“Ôi, lạy Chúa! Tôi xin lỗi!” tôi thốt lên. Đỉnh đầu đau nhói sau cú va chạm.
Liếc qua, anh ta với xuống và tóm lấy gáy con chó, nhấc nó lên – có một tiếng lách tách nhỏ khi sợi dây bật ra khỏi miệng Angus – và đưa nó cho tôi.
“Đáng lẽ anh không được nhấc nó lên như thế,” tôi nói, vỗ về cái cổ đáng thương của Angus trong khi nó nhá nhá cằm tôi.
“Đáng lẽ nó cũng không nên cắn tôi,” Callahan nói, không hề cười.
“Phải.” Tôi liếc xuống con chó, hôn lên đầu nó. “Xin lỗi vì cái, ừm, cằm của anh.”
“Trong tất cả những thương tích cô gây ra cho tôi đến giờ thì lần này là đỡ đau nhất.”
“Ôi. Vậy là tốt rồi.” Tôi xấu hổ đến nỗi mặt nóng ran nóng giật. “Vậy. Anh có định sống ở đây không, hay đây là một khoản đầu tư hay đại loại thế?”
Anh ta khựng lại, rõ ràng là đang tự hỏi xem liệu tôi có đáng để mất công trả lời hay không. “Tôi sẽ bán lại nó.”
“Ồ,” tôi thở phào. Angus phát hiện ra một chiếc lá cuốn qua bãi cỏ nhà tôi và vùng vẫy đòi được đặt xuống. Sau một giây ngần ngừ, tôi làm theo, thở phào khi nó chạy theo để đuổi chiếc lá. “Rồi. Chúc may mắn với ngôi nhà nhé. Nó rất dễ thương.”
“Cảm ơn cô.”
“Chúc ngủ ngon.”
“Ngủ ngon.”
Tôi bước vài bước về phía nhà mình, rồi dừng lại. “Mà này,” tôi thêm, quay lại phía người hàng xóm, “tôi đã Google về anh và thấy anh phạm tội biển thủ.”
Callahan O’Shea không nói gì.
“Tôi phải nói rằng tôi hơi thất vọng một chút. Hannibal Lecter(4), ít ra ông ta cũng thú vị.”
(4) Nhân vật tội phạm ăn thịt người trong tiểu thuyết Sự im lặng của bầy cừu.
Callahan cười vì câu đó, một nụ cười khẩy, gian ác hẳn lên nếp nhăn trên mắt và làm sáng lên khuôn mặt anh ta, một cái gì đó quặn lên nóng bỏng trong dạ dày tôi và dường như muốn trào ra trước người láng giềng vạm vỡ. Nụ cười đó là hứa hẹn kiểu gian manh, đủ loại nồng nhiệt, tôi thấy miệng mình đang thở ra khá là nặng nhọc.
Và rồi tôi nghe thấy một tiếng động. Callahan O’Shea cũng vậy. Tiếng lộp bộp nhỏ. Cả hai đều nhìn xuống Angus đã quay lại, chân nhấc lên, đang tè vào chiếc ủng mà nó đã nhào vào ăn mấy phút trước.
Nụ cười của Callahan O’Shea biến mất. Anh ta gương mắt lên với tôi. “Tôi không biết cô hay con chó của cô tệ hơn nữa,” anh ta nói, rồi quay lưng đi thẳng vào nhà.
MƯỜI BA THÁNG, HAI TUẦN và bốn ngày sau khi Andrew hủy đám cưới, tôi nghĩ mình đã xoay xở tương đối ổn. Mùa hè sau đó quả là khó khăn khi không có sự hiện diện hằng ngày của đám học sinh, nhưng tôi dồn hết tâm trí của mình vào ngôi nhà và trở thành một người làm vườn. Khi căng thẳng, tôi lê bước qua khu rừng quốc gia phía sau nhà, men theo dòng sông Farmington mấy dặm lên phía thượng lưu rồi quay xuống, bị muỗi xơi tái và cành cây cào xước, Angus lon ton chạy bên cạnh tôi trên đầu dây xích lòe xòe, cái lưỡi hồng liếʍ láp nước sông, bộ lông trắng lấm tấm bùn.
Tôi nghỉ kỳ cuối tuần của lễ Độc lập ở Gettysburg – Gettysburg xịn, ở Pennsylvania – với vài nghìn “diễn viên” tái hiện lịch sử, quên đi cơn đau trong l*иg ngực vì mấy ngày tham gia trận đánh ly kỳ này. Khi tôi trở lại, Julian sắp xếp để tôi làm việc tại sàn Jitterbug, dạy khiêu vũ cơ bản. Mẹ và bố gọi tôi sang chơi thường xuyên, nhưng, vì sợ làm tôi buồn, họ đều cố gắng hết sức để tỏ ra lịch sự với nhau, thật là căng thẳng và quái đản đến nỗi tôi thầm ước họ cứ bình thường mà cãi nhau còn hơn. Margaret và tôi lái xe bên bờ biển Maine thật xa về hướng Bắc đến nỗi gần 10 giờ tối ở đó mặt trời mới lặn. Chúng tôi dành vài ngày yêu lặng đi dạo dọc bờ biển, ngắm những chiếc tàu đánh tôm hùm nhấp nhô trên những con sóng và không nhắc gì tới Andrew.
Ơn chúa tôi có ngôi nhà. Có sàn nhà để đánh bóng, họa tiết trang trí để sơn, mấy buổi thanh lý đồ gia dụng để tham gia, nhờ thế tôi có thể lấp đầy ngôi nhà đẹp đẽ của mình với những thứ đáng yêu, được suy tính kỹ càng mà không có liên quan gì tới Andrew. Một bộ sưu tập tượng Thánh Nicolas mà tôi sẽ sắp xếp trên mặt lò sưởi khi tới Giáng Sinh. Hai cái tay nắm cửa bằng đồng khắc dòng chữ Trường công, thành phố New York. Tôi làm rèm; Tôi sơn tường. Thật ra là, tôi chỉ tới một cuộc hẹn. Như thế là đủ để chứng tỏ với bản thân rằng tôi chưa muốn dính dáng với ai hết.
Kỳ học mới bắt đầu, và tôi chưa bao giờ thấy yêu bọn nhóc hơn thế. Chúng có thể có đôi chút khuyết điểm, được nuông chiều quá mức và kiểu nói chuyện kinh khủng để thêm kiểu như và hoàn toàn rồi sao cũng được, nhưng chúng vẫn thật thú vị, vẫn đầy tiềm năng và tương lai rộng mở. Tôi quên mình ở trường, như vẫn thường thế, tìm kiếm giữa đám học trò lặng lẽ đó một tia hy vọng từ một hay hai em, cái tia sáng sẽ cho tôi biết liệu có ai đó cũng gắn kết với quá khứ như tôi hồi còn nhỏ không, rằng ai đó có thể cảm thấy lịch sử quan trọng với hiện tại đến thế nào không.
Giáng Sinh đến rồi, những ngày đầu năm mới cũng vậy. Vào ngày Lễ Tình yêu, Julian ghé qua, trong tay là mấy bộ phim bạo lực, đồ ăn của Thái và kem, chúng tôi cười đến đau bụng, cả hai đều vờ tảng lờ đi cái sự thật rằng đây đáng lẽ đã là kỷ niệm ngày cưới đầu tiên của tôi và rằng Julian tám năm nay không biết hẹn hò là gì.
Và tim tôi dần khỏe lại. Quả thật thế. Thời gian đã làm công việc của nó, và Andrew phai dần thành một vết đau lờ mờ mà tôi gần như chỉ nghĩ tới khi nằm một mình trên gường. Có phải tôi đã quên anh rồi không? Tôi tự bảo mình rằng tôi đã như thế.
Rồi, vài tuần trước đám cưới của Kitty – bà chị họ cắt tóc, Natalie và tôi cùng ra ngoài ăn tối. Tôi chưa bao giờ nói với con bé lý do thực sự Andrew và tôi chia tay. Thực tế là, Andrew chưa bao giờ nói những từ đó thành lời. Anh ấy không cần phải nói.
Natalie chọn địa điểm. Con bé làm việc tại Pelli Clarke Peli ở New Haven, một trong những hãng kiến trúc hàng đầu trong nước. Con bé phải làm việc muộn và gợi ý khách sạn Omni, nơi hãnh diện sợ hữu một nhà hàng có cảnh quan đẹp và đồ uống ngon.
Khi gặp con bé ở đó, tôi hơi sốc trước sự biến đổi của nó. Đột nhiên, cô em gái nhỏ của tôi đã chuyển từ xinh đẹp sang đẹp sững sờ. Mỗi lần tôi gặp con bé ở trường hay ở nhà, nó sẽ mặc đồ jean hoặc đồ len, kiểu ăn mặc của một cô bé kiểu Mỹ, khỏe mạnh và đáng yêu. Nhưng khi bắt đầu thực sự đi làm, con bé đầu tư vào quần áo và kiểu tóc thời thượng, bắt đầu biết trang điểm chút ít, và ôi chao. Con bé trông như một Grace Kelly thời nay.
“Chào, Bumppo!” tôi nói, ôm lấy con bé đầy tự hào. “Trông em thật lộng lẫy.”
“Chị cũng thế,” con bé trả lời hào phóng. “Mỗi lần em thấy chị, em đều nghĩ mình sẽ bán cả linh *** vì mái tóc đó.”
“Tóc này là tóc của quỷ. Đừng có ngốc thế,” tôi nói, nhưng thấy hài lòng. Chỉ có Natalie mới có thể chân thành về chuyện đó, thiên thần ngọt ngào của tôi.
Vốn chẳng phải một người sành uống, tôi gọi món đồ uống chuẩn, chung chung là gin pha tonic. Nat gọi một ly dirty martini. “Cô muốn dùng loại vodka nào?” người phục vụ hỏi.
“Belvedere nếu các anh có,” con bé mỉm cười trả lời.
“Chúng tôi có đấy. Một lựa chọn tuyệt vời,” anh ta nói, rõ ràng là rất ấn tượng. Tôi cười, băn khoăn không biết từ khi nào mà em gái nhỏ của tôi đã học được cách uống rượu vodka ngon.
Và rồi chúng tôi nói chuyện, Natalie nói với tôi về nhóm của mình ở Peli, về ngôi nhà sẽ nhìn ra vịnh Chesapeake mà họ đang thiết kế, về chuyện con bé yêu công việc của mình biết bao. Để đem ra so sánh thì tôi cảm thấy mình có chút… thật ra là, một chút tẻ nhạt, có lẽ vậy. Thực ra việc dạy học cũng làm tôi vô cũng thỏa mãn. Tôi yêu bọn trẻ, yêu môn học, và tôi thấy những bóng cây oai nghiêm, nó đã trở thành một phần tâm hồn tôi. Nhưng dù cho Natalie có chân thành thích thú khi nghe chuyện Tiến sĩ Eckhart ngủ gật trong buổi họp bộ môn khi tôi gợi ý về việc cải cách lại giáo trình như thế nào, và vì sao tôi lại khó chịu khi Ava không bao giờ chấm tới điểm B-, thì mấy thông tin của tôi nghe vẫn cứ nhàn nhạt.