“Chỗ này dễ thương đấy chứ, phải không?” ông nói, nhích ghế vào và nhìn quanh. Dạ vâng. Mắt trái không nhúc nhích tí ti. Chắc chắn là nhân tạo.
“Phải. Ừm, nghe này, Dave,” tôi nói, cố nặn ra một nụ cười thân thiện nhưng lúng túng. “Thứ lỗi vì tôi nói điều này, nhưng ảnh của ông… à, ông trông rất… trẻ trung.”
“Ồ, cái đó,” ông cười to. “Cảm ơn cô. Vậy cô nói cô là người yêu chó? Tôi cũng thế. Tôi có một con chó tha mồi lông vàng. Maddy.” Ông rướn tới trước và tôi ngửi thấy hơi của dầu mát xa hiệu Bengay. “Cô có nói là cô cũng có một con chó?”
“Ừm, phải. Vâng, tôi có. Angus. Một con chó sục nhỏ. Vậy. Nó được chụp khi nào? Bức ảnh ấy?”
Dave nghĩ một phút. “Hừm, để xem nào. Tôi nghĩ tôi đã dùng tấm chụp ngay trước khi tới Việt Nam. Cô có muốn ra ngoài ăn không? Tôi thì thích. Đồ Ý, Trung Quốc, mọi thứ.” Ông cười. Ông vẫn còn đủ răng, tôi phải ghi nhận điều đó, dù phần lớn chúng đều ngả vàng vì vết ố thuốc lá. Tô cố không nhăn mặt.
“Phải, về tấm ảnh, Dave. Nghe này. Có lẽ ông nên cập nhận nó chứ, ông không nghĩ thế sao?”
“Chắc vậy,” ông nói. “Nhưng chắc cô đã chẳng tới hẹn nếu biết tuổi thật của tôi, phải không?”
Tôi khựng lại. “Đó… đó chính là ý của tôi đấy, Dave,” tôi nói. “Tôi thực sự đang tìm kiếm ai đó tầm tuổi mình. Ông nói là ông gần 40.”
“Tôi đã gần 40!” Dave lặng lẽ. “Đã từng. Nhưng nghe này, cưng, là một người lớn tuổi hơn cũng có nhiều lợi thế đấy chứ, và tôi phát hiện ra phụ nữ các cô sẽ cởi mở hơn với những lợi thế đó nếu gặp trực tiếp tôi.” Ông cười xòa.
“Tôi chắc chắn là có, Dave ạ, nhưng vấn đề là…”
“Ồ, thứ lỗi cho tôi,” ông cắt ngang. “Tôi thực sự nên đổ cái túi đeo chân(2) này đi. Cô không phiền chứ? Tôi bị thương ở Khe Sanh.”
(2) Túi đựng nướ© ŧıểυ gần ở chân cho bệnh nhân có vấn đề về bài tiết.
Khe Sanh. Là một giáo viên lịch sử, tôi biết khá rõ rằng Khe Sanh là một trong những trận chiến đẫm máu nhất trong chiến tranh Việt Nam. Vai tôi sụp xuống. “Không, tất nhiên là tôi không phiền rồi. Ông cứ tự nhiên.”
Ông nháy bên mắt thật và đứng dậy, đi về phía phòng vệ sinh, khập khiễng một chút. Tuyệt. Giờ tôi phải ở lại, bởi vì tôi không thể bỏ lại một người có huy chương Purple Heart(3), phải chứ? Như thế thì thật là không yêu nước. Tôi không thể chỉ nói rằng, Xin lỗi, Dave, tôi không hẹn hò với cựu chiến binh già bị thương không thể tự đi tiểu. Như thế thật chẳng hay ho, không một chút nào.
(3) Loại huân chương dành cho bất cứ lính Mỹ nào bị thương trong chiến đấu.
Thế là, nhân danh tổ quốc, tôi dành thêm một tiếng nữa lắng nghe về cuộc truy tìm một người vợ trẻ đẹp, năm đứa con và ba người phụ nữ, khoản chiết khấu đáng kinh ngạc của Hiệp hội Hưu trí Mỹ (AARP) mà ông nhận được khi mua chiếc ghế tựa hiệu La-Z-Boy và loại ống thông tiểu nào thì hợp nhất với ông.
“Thôi, tôi nên đi bây giờ,” tôi nói và lúc cảm thấy nghĩa vụ của mình với nước Mỹ đã được hoàn thành. “Ừm, Dave này, ông có một số phẩm chất rất đáng yêu, nhưng tôi thực sự đang tìm một ai đó gần tuổi mình.”
“Cô chắc là cô không muốn gặp gỡ lần nữa chứ?” ông hỏi, con mắt còn tốt dán chặt vào ngực tôi trong khi con mắt giả lại tia chếch về hướng bắc một chút. “Tôi thấy cô rất hấp dẫn. Và cô nói là cô thích khiêu vũ trong nhà, vậy nên tôi đoán là cô khá… dẻo dai.”
Tôi cố nén để không rùng mình. “Tạm biệt, Dave.”
Lớp học của Julian nghe có vẻ ngày càng hấp dẫn hơn.
“CHƯA CÓ BỐ ĐÂU,” tôi nói với Angus khi về tới nhà. Nó có vẻ không quan tâm. “Bởi vì mẹ là tất cả những gì bé cần, được chưa?” tôi hỏi nó. Nó sủa một tiếng xác nhận, rồi bắt đầu nhấp nhổm chỗ cửa sau để ra ngoài. “Phải, con yêu. Ngồi… ngồi xuống. Đừng nhảy nữa. Thôi nào nhóc, mày đang làm hỏng váy của tao đấy. Ngồi.” Nó không ngồi. “Được rồi, đằng nào thì mày cũng có thể ra ngoài. Nhưng lần sau thì phải ngồi đấy. Hiểu chưa?” Nó lao ra hàng rào phía sau.
Tôi có một tin nhắn. “Grace, Jim Emerson đây,” giọng bố tôi cất lên.
“Còn được gọi là ‘Bố’,” tôi nói với cái máy, vừa đảo mặt vừa nhoẻn miệng cười.
Tin nhắn tiếp tục. “Tối nay bố có ghé qua nhưng con ra ngoài. Cửa sổ của con cần được thay. Bố sẽ lo vụ đó. Coi nó là quà sinh nhật nhé. Sinh nhật con là tháng trước rồi, đúng không nhỉ? Dù sao thì cũng xong rồi. Hẹn gặp con ở trận Bull Run.” Máy kêu “bíp”.
Tôi không thể không cười trước sự hào phóng của bố. Thành thật, tôi kiếm đủ để trả các hóa đơn, nhưng là một giáo viên, tôi còn xa mới kiếm được bằng những người khác trong gia đình. Natalie có lẽ kiếm gấp ba tôi, và đó mới là năm đầu tiên của con bé trong thế giới việc làm. Margaret thì kiếm đủ để mua một đất nước nho nhỏ. Bên nhà nội tôi “sinh ra từ tiền”, như nội vẫn thích nhắc chúng tôi nhớ, và hơn thế nữa bố tôi có một mức lương rất ư thoải mái. Nó làm ông cảm thấy mình ở vị trí người cha trong nhà, trả tiền để nhà cửa được sửa sang. Lý tưởng ra thì ông những muốn tự tay làm việc đó, nhưng ông rất hay tự làm mình bị thương khi xớ rớ quanh mấy dụng cụ điện, ông chỉ học được cái thực tế này sau khi phải khâu mười chín mũi do một thứ mà đến giờ ông vẫn gọi là cái máy cắt “gian xảo”.
Trở lại phòng khách, tôi ngồi trên ghế bành và nhìn quanh. Có lẽ đã đến lúc sơn lại phòng, tôi hay làm như thế mỗi khi suy sụp trong cơn buồn nản. Nhưng không. Sau gần một năm rưỡi cải tiến không ngừng, ngôi nhà đã gần như hoàn hảo. Tường phòng khách màu oải hương nhạt với họa tiết trắng sáng bóng và một chiếc đèn hiệu Tiffany ở một góc. Tôi đã mua chiếc xô pha lưng uốn kiểu Victoria tại một buổi đấu giá và thay bọc với ba mảng màu pha xanh lá cây, xanh da trời và màu oải hương. Phòng ăn màu xanh lá cây nhạt, tập trung quanh một chiếc bàn phong cách Hội Truyền giáo. Ngôi nhà chẳng cần gì hết ngoại trừ cửa sổ mới. Có lẽ tôi cần một dự án nữa. Tôi gần như ghen tị với việc Callahan O’Shea nhà bên được sửa sang từ lâu.
Ẳng! Ẳng! Ẳngẳngẳngẳng! “Được rồi, gì nữa đây, Angus?” tôi càu nhàu, lôi mình ra khỏi ghế. Kéo cửa trượt trong bếp ra, tôi không thấy bóng dáng cục cưng trắng bông của mình đâu cả, bình thường thì rất dễ thấy nó. Ẳng! Ẳng! Tôi chuyển ra phía cửa sổ phòng ăn để nhìn theo góc khác.
Nó kia rồi. Khỉ thật. Với một hành động bản năng, Angus đã đào một đường hầm bên dưới hàng rào và giờ đứng ở phần sâu của nhà bên, đang sủa ai đó. Đoán thử ba lần xem đó là ai. Callahan O’Shea đang ngồi trên thềm không có bậc cầu thang trước nhà nhìn chằm chằm vào con chó của tôi, còn con chó thì sủa nhặng lên từ dưới sân, nhấp nhổm và táp liên tục, cố gắng cắn vào chân anh ta. Thở dài một tiếng, tôi tiến ra phía cửa trước.
“Angus! Angus! Lại đây nào, bé yêu!” Không ngạc nhiên, con chó của tôi không nghe lời. Gầm gừ với nó, tôi đi qua sân trước tới số nhà 36 Maple. Việc tôi không cần nhất lúc này là một cuộc đối đầu khác với tên cựu tù nhà bên, nhưng vì Angus đang vừa sủa vừa táp anh ta, tôi không có nhiều lựa chọn. “Xin lỗi,” tôi lên tiếng. “Nó sợ người.”
Callahan nhảy khỏi thềm, liếc xéo tôi vẻ nhạo báng. “Vâng, sợ phát khϊếp.” Vừa dứt lời, Angus lẳng mình vào đôi ủng lao động của Callahan, cắn ngập răng vào lớp da và gầm gừ thật đáng yêu. Grừ. Grừ. Callahan lắc chân, tách được Angus trong giây lát, chỉ để khiến chú chó nhỏ của tôi nhảy lên chiếc giày hăng máu hơn.
“Angus, không! Mày hư quá đấy. Xin lỗi, anh O’shea.”
Callahan O’Shea chẳng nói chẳng rằng. Tôi cúi xuống, tóm lấy vòng đệm cổ của con thú cưng đang quằn quại kia và giật mạnh, nhưng nó không nhả chiếc ủng ra. Xin màu, Angus, nghe lời đi. “Thôi nào, Angus,” tôi nghiến răng. “Đến giờ vào nhà rồi. Giờ ngủ. Giờ ăn bánh.” Tôi lại kéo lần nữa, nhưng mấy răng hàm dưới của nó lại cong cong và rất đáng yêu, tôi không muốn đánh gãy cái nào.
Dù sao thì, tôi đang cúi khon người, đầu tôi ở vị trí ngang với tầm hông của O’s, và bạn biết đấy, tôi bắt đầu cảm thấy âm ấm. “Angus, bỏ ra. Bỏ ra nào, cậu bé.”
Angus vẫy đuôi và lắc đầu, dây của chiếc ủng lao động giắt vào mấy cái răng cong cong xinh xinh của nó. Grừ. Grừ. “Tôi xin lỗi,” tôi nói. “Nó thường không… như vậy.” Tôi đứng thẳng dậy và bốp! Đỉnh đầu tôi đập vào cái gì đó rất cứng. Cằm của Callahan O’Shea. Răng anh ta va vào nhau nghe rõ tiếng lốp cốp, đầu anh ta bật ngửa ra sau. “Chúa ơi, cô ơi là cô!” anh ta kêu lên, xoa xoa cằm.