Kiếm mà Tần Chiêu sử
dụng chính là một thanh “Mậu Lăng”, trông giữ sự bình yên cho lãnh thổ
rộng lớn của Nam Triều, bảo vệ ngàn vạn gia đình ở Mạc Bắc tránh khỏi
nỗi khổ của chiến loạn, cũng khiến cho các tướng lĩnh của địch quốc nghe đến phải khϊếp sợ.
Mà ở trong tay Liễm cũng là một thanh kiếm
nổi danh, gọi là “Trạm Lô”, tương truyền rằng từ thời xưa, Việt Vương đã ra lệnh cho Âu Dã Tử đúc ra năm danh kiếm, trong đó “Trạm Lô” là tinh
tế nhất trong năm thanh kiếm, tập hợp tinh hoa của đất trời, khi xuất ra có thần, khi thu lại có uy, mũi kiếm có thể xuyên qua tơ lụa, chém sắt
như chém bùn, không gì có thể sánh kịp.
Thanh kiếm “Trạm lô” này, là do tổ tiên của Mộ Dung gia chúng ta nhờ vào cơ duyên xảo hợp mà có
được, vốn là truyền cho trưởng tử, nhưng thân thể đại ca suy nhược không thích hợp luyện võ, “Trạm lô” ở trong tay hắn chỉ dùng để bày trí.
Trái lại, từ nhỏ Liễm đã yêu võ đến si, nhìn thấy thanh kiếm này liền yêu
thích như bảo bối, quanh năm cứ trốn ở trong phòng của đại ca, cả ngày
sống chết đòi mượn “Trạm Lô” để múa kiếm, vào năm hắn mười tuổi, có một
lần đại ca nhịn không được mà nói đùa, ngày xưa có Dương Thời (1), quyết đứng trong tuyết cầu đạo, hay là ngươi cũng đứng ở trước cửa phòng ta
một đêm, ta sẽ đem thanh “Trạm Lô” này cho ngươi, thành toàn cho giai
thoại “Lập tuyết cầu kiếm” được không?
Vốn chỉ là lời nói đùa,
nhưng lại có người ngay lập tức bỏ đi ly sữa nóng hổi ở trong tay, không nói một lời liền chạy nhanh ra ngoài cửa phòng mà đứng.
Khi đó tiết trời rét đậm, trong kinh thành, tuyết bay đầy trời, giọt nước cũng đóng thành băng.
Đại ca hoảng sợ, vội đuổi theo ra ngoài cửa kéo hắn lại, nhưng hắn vẫn đứng trong lớp tuyết dày gần một thước, sống chết thế nào cũng không chịu
đi, đại ca luôn miệng nói hắn không cần phải đứng ở đây, sẽ lập tức đem
“Trạm Lô” cho hắn.
Chỉ là một đứa trẻ còn nhỏ tuổi nhưng lại ngạo nghễ giương mi lên nói, vật mà ta thích thì nhất định phải tự mình lầy
được một cách quang minh chính đại.
Trời lạnh đất đóng băng, chỉ
một lát Liễm đã rét lạnh, đôi môi xanh tím, đại ca doạ nạt không thành,
đành phải sai người đi mời phụ thân và mẫu thân đến, mẫu thân vô cùng
đau lòng, vừa khiển trách đại ca vừa dụ dỗ Liễm, đã nói hết lời mà hắn
vẫn không nghe, quyết chí đứng một đêm để đối lấy “Trạm Lô”, phụ thân
sau khi lẳng lặng nhìn một lúc lâu, liền nói, cứ mặc nó, nam nhi của Mộ
Dung gia chúng ta thì phải như thế.
Phụ thân đã nói vậy, mẫu thân cùng mọi người trong nhà cho dù đau lòng nhưng cũng không còn cách nào
lên tiếng phản bác, chỉ có thế mang ra cho hắn chiếc áo hồ cừu thật dày
cùng một bếp lò, còn hắn thì đứng suốt một đêm giữa băng tuyết rét lạnh.
Đêm hôm đó, già trẻ trong nhà không ai có thể yên tâm mà ngủ, trời vừa sáng rõ, đại ca là người đầu tiên cầm lấy “Trạm Lô”, vừa áy náy vừa lo lắng
xông ra ngoài, khi đó, Liễm đã đông cứng đến không nói nên lời, hắn nhìn chằm chằm vào “Trạm Lô”, khoé môi gượng cười, liền nặng nề ngã xuống.
Lần đó, đã làm hắn nằm trên giường bệnh suốt một tháng, ngay cả đại phu
cũng xúc động nói, ý chí của đứa trẻ này rất mạnh mẽ, để có thể đứng một đêm giữa lúc băng tuyết ngập trời thế này, cần phải có rất nhiều sức
lực cùng nghị lực mới giữ được thanh tỉnh để không ngã xuống.
Chuyện này cho đến bây giờ, mẫu thân vẫn còn nửa vui nửa xúc động mà nhắc lại, mỗi khi nói đến, đều bảo đứa trẻ này luôn khiến người vừa yêu vừa ghét, từ nhỏ Liễm đã khôn lanh dị thường, văn thao vũ lượt, tinh thông mọi
thứ, hiển nhiên cũng là niềm vui lớn nhất của phụ mẫu, nhưng mà, tính
nết lại kêu ngạo, khi tức giận thì chẳng khác nào Hỗn Thế Ma Vương, vì
vậy mà luôn là người làm mẫu thân đau đầu nhất.
Hiện giờ, ta nhìn vào bóng dáng bạch y như tuyết, tiêu sái cầm kiếm của Liễm mà không
khỏi cười khổ, nếu như mẫu thân biết được thì không biết sẽ lo lắng tức
giận đến nhường nào.
Đang nghĩ ngợi thì thấy ánh kiếm ở phía xa
chợt loé, “Trạm Lô” ra trước, sau đó là một âm thanh vang giòn, tiếng
“Mậu Lăng” nghênh chiến.
Trong thời gian ở cùng với Tô Tu Miễn,
mặc dù ta không học kiếm, nhưng lại từng xem hắn luyện kiếm, hắn mỗi khi ra chiêu thì đều giảng giải cặn kẽ cho ta, một thời gian dài, dù rằng
ta không biết cách dùng, nhưng vẫn có thể nhìn ra chiêu thức.
Từ
nhỏ Liễm đã bái một vị danh sư làm thầy, chịu qua khổ luyện, từng chiêu
từng thức, đều vô cùng tinh xảo, phóng khoáng mà linh động, nhìn qua tựa như một con Kinh Long thật sự. Còn kiếm pháp của Tần Chiêu thì đơn giản hơn nhiều, không có bất kì một chiêu thức đặc sắc xinh đẹp nào, nhưng
kiếm thế lại trầm ổn, gọn gàng, khó mà chế ngự.
Hai người đều
dùng kiếm tốt, nên trong khoảng thời gian ngắn, “Mậu Lăng” cùng “Trạm
Lô” khó mà phân thắng bại, các tướng sĩ đang vây xung quanh đều mang
theo nét mặt kinh ngạc cùng khâm phục, mà đôi mắt của Nam Thừa Diệu
dường như cũng phát sáng đôi chút, ý nói cao xử bất thắng hàn (2), cuối
cùng cũng tìm được một đối thủ tương đương. (đang nói đến Tần Chiêu và
Liễm nhe)
Không biết đã qua bao lâu, đám đông đang vây xung quanh cũng không kìm được mà thấp giọng hô lên, “Trạm Lô” của Liễm đâm vào
cánh tay trái của Tần Chiêu, còn mũi kiếm “Mậu Lăng” thì nhắm thẳng vào
cổ họng Liễm.
Liễm hơi ngẩn ra, còn Tần Chiêu thì đang chậm rãi thu hồi kiếm.
Ta đợi không được nữa liền cất bước chạy xuống sân, Nam Thừa Diệu cũng
không ngăn cản, khi ta vừa tiến vào sân đã nghe thấy giọng nói trong
trẻo dứt khoát của Liễm: “Là ta thua.”
Tần Chiêu xé xuống một góc áo băng lấy vết thương ở trên vai, thản nhiên lên tiếng: “Ngươi chỉ là
thiếu kinh nghiệm thực tế, không liên quan đến kiếm pháp cao hay thấp.”
Trên nét mặt của Liễm không có chút buồn phiền, mà còn mơ hộ hiện ra vài
phần vui sướиɠ, giọng nói một lần nữa trong trẻo vang lên: “Thua chính
là thua, không thể nói thêm điều gì. Đáng lẽ là ta nên dừng lại, nhưng
hiện tại ta phải tìm tỷ tỷ của ta, đã mạo phạm, sau này Mộ Dung Liễm sẽ
đến thỉnh tội.”
Vừa nói xong, vừa định nâng “Trạm Lô” đi vào bên trong, ta vội vàng lên tiếng gọi hắn: “Mộ Dung Liễm.”
Hắn nghe thấy giọng nói của ta, đột nhiên quay đầu, sau khi nhìn thấy một
thân nam trang của ta, vốn là ngây người ra một lúc, nhưng sau đó liền
cười vang thành tiếng, nét mặt căng thẳng lúc đầu cũng chầm chậm thả
lỏng.
“Cười cái gì, còn không nhanh xuống ngựa, nhìn xem tai hoạ
mà đệ gây ra đi, đã lớn như vậy rồi mà vẫn còn tuỳ hứng như một đứa
trẻ?”
Ta vốn định vờ như tức giận, nhưng lại nhìn thấy trên người hắn phủ đầy gió bụi cùng với nét mặt không giấu được mệt mỏi, đáy lòng
liền mềm nhũn, những câu trách mắng cũng không thể tiếp tục nói ra.
Hắn đi đến nơi này, không ngại ngàn dặm xa xôi, còn liều lĩnh xông vào quan phủ của Nghiệp Thành, tất cả đều vì lo lắng cho ta.
Hắn nhìn ta từ trên xuống dưới, sau đó mới hoàn toàn thả lỏng, cười nói:
“Hoàn hảo tỷ không xảy ra chuyện gì, cũng không uổng ta đây thúc ngựa
chạy mấy ngày mấy đêm.”
Ta nhìn hắn một lúc lâu, cuối cùng cũng không nói gì, nắm tay hắn, nói nhỏ: “Đi thôi, trước tiên ta đưa đệ đi gặp Điện hạ.”
Bỗng nhiên hắn nhớ ra điều gì, nét mặt nghiêm túc: “Nhị tỷ, chờ ta một lát.”
Ta không hiểu, hắn cũng đã nới lỏng tay mà đi về phía Tần Chiêu.
Liễm lấy ra một bình sứ nhỏ từ bên hông ném cho Tần Chiêu, cao giọng nói:
“Đây là Tử Ngọc thanh phục cao, là thuốc trị thương thượng hạng, nếu
không phải vì ngươi hạ thủ lưu tình, thì đáng lẽ người dùng phải là ta,
cho nên cái này cho ngươi.”
Tần Chiêu nắm lấy bình sứ trong tay, cũng không làm ra vẻ ta đây không nhận, thản nhiên ôm quyền cảm tạ.
Trong mắt của hai người, đều có ánh sáng tán thưởng lẫn nhau mơ hồ thoáng qua.
Liễm nhìn thấy hắn nhận lấy, mỉm cười, cử chỉ phóng khoáng bước ra cửa ngoài của nha môn.
Các tướng sĩ vây chung quanh, tuy là vẫn không biết thân phận của ta và
Liễm, nhưng thấy ta từ trong nhà đi ra, còn Tần Chiêu thì không tiếp tục ngăn cản Liễm, trong một thoáng liền có chút do dự, không biết nên làm
thế nào cho phải.
Tần Chiêu thoáng gật đầu, khoát tay, ý bảo bọn
họ lui xuống, còn Liễm thì lập tức đi đến bên cạnh một người tay đang
chảy máu, trịnh trọng ôm quyền hành lễ.
Ta nhận ra người kia,
chính là tên thủ vệ bên ngoài cửa nha môn Nghiệp Thành ngày đó đã ngăn
cản ta và Sơ Ảnh, tâm tư không khỏi trầm xuống, hiểu ra vết thương ở
trên người hắn hơn phân nửa là do ngăn cản Liễm, rồi bị tên tiểu Ma
Vương kia vung roi ngựa gây ra thương tích.
Nhanh chân chạy đến
vài bước, chỉ nghe thấy Liễm thẳng thắn thành tâm nói với người nọ: “Vị
đại ca này, lúc nãy là vì ta lo lắng cho an nguy của tỷ tỷ, nên vô cùng
nôn nóng, cũng không suy nghĩ nhiều mà xông vào, vì vậy đã làm ngươi bị
thương. Ngươi không chịu đánh trả, ta lại càng không thể an tâm, ta sẽ
tự đánh mình để tạ tội!”
Lời còn chưa dứt, hắn đã giơ roi ngựa
lên, không chút do dự mà kiên quyết quất lên chính cánh tay trái của
mình, lưu lại một vết thương giống hệt với tên thủ vệ kia, e rằng còn
muốn nặng hơn.
Ta gắt gao đè xuống tiếng thét kinh hãi, đau lòng
không thôi, không nhìn vào vết thương của hắn mà tiến về phía trước, cố
giữ nét mặt bình tĩnh, mỉm cười, mở miệng nói với tên thủ vệ kia: “Việc
hôm nay, ta mong rằng vị đại ca này sẽ không so đo với hắn, ta sẽ chịu
trách nhiệm.”
Tên thủ vệ kia nhìn thấy gương mặt của ta, hãy còn
nghi hoặc, bỗng nhiên nhìn về phía sau người ta, cung kính hành lễ: “Tam điện hạ, Tần tướng quân.”
Ta quay đầu lại, ý bảo Liễm bước đến hành lễ với Nam Thừa Diệu.
Ta biết là bởi vì ta, mà hắn đối với Nam Thừa Diệu luôn có ác cảm, nhưng
mà hiện tại có lẽ là do tự biết mình không đúng, nên hắn rất thẳng thắn
vừa tiến lên hành lễ với Nam Thừa Diệu vừa mở miệng nói: “Tham kiến Tam
điện hạ, lần này Mộ Dung Liễm tự tiện xông vào cấm địa, biết rõ mình
không đúng, nên nguyện ý nhận phạt.”
Nam Thừa Diệu mỉm cười thờ
ơ: “Ta trị quân từ trước đến nay thưởng phạt phân minh, mặc dù ngươi
không phải là thuộc hạ của ta, nhưng đã phạm vào quân kỷ, ngay cả là đệ
đệ của thê tử ta, cũng không thể miễn phạt.”
Liễm ngay cả chân
mày cũng không nhăn lại, thẳng thắn lưu loát đáp: “Điều này là tất
nhiên, nếu như Điện hạ xử phạt, tuyệt đối Mộ Dung Liễm sẽ không phản
đối.”
Nam Thừa Diệu nhìn hắn, vẫn thản nhiên lên tiếng như trước: “Hiện tại Bắc Hồ xâm phạm đến biên cương của Mạc Bắc, dũng sĩ của Nam
Triều ta đều phải đẫm máu sa trường. Ngày quyết chiến cuối cùng cũng sắp tới, tuy nhiên trận chiến này chúng ta phải đối mặt với toàn lực của
Bắc Hồ, nhân lực vẫn còn thiếu. Liễm đệ là ái tử của Mộ Dung thừa tướng, thân thể ngàn vàng, nếu như ta phạt ngươi phải xông pha chiến trận,
không biết thừa tướng có dị nghị hay không?”
Nét mặt của Liễm đã
không giấu được thần thái hưng phấn, nhưng vẫn chỉ có thể trầm tĩnh ôm
quyền cao giọng đáp: “Ra sức vì đất nước vốn là trách nhiệm của nam nhi, phụ thân nếu biết, chắc chắn sẽ cảm tả Điện hạ đã cho ta cơ hội này.
Huống hồ Điện hạ là bậc hoàng tử chí tôn, còn xung phong đi đầu làm
gương cho binh sĩ, Mộ Dung Liễm không có lý gì mà không mặc giáp ra
trận, cùng với chư vị dũng sĩ của Nam Triều ta chống chọi với Bắc Hồ?”
Nam Thừa Diệu thoáng gật đầu, tiếp tục lên tiếng: “Ngươi thứ nhất không có
quân công, thứ hai không có kinh nghiệm chiến đấu, ta chỉ có thể sắp xếp cho ngươi bắt đầu từ vị trí binh sĩ thấp nhất, bằng không sẽ không đủ
khả năng để gánh vác. Tất nhiên, đây cũng là vị trí nguy hiểm nhất, chân chính xông pha chiến đấu, binh sĩ đi đầu. Như vậy, ngươi có nguyện ý
hay không?”
Liễm nghiêm mặt, quỳ một gối, chắp tay nói: “Mộ Dung Liễm nhận lệnh, thệ phá Bắc Hồ!”
Ánh mắt Nam Thừa Diệu thoáng chút khen ngợi, quay đầu hỏi Tần Chiêu ở bên
cạnh: “Đem hắn sắp xếp ở dưới trướng của ngươi, ngươi thấy thế nào?”
Tần Chiêu ngay từ đầu vẫn trầm mặc, nghe vậy liền đưa mắt nhìn Liễm, đúng
lúc giao với tầm mắt của Liễm đang nâng lên, nhìn nhau, chậm rãi mỉm
cười.
Một người vui mừng sang sảng, duy trì lâu dài, một người lạnh nhạt sáng lạng, chỉ thoáng qua trong giây lát.
Tần Chiêu nghiêng mắt, nhìn Nam Thừa Diệu nghiêm nghị đáp: “Tạ Điện hạ, một người thế này Tần Chiêu có muốn tìm cũng không ra. Ngày phá Bắc Lỗ đã
sắp tới.”
(1) Dương Thời 杨时 đời Tống, theo học với Lí học gia
Trình Hạo 程颢. Không may Trình Hạo qua đời, ông vô cùng đau buồn, thiết
linh vị tế điện bái khóc. Và để kế tục việc học, ông bái người em của
Trình Hạo là Trình Di 程颐 làm thầy. Có một lần, Dương Thời hẹn cùng bạn
là Du Tạc 游酢 đến nhà thầy để thỉnh giáo. Khi đến nhà thầy, trời đang đổ
tuyết, gặp lúc Trình Di đang ngủ. Sợ làm ảnh hưởng đến giấc ngủ của
thầy, Dương Thời lặng lẽ lui ra ngoài cửa đợi. Lúc thầy tỉnh dậy, tuyết đã rơi dày hơn 1 xích, Dương Thời và Du Tạc đã thành người tuyết (Tống
sử – Dương Thời truyện 宋史 – 杨时传). Sự tôn kính thầy của Dương Thời và Du
Tạc, cùng với hành vi thành tâm cầu học không ngại mưa tuyết của họ đã
cảm động lòng người, và được xem là tấm gương tôn sư trọng đạo. Câu
chuyện đó trở thành điển cố “Trình môn lập tuyết” 程门立雪.
(2) Cao xử bất thắng hàn : Chỗ cao không chịu nổi lạnh. Một người nếu như
đã lên đến vị trí cao quá, thường thường đều phải chịu tịch mịch.