. Đất của tu viện rộng đến bốn chục mẫu. Những giống tre trồng ở tu viện đều là những giống tre đẹp khỏe, lấy từ khắp nơi trong vương quốc Ma Kiệt Đà. Tu viện tọa lạc ở phía Bắc thành Vương Xá. Tu viện này do chính vua Tần Bà Xa La hiến tặng cho Bụt, và cho giáo đoàn khất sĩ của người cách đây bảy năm.

Cát Tường mở mắt. Chú mỉm cười. Hai bắp chân chú đã mỏi. Chú tháo chân ra khỏi tư thế hoa sen và bắt đầu xoa bóp cho máu chạy đều trong hai chân. Cát Tường năm nay mới hai mươi mốt tuổi. Chú chỉ mới được xuống tóc và thọ giới khất sĩ cách đây ba hôm. Thầy Xá Lợi Phất, một trong những vị cao đệ của Bụt đã làm lễ truyền giới cho chú.

Cát Tường quê ở Ưu Lâu Tần Loa gần Gaya, chú được làm quen với Bụt ngay từ hồi Bụt chưa thành đạo, cách đây đúng mười năm. Hồi đó chú mới mười một tuổi.

Bụt thương chú lắm, cách đây nửa tháng, Bụt ghé lại làng Ưu Lâu Tần Loa tìm chú. Bụt đưa chú về đây, và Bụt đã bảo thầy Xá Lợi Phất truyền giới khất sĩ cho chú. Được chấp nhận vào giáo đoàn của Bụt, Cát Tường sung sướиɠ lắm.

Chú nghe nói trong giáo đoàn của người có rất nhiều vị khất sĩ xuất thân từ giới quyền quý, như thầy Nan Đà. Thầy Nan Đà cũng là hoàng thái tử, em ruột của Bụt. Lại có những vị hoàng thân khác như Bạt Đề Ly, Đề Bà Đạt Đa, A Nậu Lâu Đà và ANan Đà. Chú chưa được trực tiếp chắp tay chào hỏi các vị này, tuy chú đã được trông thấy họ.

Các vị này tuy đã đi tu, tuy đã khoác những chiếc áo cà sa bạc màu trên người nhưng dáng điệu vẫn còn mang tính cách thanh lịch và quý phái. Cát Tường có cảm tưởng là còn lâu lắm chú mới làm quen thân được với các vị.

Bụt là một vị hoàng tử con vua thật đấy, nhưng Cát Tường không còn tìm thấy được sự ngăn cách nào giữa người và chú.

Có lẽ vì chú quen với Bụt lâu rồi và ngày xưa đã từng ngồi với Bụt hàng giờ hoặc trên bờ sông Neranjara hoặc dưới cội bồ đề im mát. Chú thuộc về hạng những người cùng đinh, những người thấp kém và nghèo khổ nhất ở xứ chú.

Chú đã làm nghề giữ trâu trên mười năm nay.

Trong vòng nửa tháng vừa qua, chú đã chung đυ.ng với những người tu thuộc giai cấp quý tộc. Những người này đều là khất sĩ và là học trò của Bụt. Tuy họ rất tử tế với chú, tuy họ đã nhìn chú với con mắt có cảm tình và nhiều khi đã mỉm cười với chú, nhưng chú vẫn chưa cảm thấy thật sự thoải mái với họ. Chắc là tại chú chưa quen. Có lẽ phải sống với họ trong nhiều tháng nữa chú mới thực sự cảm thấy đây là thế giới của chú.

Nghĩ tới đây, Cát Tường lại mỉm cười. Ở đây ngoài Bụt ra, chú còn cảm thấy thoải mái với một người khác nữa. Đó là chú La Hầu La, con trai Bụt. La Hầu La năm nay mười tám tuổi, được theo Bụt tám năm rồi và trên đường tu học, La Hầu La đã bước được những bước thật dài. Hiện La Hầu La là bạn thân nhất của chú. Chính La Hầu La đã chỉ cho chú phương pháp quán niệm hơi thở. La Hầu La giỏi giáo lý và hành trì hơn chú nhiều nhưng sở dĩ chú ấy chưa được thọ giới khất sĩ vì tuổi chưa đến hai mươi.

Muốn được thành khất sĩ, muốn được thọ giới Tì- Kheo-Ni, nghĩa là giới khất sĩ thì ít nhất phải là hai mươi tuổi.

Tháng trước khi Bụt ghé vào làng Ưu Lâu Tần Loa tìm Cát Tường thì gặp lúc Cát Tường không có ở nhà, chú đang chăn trâu ngoài ruộng với đứa em trai tên là Rupak. Chỉ có hai đứa em gái của chú là ở nhà.

Bala là chị Rupak năm nay lên mười sáu, còn Bhima là đứa em gái út năm nay mười hai tuổi.

Bala nhận ra ngay được Bụt. Nó đòi ra bờ sông tìm anh, nhưng Bụt nói là để Bụt tự ý đi tìm. Rồi người rủ La Hầu La cùng đi.

Hôm ấy đi với Bụt còn có hai mươi mấy vị khất sĩ nữa. Ai cũng theo Bụt đi ra bờ sông. Quả nhiên khi ra tới bờ sông thì Bụt gặp Cát Tường. Lúc ấy trời đã chiều, và Cát Tường đang cùng Rupak tắm cho đàn trâu. Đàn trâu của Cát Tường chăn có tới tám con trâu lớn và một con nghé. Hai anh em Cát Tường cũng nhận ra Bụt ngay tức khắc.

Cát Tường cùng Rupak vội chạy đến chắp tay búp sen cúi đầu chào Bụt. “Các con đã lớn quá”, Bụt nhìn hai anh em và mỉm cười một cách thân ái.

Cát Tường đứng ngây người ngắm Bụt. Vẫn khuôn mặt trầm tĩnh và hai con mắt sáng ngời ngày xưa. Vẫn nụ cười bao dung và hiền hậu đó. Vẫn những lọn tóc nhỏ xoắn hình ốc trên đầu. Bụt khoác một chiếc y màu chàm, do nhiều miếng vải may kết lại. Người vẫn còn đi chân đất như thuở nào, Cát Tường đưa mắt nhìn các vị xuất gia đứng sau lưng Bụt. Chú nhận thấy vị nào cũng đi chân trần như Bụt. Vị nào cũng quấn y màu chàm. Chú để ý thì thấy y của Bụt dài hơn các vị thầy khác độ một tấc. Đứng gần Bụt là một thầy rất trẻ, trạc tuổi Cát Tường. Vị thầy này cứ nhìn chú mà mỉm cười hoài. Bụt xoa đầu Cát Tường và Rupak. Người bảo người đang trên đường về thành Vương Xá, tiện đường chiều này ghé lại thăm mấy anh em. Người bảo người sẽ đứng trên bờ sông, đợi hai anh em xuống tắm trâu cho xong rồi sẽ cùng về nhà.



Trên đường về làng Bụt giới thiệu chú La Hầu La với hai anh em. Chú La Hầu La là vị xuất gia trẻ tuổi nhất hồi nãy trên bờ sông cứ đứng nhìn hai anh em Cát Tường mà cười hoài. La Hầu La thua Cát Tường ba tuổi nhưng cũng đã cao bằng Cát Tường. La Hầu La chưa thọ giới khất sĩ, nhưng đã thọ giới xuất gia làm s’ramanera, nghĩa là một vị sa di. Trông chú không khác gì những vị khất sĩ khác. La Hầu La đi giữa hai anh em. Chú trao chiếc bát cho Rupak giữ, và chú đặt tay trên vai hai người một cách thân ái. Chú đã từng được nghe Bụt nói chuyện về gia đình Cát Tường rồi, và chú có rất nhiều cảm tình với gia đình này. Cũng vì vậy nên hai anh em Cát Tường cảm nhận ngay được thân tình mà La Hầu La bộc lộ.

Về tới nhà, Bụt hỏi Cát Tường có muốn theo học với Bụt và gia nhập giáo đoàn khất sĩ không. Đây là một điều mà Cát Tường mong ước từ lâu. Mười năm trước, Cát Tường đã từng tỏ lộ ước mơ ấy với Bụt. Ngày ấy Bụt cũng đã hứa là sau này sẽ thừa nhận chú làm học trò xuất gia. Và bây giờ đây người đã trở lại. Người đã không quên lời hứa. Các em của Cát Tường đã lớn cả rồi. Rupak em trai của Cát Tường đã có đủ khôn ngoan để một mình chăm sóc bầy trâu. Em gái lớn của Cát Tường là Bala cũng có đủ sức để làm một người nội trợ rồi.

Bụt ngồi ngoài sân, trên một ghế đẩu nhỏ.

Bụt ngồi ngoài sân, trên một chiếc ghế đẩu nhỏ. Tất cảcác vị khất sĩ đều đứng sau lưng người. Nhà của mấy anh em Cát Tường là một túp lều lụp xụp, vách đất, làm gì có đủ chỗ để mời tất cả mọi người vào. Rupak đi lùa trâu về nhà ông chủ trâu, cũng chưa về. Bala nói với Cát Tường:

– Anh cứ đi theo Bụt và các thầy đi. Tụi em ở nhà cũng đủ sức lo. Thằng Rupak nó mạnh lắm, mạnh hơn cả anh hồi xưa. Anh đi chăn trâu nuôi tụi em đã hơn mười năm rồi, không lý bây giờ tụi em không đủ sức để tự lo cho chính mình sao.

Ngồi bên lu nước, con Bhima ngửng lên nhìn chị, không nói năng gì. Cát Tường nhìn nó. Con bé năm nay đã lớn. Hồi Cát Tường mới được gặp Bụt, Bhima còn chưa đầy tuổi thôi nôi. Bala hồi đó mới sáu tuổi, đã phải vừa ẵm em vừa nấu cơm. Rupak hồi đó mới có ba tuổi, cả ngày vọc đất vọc cát chơi ngoài sân. Cha chúng vừa mất được sáu tháng thì mẹ chúng cũng bỏ chúng, ngay sau khi sanh em Bhima. Cát Tường mười một tuổi mà đã phải làm chủ gia đình. May mắn mà nó được chăn trâu cho gia đình ông Rambhul trong xóm. Nhờ chăn trâu giỏi cho nên nó kiếm đủ thức ăn mỗi ngày cho chính nó và cho các em. Nó còn kiếm được cách xin sữa trâu cho bé Bhima nữa.

Bhima có khuôn mặt xinh xinh. Thấy anh nhìn mình như có ý dọ hỏi, Bhima mỉm cười. Nó ngần ngừ một lát rồi nói, giọng nhỏ nhẹ:

– Anh đi với Bụt đi.

Nói xong Bhima quay mặt đi nơi khác, rơm rớm nước mắt. Bhima đã từng nghe anh nói về dự tính đi theo Bụt để tu học. Nó muốn anh nó được đi, nhưng nó lại buồn khi biết anh nó sắp đi.

Vừa lúc ấy, Rupak về tới. Rupak nghe được câu nói của em. Nó hiểu tất cả. Nó nhìn Cát Tường, và nói:

– Anh cứ đi với Bụt đi.

Mọi người im lặng, Rupak nhìn Bụt nói:

– Bụt cho anh con được đi học với Bụt. Con ở nhà đủ sức lo cho chị và cho em con rồi.

Và quay sang Cát Tường, Rupak nháy mắt:

– Nhưng thỉnh thoảng anh phải xin phép Bụt về thăm tụi em. Thế là vấn đề của Cát Tường được giải quyết. Bụt đứng dậy xoa đầu

Bhima và nói:

– Các con đi ăn cơm và chuẩn bị đi nhé. Sáng mai, ta sẽ trở lại đây đón Cát Tường cùng lên đường đi Vương Xá. Bây giờ ta và các thầy khất sĩ sẽ đi về cây Bồ Đề và sẽ nghỉ đêm trong ấy.

Ra tới cổng, Bụt quay lại. Người nhìn Cát Tường và nói:



– Ngày mai, con không cần đem theo gì hết. Chỉ cần áo mặc trên người thôi, con nhé.

Đêm đó, bốn anh em thức khuya. Cát Tường dặn dò các em đủ điều. Cát Tường ôm từng đứa em trong vòng tay, thật lâu. Bé Bhima khóc thút thít trong tay anh. Nhưng rồi bé lại ngửng lên nhìn anh và mỉm cười. Nó không muốn anh nó buồn. Ánh sáng chiếc đèn dầu tuy tù mù nhưng vẫn soi rõ được nụ cười của bé. Tối hôm đó không ai nghĩ đến chuyện ăn cơm tối cả, dù Bala đã nấu cơm sẵn cho bốn anh em từ hồi xế chiều.

Sáng tinh sương hôm sau, khi Cát Tường vừa dậy thì đã thấy chị Tu Già Đa đến thăm. Chị đến để chào từ giã Cát Tường, bởi chiều hôm qua trên đường bờ sông chị đã được gặp Bụt và đã được Bụt báo tin cho biết là Cát Tường sẽ lên đường theo Bụt. Chị Tu Già Đa là con gái của ông Hương cả. Chị lớn hơn Cát Tường hai tuổi, ngày xưa, chị cũng đã được gặp Bụt hồi người chưa thành đạo, và chị cũng từng giúp mấy anh em Cát Tường nhiều lần trong những cơn ốm đau hoạn nạn.

Tu Già Đa đem đến tặng Cát Tường một lọ dầu, nói là để đánh gió những khi bị nhức đầu. Hai chị em mới nói được vài ba câu chuyện thì Bụt và các thầy tới. Các em của Cát Tường cũng đã dậy và sửa soạn để tiễn đưa anh.

Chú La Hầu La đến ân cần hỏi thăm từng đứa em của Cát Tường. Chú hứa trong tương lai nếu có dịp đi ngang qua vùng Gaya thế nào chú cũng sẽ ghé thăm mấy đứa. Chị Tu Già Đa và ba đứa em của Cát Tường đưa Bụt và đoàn khất sĩ ra tới bờ sông. Đoàn người theo con đường ven sông để đi về phía Đông Bắc. Bốn chị em chắp tay chào Bụt, chào các thầy, chào chú La Hầu La và chào Cát Tường. Cát Tường thấy lòng nao nao. Đây là lần đầu tiên chú Cát Tường rời bỏ quê hương. Nghe nói phải đi đến mười hôm mới tới được thành Vương Xá. Bụt và các thầy khất sĩ đi thật khoan thai. Đi như thế này thì lâu đến là phải. Nhưng Cát Tường cũng chậm bước lại. Bước chân Cát Tường cũng trở nên khoan thai. Lòng Cát Tường bây giờ bình yên hơn. Cát Tường đã một lòng quay về nương tựa Bụt, nương tựa Pháp và nương tựa Tăng. Cát Tường đã có đường đi của mình.

Chú quay lại nhìn một lần chót. Bóng của chị Tu Già Đa và các em đã khuất sau rừng cây.

Cát Tường có cảm tưởng là Bụt đi để mà đi chứ không phải đi để mà tới. Đoàn khất sĩ đi theo người cũng vậy. Không ai tỏ vẻ nóng ruột hoặc hấp tấp muốn cho chóng tới Vương Xá. Mọi người bước những bước vững chắc, chậm rãi và thanh thản. Đi như là đi chơi. Không ai tỏ vẻ mỏi mệt. Vậy mà mỗi ngày đoàn người đi được rất xa. Cứ vào khoảng mười giờ sáng thì đoàn khất sĩ lại ghé vào một thôn xóm bên đường để khất thực. Họ đi thành một hàng. Bụt đi đầu, tay phải người nâng bình bát, Cát Tường đi chót, ngay sau chú La Hầu La. Đoàn người trang nghiêm vừa đi vừa theo dõi hơi thở, mắt nhìn phía trước. Thỉnh thoảng đoàn người dừng lại. Đó là khi có người trong xóm đem thức ăn ra cúng dường. Họ đứng nghiêng mình đổ thức ăn vào trong bình bát của các vị khất sĩ. Có người quỳ xuống bên đường để dâng cúng thức ăn. Các vị khất sĩ sau khi nhận thức ăn thầm lặng hộ niệm cho người thí chủ.

Đoàn khất sĩ sau khi khất thực từ từ đi ra khỏi thôn xóm và tìm tới dưới một khu rừng hay dưới một bãi cỏ. Họ ngồi xuống thành vòng tròn và chia xẻ thức ăn đã xin được cho những chiếc bình bát chưa có gì. Chú La Hầu La từ bờ sông đi lên mang theo một bình nước đầy. Chú cung kính mang bình nước tới trước mặt Bụt. Bụt chắp tay lại thành một búp sen. Chú đổ nước trên tay Bụt để Bụt rửa tay. Rồi chú đến trước các vị khất sĩ, cung kính đổ nước trên tay từng vị. Sau cùng chú đến đổ nước cho Cát Tường rửa tay. Sau đó mọi người chắp tay lại để quán niệm và chú nguyện. Rồi mọi người nâng bát lên ăn. Bữa ăn trang nghiêm và im lặng. Cát Tường chưa có bát. Chú La Hầu La đã chia thức ăn cho Cát Tường trên một tàu lá chuối tươi.

Thọ trai xong, đoàn khất sĩ tìm nơi nghỉ trưa. Có vị tiếp tục đi thiền hành. Có vị ngồi thiền tọa dưới gốc cây. Khi nắng bắt đầu dịu xuống, mọi người lại lên đường. Đoàn người đi cho đến khi bóng chiều ngả thì mới tìm nơi tá túc. Chỗ nghỉ đêm tốt nhất của họ là một khu rừng thưa. Mọi người đều có mang theo tọa cụ. Họ ngồi xếp bằng trong tư thế hoa sen để thiền tọa dưới một gốc cây. Có vị thiền tọa đến quá nửa đêm mới ngả lưng xuống nghỉ trên áo cà sa xếp tư của mình. Các vị khất sĩ thường mang theo mình một chiếc y khác. Họ dùng y này để đắp khi trời trở lạnh. Cát Tường cũng bắt chước mọi người thiền tọa, và chú cũng học cách ngả lưng ngủ dưới một gốc cây, đầu chú gối trên một chiếc rễ cây.

Buổi sáng thức dậy, Cát Tường thấy Bụt đã dậy từ hồi nào và đang an nhiên ngồi tĩnh tọa. Dáng điệu của người trầm tĩnh và an lạc lạ thường. Nhìn quanh, Cát Tường thấy nhiều vị khất sĩ cũng đã dậy và đang thực tập thiền quán. Khi trời đã sáng rõ, mọi người lại xếp y, cầm bát và chuẩn bị lên đường.

Ngày đi đêm nghỉ, như thế được mười hôm thì đoàn người tới thủ đô Vương Xá. Đây là lần đầu tiên trong đời Cát Tường thấy nhà cửa phố xá đông đúc như vậy. Xe ngựa rộn rịp. Tiếng cười tiếng nói vang vang. Tuy nhiên, đoàn khất sĩ vẫn đi khoan thai, nghiêm chỉnh và tịnh lạc như đi trên một bờ sông hoặc một con đường giữa hai cánh đồng lúa nơi thôn dã. Nhiều khách bộ hành dừng lại để ngắm đoàn khất sĩ. Có người nhận ra được Bụt. Họ vội sụp xuống lạy một cách kính cẩn. Đoàn khất sĩ vẫn an nhiên đi. Rồi đoàn khất sĩ về tới tu viện Trúc Lâm.

Tin Bụt về tới Trúc Lâm phút chốc đã được truyền đi khắp tu viện. Chỉ trong chốc lát, gần bốn trăm vị khất sĩ cư trú tại Trúc Lâm đã tề tựu lại tịnh xá của người để thăm hỏi. Bụt không nói chuyện nhiều, người chỉ hỏi thăm mọi người về hiện trạng tu học và hành đạo tại Trúc Lâm và tại thành Vương Xá. Rồi người giao Cát Tường cho thầy Xá Lợi Phất. Thầy Xá Lợi Phất hiện là vị giáo thọ của chú La Hầu La. Thầy cũng là vị giám viện của tu viện Trúc Lâm. Hiện thầy đang hướng dẫn việc tu học cho gần năm trăm vị khất sĩ tân học, nghĩa là những vị khất sĩ trẻ mới được xuất gia trong vòng vài ba năm. Người đứng đầu tu viện là đại đức Kiều Trần Như.

Chú La Hầu La có phận sự chỉ dẫn cho Cát Tường về thể thức sinh hoạt hàng ngày trong tu viện: cách đi, cách ngồi, cách đứng, cách chào hỏi, cách thiền hành, cách thiền tọa, và cách quán niệm hơi thở. La Hầu La cũng chỉ cho Cát Tường cách khoác y, mang bát, cách khất thực, chú nguyện rửa bát.

Nội trong ba hôm, Cát Tường theo sát chú La Hầu La để học tất cả những thứ đó. La Hầu La chỉ dẫn rất tận tình, nhưng Cát Tường biết rằng để có thể làm được những việc này một cách ung dung và tự nhiên như chú La Hầu La, chú phải thực tập trong nhiều năm. Cuối cùng thầy Xá Lợi Phất gọi Cát Tường vào thảo am riêng của thầy. Thầy bảo Cát Tường ngồi xuống trên một chiếc ghế thấp bên cạnh thầy và bắt đầu giảng cho Cát Tường về giới luật của người khất sĩ.

Khất sĩ là người từ bỏ đời sống gia đình, nương vào Bụt như người đưa đường chỉ lối cho mình trong cuộc đời, nương vào Pháp như con đường đưa tới sự thành tựu đạo nghiệp giải thoát, và nương vào Tăng như đoàn thể của những người cùng đi trên một con đường chí hướng. Người khất sĩ phải sống đời đạm bạc và khiêm nhường. Đi khất thực là để thực hiện tinh thần ấy mà cũng là để có cơ hội tiếp xúc với dân chúng và hướng dẫn mọi người vào con đường của hiểu biết và thương yêu mà Bụt chỉ dạy.

Mười năm về trước dưới cây Bồ Đề, Cát Tường và các bạn đã từng được nghe Bụt nói về đạo giải thoát như con đường của hiểu biết và thương yêu, nên bây giờ chú hiểu rất chóng những điều mà thầy Xá Lợi Phất đang giảng dạy. Nét mặt thầy nghiêm trang, nhưng hai mắt và nụ cười của thầy bộc lộ rất nhiều từ ái. Thầy nói sáng ngày mai Cát Tường sẽ được làm lễ thế phát xuất gia để được gia nhập vào giáo đoàn khất sĩ. Và thầy dạy cho Cát Tường học thuộc những câu nói mà chú phải nói trong lễ thọ giới.

Trong lễ thọ giới của Cát Tường, chính thầy Xá Lợi Phất, là giới sư truyền giới. Chỉ có khoảng trên hai mươi vị khất sĩ tham dự. Bụt cũng đến tham dự lễ truyền giới này. La Hầu La cũng có mặt. Cát Tường rất sung sướиɠ. Thầy Xá Lợi Phất làm lễ xuống tóc cho Cát Tường. Tay cầm dao cạo, thầy im lặng một lát để chú nguyện rồi đưa dao cạo một vài đường tóc trên đầu Cát Tường. Sau đó La Hầu La nhận trách nhiệm hoàn tất việc cạo đầu cho vị giới tử mới. Cát Tường được thầy Xá Lợi Phất trao cho ba chiếc y, một chiếc bình bát và một dụng cụ lọc nước. Đã học cách quấn y với La Hầu La rồi nên chú mặc y vào người một cách tự nhiên và mau chóng. Chú sụp lạy trước Bụt và đoàn thể các vị khất sĩ để biểu lộ niềm quý kính và lòng biết ơn của chú.

Ngay sáng ngày hôm ấy Cát Tường được tập sự đi khất thực. Chú đã là một Tì- Kheo-Ni. Quấn y, mang bát, chú gia nhập vào đoàn của vị y chỉ sư của mình, tức là thầy Xá Lợi Phất. La Hầu La là thị giả của thầy Xá Lợi Phất nên cũng có trong đoàn của chú. Mấy trăm vị khất sĩ trong tu viện Trúc Lâm chia nhau thành nhiều đoàn, mỗi đoàn đi khất thực trên một con đường khác nhau của thành Vương Xá. Hôm ấy Bụt không đi trong đoàn của Cát Tường.

Vừa bước ra khỏi tu viện, Cát Tường thấy ngay rằng đi hóa trai là một phương thức hành đạo. Lập tức chú trở về theo dõi hơi thở. Chú bước từng bước đoan nghiêm, đôi mắt nhìn thẳng về phía trước. Chú La Hầu La hiện đi ngay phía sau chú. Tuy Cát Tường có ý thức rằng mình là một vị khất sĩ thực thụ, chú cũng biết rất rõ là kinh nghiệm tu học của chú còn kém xa kinh nghiệm tu học của La Hầu La. Và chú thường nguyện nuôi dưỡng đức khiêm cung nơi chú.