Chiều ngày hôm sau Cửu Dương truyền nội công vào thân thể Tôn Hứa Khải để ép chất độc ra ngoài. Cùng lúc, nữ thần y dùng kim châm đả các huyệt thái dương, bách hội, nhân trung, nhĩ môn và giáp xa, điều khí chạy khắp cơ thể Tôn Hứa Khải giúp bài tiết một số chất độc thông qua các lỗ chân lông.
Đang lúc chân khí từ Cửu Dương không ngừng được truyền sang Tôn Hứa Khải bỗng có tiếng chân dồn dập chạy xuống cầu thang. Trần Tôn tưởng Nhạc Tam Nguyên trở về, đôi mắt già nua đầy nếp nhăn của ông lão sáng lên.
Chả là đêm qua nữ thần y nói chất độc đang hoành hành trong mình Tôn Hứa Khải đã tới giai đoạn công tâm, tính mạng vì vậy đang bị đe dọa. Nàng lại nói chỉ có ở vùng Sơn Thạch Môn cách đây hai mươi dặm mới tìm ra loại thảo dược gọi là Kim Sơn Tử có thể dùng làm thuốc giải độc Kinh Phủ. Cho nên tối qua Nhạc Tam Nguyên mới rời Hàng Châu lãnh nhiệm vụ đi tìm Kim Sơn Tử.
Vì vậy mà Trần Tôn nghe tiếng chân vội vã, người chưa tới đã vội hỏi:
- Có lấy được Kim Sơn Tử không?
Ngờ đâu đập vô mắt ông lão là Hiểu Lạc chứ không phải Nhạc Tam Nguyên. Thằng bé với gương mặt trắng nhợt, rõ ràng là đang hoảng sợ thất sắc.
- Không … - Hiểu Lạc lắc đầu hổn hển trả lời.
Rồi nó lật đật xua tay đính chính:
- À không… ý cháu không phải vậy. Cháu không biết...
Trần Tôn nghe vậy cáu lên gắt:
- Cái thằng bé này, sao nói năng lộn xộn vậy chứ? Rốt cuộc có chuyện gì?
Hiểu Lạc hít sâu một hơi, giọng vẫn còn hoảng loạn:
- Ý cháu là có lão quan huyện dẫn một đám quân binh đang đập cửa bình bình ở ngoài cổng chính ấy. Chắc tới muốn bắt sư phụ cháu và tam gia đó!
Rầm một tiếng. Trần Tôn nghe Hiểu Lạc thông báo vậy tưởng chừng như sét đánh ngang tai. Hai anh em nhà họ Lữ đứng gần đấy cũng thất kinh hồn vía.
Lữ Nghị Chánh kinh hãi thốt:
- Chết rồi! Phải làm sao bây giờ?
Lữ Nghị Trung suỵt một tiếng ra hiệu mọi người bình tĩnh song trong lòng cũng rối như tơ vò. Có điều nhất định không được để Cửu Dương nghe thấy lời này, chẳng may phân tâm mà dẫn đến tẩu hỏa nhập ma, lúc ấy e không tránh khỏi chất độc từ kinh mạch Tôn Hứa Khải lại chạy ngược vào cơ thể Cửu Dương.
Sau khi Nghị Trung suỵt khẽ mọi người thì dặn Hiểu Lạc ở lại giúp nữ thần y hong nóng những cây kim châm. Còn bản thân chàng thì cùng với đệ đệ và Trần Tôn ra ngoài tìm cách ứng phó.
Đám người Lữ Nghị Trung vừa đi khỏi, Cửu Dương mở bừng mắt nhìn về phía Hiểu Lạc nói nhỏ một câu:
- Khóa cửa địa đạo từ bên trong lại mau, đừng lên tiếng!
Rồi nhắm mắt lại tập trung tinh thần bức chất độc, không nói năng gì nữa.
Dù gì Hiểu Lạc cũng sớm lăn lộn, lại là con nhà võ ít nhiều đã trải qua sóng gió, tuy đang sợ mất hồn nhưng nó răm rắp nghe lời Cửu Dương, đi khóa chặt cửa lại. Lúc nó trở vào, đúng lúc trông thấy Cửu Dương thổ ra một vũng máu, ôm ngực ngã xuống giường chừng như đau đớn lắm rồi ngất hẳn đi.
- Sư phụ! Sư phụ!
Hiểu Lạc thảng thốt nhìn sang nữ thần y.
Đương khi đó, bên ngoài cổng Tây Quan của Hắc Viện, quan tri huyện Hàng Châu dẫn quân lính tới đập cửa ầm ĩ. Trần Tôn, Nghị Trung và Nghị Chánh dẫn toàn thể học sinh trong trường ra làm lễ bái chào.
Mọi người đồng loạt xá một cái, hô lớn:
- Bái kiến tri huyện đại nhân!
- Tần viện trưởng của các người đâu?
Một người đàn ông tuổi khoảng bốn lăm, mặt gãy, mắt lươn, thân vận quan phục màu đen, giữa ngực thêu hình bạch nhàn, đầu đội mũ ô sa đen gắn tua đỏ, lù lù đứng đó, khoanh tay hỏi Trần Tôn.
Bụng Trần Tôn giật thon thót, bất giác khẽ đưa mắt về phía thư viện nơi Cửu Dương đang giúp Tôn Hứa Khải trấn áp chất độc Kinh Phủ. Ông lão còn chưa biết phải đáp lời thế nào, may là Nghị Trung đã nhanh trí bước ra. Xét tư cách nói chuyện, Nghị Trung khá phù hợp vì chàng là con trai của học giả Lữ Lưu Lương. Người ta thường nói con nhà tông không giống lông cũng giống cánh, ngoài bản lĩnh võ công đương nhiên Lữ Nghị Trung cũng là một bậc túc nho khá nổi tiếng ở Hàng Châu.
- Dạ thưa tri huyện đại nhân, viện trưởng của chúng tôi đi Hà Nam khảo cứu cổ văn chưa về!
Quan huyện trông thấy Nghị Trung, mắt sáng lên buột miệng hỏi:
- Đây là...
- Thưa huyện tôn, học trò tên là Lữ Nghị Trung!
- Ủa... đàn ông à?
Mọi người nghe vậy không khỏi bấm bụng cười thầm, riêng Nghị Trung tức muốn bể ruột nhưng vẫn phải nhịn xuống đáp:
- Vâng, nam nhi đại trượng phu trăm phần trăm đấy ạ!
Quan huyện liền bĩu môi lầm bầm:
- Nam chả ra nam nữ chả ra nữ!
Chừng như nhớ ra việc chính, gã giật mình buông thõng hai tay, trố mắt hỏi:
- Cái gì? Không phải nói hôm nay là ngày bản quan đem biển đến sao?
Bấy giờ Nghị Trung và mọi người mới ngớ người vỡ lẽ, nhớ ra hôm nay là ngày đặc biệt gì. Nghị Trung biết lý do quan huyện dẫn quân binh đến đây rồi, trái tim chàng nhẹ hẫng, chứ một khắc trước nó còn đập thình thịch trong l*иg ngực.
- Thật không còn thể thống phép tắc gì nữa! Mấy thứ sách vở rách nát đó đem so với ân điển của thánh thượng được sao? - Tri huyện bực bội quát tháo.
- Dạ, không dám thưa tri huyện đại nhân - Nghị Trung vẫn chắp tay cung kính đáp - Thực ra viện trưởng có nói rằng ngài ấy vô đức bất tài, không dám thọ ân sủng bực này…
- Láo toét!
Quan huyện chưa nghe hết câu đã đùng đùng nổi giận, chỉ tay vô tấm ván gỗ đang được hai tên lính bưng ở phía sau lưng gã, nói như quát:
- Tần Thiên Văn hắn nói vậy là ý gì đây hả? Hả! Tiên đế ban ngự biển là phúc tổ bảy mươi đời nhà hắn, đã không biết ơn thì chớ lại dám viện cớ này nọ là sao?
Gã dứt lời hất mặt, phẩy tay sai binh lính:
- Mau khiêng ngự biển vô.
- Dạ!
Không những vậy còn vung tay hất Nghị Trung sang một bên khiến chàng ta phải giả bộ như suýt ngã, lảo đảo lui ra sau mấy bước làm hai tú tài phía sau phải vội đưa tay ra đỡ.
Quan huyện khệnh khạng đi trước, lũ công sai thì rồng rắn theo sau. Vừa bước qua cổng Tây Quan gã ta nhìn tấm biển cũ bĩu môi lớn tiếng:
- Hắc Viện, cái tên có ý tứ lắm. Thế nào mà bản quan có cảm giác như chui vô ổ trộm cướp à nha!
Các học sinh của Hắc Viện đa phần là người có gia cảnh nghèo khó. Hằng ngày gia đình đều ăn không no ngủ không yên, ít nhiều từng bị bọn quan binh quyền quý bức hϊếp nên trong lòng rất căm phẫn triều đình nhà Thanh, đương nhiên càng không có cảm tình với tay tri huyện này. Giờ lại nghe gã buông lời xúc phạm như vậy ai nấy tức giận biến sắc. Quan huyện nhìn đám học sinh mặt mũi hầm hầm, càng hả hê la lối:
- Hừ tức cái gì, chẳng phải sao? Trông có khác gì danh xưng của đám hắc đạo với hắc bang không? Thế mà tiên hoàng ban cho cái tên mỹ miều như vậy còn bày đặt chê ỏng chê eo, rõ là ăn mày còn kén chiếu hoa!
Trần Tôn cũng tức lắm, thầm nghĩ tên tham quan này chắc không được "đấm mõm" chút vàng bạc nên kiếm cớ gây sự đây. Mà nghĩ lại thấy buồn cười, trước nay chỉ có người Thiên Địa hội đi cướp của tham quan, không ngờ bữa nay lại có một tên đến tận cửa vòi tiền. Có điều tình hình đang nguy nan, lúc này lại càng phải nhẫn nhịn, ông bèn lừ mắt nhắc nhở đám học sinh không được kích động làm bừa, đoạn cười khà khà từ tốn nói:
- Đại nhân dạy phải lắm. Nhưng chắc ngài mới đến trấn này nên có điều không rõ đó thôi. Cái tên Hắc Viện của chúng tôi không phải vô cớ đặt bừa đâu mà đằng sau nó là cả một câu chuyện đấy ạ!
- Ồ, vậy sao! Nói bản quan nghe thử! - Quan huyện bị khơi lên lòng hiếu kì, vểnh râu mép giục.
- Vâng, chuyện vốn là thế này...
Trần Tôn vuốt chòm râu bạc, ánh mắt bất chợt xa xăm:
- Chắc đại nhân cũng đã biết Hắc Viện do Mã phu tử cùng hai vị tri kỷ tâm giao Tần tiên sinh và Lâm tiên sinh lập ra. Từ lâu, ba vị ấy đã nảy ra ý định lập một trường học cho con em nhà nghèo. Song khổ nỗi ba người tuy một bụng kinh luân, tài học đầy mình nhưng tài sản ngoài mấy hòm sách vở thì đâu còn gì khác. Cho nên sau khi bán hết gia sản, gom góp được hai nghìn lượng bạc mua lấy mảnh đất này thì chẳng còn dư bao nhiêu, chỉ đủ dựng vài ba dãy nhà tranh vách nứa làm chỗ ở và phòng học cùng bàn ghế cho học sinh thôi ạ!
- Ồ, rách nát thế kia à? - Quan huyện kinh ngạc thốt.
- Vâng, lão hủ dạo đó đã đi theo Mã phu tử nên tận mắt chứng kiến, thiếu thốn vậy đấy ạ! - Trần Tôn cảm khái nói tiếp - Vì vậy mùa hè còn đỡ chứ mùa đông lạnh giá, gió cứ lùa qua kẽ liếp khiến cả thầy lẫn trò rét buốt khổ sở không sao kể xiết!
- Sau rồi thế nào? - Quan huyện tò mò hỏi.
- Về sau không biết ai nghĩ ra một ý lấy nhựa thông đốt trộn cùng gỗ than thành một thứ keo trông như hắc ín, đem phết kín lên mặt ngoài các bức vách. Đơn giản vậy thôi mà không ngờ lại ngăn gió rất tốt...
Gã tri huyện nghe tới đây bật cười:
- Bản quan hiểu rồi. Chính vì nhìn các dãy nhà đen thùi lùi một đống như vậy nên mới có cái tên Hắc Viện đó hả?
- Vâng, bình dân bá tánh nghèo khổ đa phần thất học, đâu biết ăn nói văn hoa chữ nghĩa, thành thử họ trông thấy thế nào liền gọi thế ấy cho tiện, lâu dần thành quen không sửa được nữa!
- Há há, ra là vậy. Ta cứ tưởng Hắc Viện danh tiếng thì cái tên phải ẩn chứa ý nghĩa thâm sâu thế nào. Ai dè há há...
Gã cười to giễu cợt, đám lính tốt cũng phụ họa cười theo. Phần lớn lứa học sinh này còn rất trẻ, cũng lần đầu được nghe câu chuyện này nên không khỏi trầm mặc xúc động, tưởng tượng về một thời gian khổ của Hắc Viện. Vì thế giữa không khí tĩnh lặng, tiếng cười của gã tri huyện và lũ tay chân nghe lại càng chói tai.
Bỗng Nghị Chánh hắng giọng e hèm một tiếng khiến quan huyện nhíu mày quay sang, liền đó sửng sốt chắt lưỡi xưng kỳ:
- Ồ, bản quan sớm nghe nói huyện này có đôi mỹ nam song sinh giống nhau như hai giọt nước. Hóa ra là hai ngươi à!
- Đại nhân quá khen! - Nghị Chánh mỉm cười làm lễ.
- Sao? Ngươi cắt lời bản quan là ý gì đây? Ta cười chê Hắc Viện các ngươi là sai sao?
- Học trò đâu dám! Chỉ là nghe đại nhân nói mà thấy đồng cảm quá, muốn chia sẻ chút suy nghĩ thôi ạ!
- Ờ, chứ còn gì nữa! Nói nghe xem! - Gã vênh vênh đắc ý.
Nghị Chánh thở dài một cái, lắc đầu bắt đầu than thở:
- Đại nhân không biết đó thôi, chính vì cái tên này mà khi đi giao lưu ở tỉnh khác hễ xướng tên trường lên là người ta nhìn chúng tôi chằm chằm đến phát ngượng. Lắm lúc phải phân trần giải thích mỏi mồm đấy ạ!
- Ha ha, ta có thể hình dung được vẻ mặt các ngươi lúc ấy! – Quan huyện nhếch mép cười.
Thành viên của Hắc Viện thì tất thảy sững sờ kinh ngạc, nhìn nhau ngơ ngác không hiểu vì sao Nghị Chánh lại "trở cờ," vào hùa miệt thị trường mình như vậy. Riêng Nghị Trung nhíu mày lo lắng, bởi chàng ta quá hiểu tính cách ngay thẳng, đôi khi liều lĩnh bồng bột chẳng sợ trời sợ đất của đệ đệ mình, trái ngược với vẻ ngoài nhu hòa kia. Còn chưa kịp nhắc nhở thì Nghị Chánh đã nói tiếp:
- Vì thế có một lần học trò đem nỗi ấm ức này kể với gia phụ. Gia phụ mới cười bảo rằng, thực ra trước đây đã có không ít tiên sinh dạy học và học sinh cùng đề nghị phu tử đổi lại tên trường đấy. Nhưng sau khi nghe phu tử nói một hồi thì tất cả tâm phục khẩu phục, chẳng còn bất kỳ ý kiến nào nữa!
- Ông ta nói gì? - Quan huyện hứng thú hỏi.
- Phu tử nói...
Nghị Chánh liền thẳng lưng ưỡn ngực, một tay chắp sau lưng, tay kia giả bộ vuốt râu bày ra vẻ ung dung tự tại, chính khí lẫm liệt:
- Chúng ta là Hắc Viện thì sao? Cái tên xấu xa bất thường thì thế nào? Các vị thử ra ngoài kia hỏi bất kỳ một bình dân bá tánh nào đó xem! Và hãy nhìn vào ánh mắt ấm áp, hãy nghe giọng nói trìu mến của họ khi nhắc đến Hắc Viện này. Đó chẳng phải là tình cảm chân thành, là sự kính trọng xuất phát từ con tim sao? Ta tin đó cũng là khát vọng mà những kẻ đọc sách thánh hiền chúng ta hằng theo đuổi, là niềm tự hào mà Mã Lương ta cùng các vị nhất định phải gìn giữ...
Nghị Chánh hít sâu một hơi, giọng bỗng cao lên mấy phần:
- Như thế chẳng gấp vạn lần những kẻ danh xưng mỹ miều, bề ngoài trang phục đẹp đẽ quý phái nhưng tham lam độc ác. Chúng nhân danh công lý và lẽ phải lại công khai cướp bóc tàn hại bá tánh, thậm chí còn vô nhân tính hơn lũ thảo khấu cường đạo. Nhắc đến chúng, nào thấy một câu tốt đẹp mà chỉ rặt những lời nguyền rủa thóa mạ trăm ngàn lần cũng chưa hết tội! Như thế thử hỏi, cái tên Hắc Viện có đẹp hay không?
Đám học sinh như ngừng cả thở lắng nghe đến xuất thần, trong ngực bừng bừng phấn khích khó tả. Lại nghe tiếp vế sau thì đồng loạt lia ánh mắt nhìn tri huyện Hàng Châu, vẻ mặt hả hê thích thú, lập tức người hô "đẹp" kẻ kêu "hay" ầm ĩ cả lên.
Quan huyện không phải kẻ ngốc, lại thêm "có tật giật mình," lập tức hiểu đã bị Nghị Chánh chơi xỏ chửi thẳng vào mặt mà chẳng thể làm gì được, lên tiếng thì khác nào thừa nhận gã cũng là một trong số đó. Cái mặt quan huyện tím bầm lại vì căm tức, gã đánh bài lảng lớn tiếng quát học sinh đang đứng quanh đó:
- Quỳ xuống, quỳ xuống, tụi bây còn không quỳ xuống cho mau! Đứng đó trố mắt nhìn tao cái gì hả? Uổng cho tụi bây mang tiếng là dân ăn học, đầy bụng sách vở lễ nghĩa, nay thấy ngự biển như thấy vua mà cứ ớ người ra đấy, còn không chịu quỳ hử!
Trần Tôn lắc đầu cười khổ, đành nghiêm mặt nháy mắt ra hiệu vài cái học sinh mới mặt nhăn mày nhó, miễn cưỡng lục tục quỳ xuống.
Quan huyện hằm hằm đi thẳng vô nơi uy nghiêm nhất của trường là Tâm Thiền thư viện, Trần Tôn và hai anh em họ Lữ cũng phải lật đật chạy theo. Nghị Trung nhân đó nhỏ giọng trách cứ đệ đệ:
- Đây là lúc nào rồi mà đệ còn tranh cường háo thắng hả!
- Đệ cũng muốn nhịn rồi nhưng nghe hắn cạnh khóe tên trường chúng ta, tức không chịu nổi!
- Ôi, ta đã nói bao lần rồi. Đại trượng phu không chấp cái thiệt trước mắt, không nhịn cái nhỏ sao làm được việc lớn. Thật đau đầu với đệ.
Đáp lại Nghị Chánh chỉ trề môi tỏ vẻ không phục. Lại nghe Nghị Trung ủa một tiếng thì thầm:
- Giờ mới nhớ, đệ lúc nào cũng kè kè bên huynh như hình với bóng, sao cha kể với đệ lúc nào mà ta không biết nhỉ? Hay là đệ bịa ra đấy!
- Bịa là thế nào, đoạn sau đệ thừa nhận có thay đổi chút cho hợp cảnh nhưng toàn bộ chính viện trưởng từng nói đó!
- Mã phu tử nói lúc nào sao huynh không hề biết? - Nghị Trung thắc mắc.
- Hà hà, huynh quên còn một vị viện trưởng à? Chuyện này là huynh ấy kể lại đấy!
- À ra vậy!
Nghị Trung gật đầu vỡ lẽ, dừng một thoáng chàng ta chợt tấm tắc:
- Cơ mà đúng là nói quá hay!
Trong lúc đó gã tri huyện đi một vòng thư viện, đột nhiên dừng chân ngắm nghía chỗ tủ thờ có đặt bài vị Lưu, Quan, Trương, bên trong tủ này chính là cánh cửa dẫn xuống địa đạo.
“Quỷ thật!” Trần Tôn vẫn luôn theo sát, thấy vậy giật mình lo lắng, trong bụng như có kiến bò.
- Ở đây đã thờ bài vị Khổng phu tử, lại còn dựng cả bài vị ba người này, lạ nhỉ! - Gã lẩm bẩm.
Trần Tôn còn chưa biết đối đáp thế nào, may thay vẫn là Nghị Trung nhanh trí bước lên cười nói:
- Đây lại là ý tưởng của viện trưởng chúng tôi. Chắc đại nhân cũng biết câu chuyện về ba anh em Lưu, Quan, Trương rồi. Ba người họ gặp gỡ kết nghĩa kim lan khi còn nghèo hèn thấp kém, người dệt chiếu kẻ bán thịt. Vậy mà từ đó cho đến lúc thành vương hầu một cõi, địa vị cao vời nhưng tình anh em vẫn khăng khít bền chặt không hề thay đổi…
- Rồi sao? - Gã tri huyện sốt ruột ngắt lời.
- Hắc Viện học xá cũng vậy, đa phần đều con em bình dân có gia cảnh nghèo khổ theo học. Cho nên viện trưởng thờ ba vị này là có ý nhắc nhở học sinh lấy họ làm gương, dù phấn đấu lập nên công danh sự nghiệp to lớn đến đâu thì càng không được quên đi tình đồng môn thuở hàn vi.
- Hừ, viện trưởng các ngươi rõ là vẽ chuyện!
Quan huyện cười khẩy một cái, đứng sờ mép một hồi rồi đi lên gác xép. Tâm Thiền thư viện có xây một căn gác lửng, là nơi dành cho các phu tử hội họp và nghỉ ngơi giữa các buổi dạy học, cũng là nơi mỗi tháng một lần, đích thân viện trưởng giảng bài cho các tú tài. Quan huyện chỉ tay vào bàn thờ Khổng Tử nói:
- Chỗ này coi bộ sáng sủa nhất ở đây, nom có vẻ được đó. Mấy đứa tụi bây treo biển lên bức tường phía sau bàn thờ này đi.
Binh lính dạ một tiếng, tức tốc khiêng tấm biển treo lên.
Trong thư viện không có thang, hai tên lính Thanh mới phải quỳ xuống, cho hai tên lính khác đạp lên vai lấy thế mà leo lên trên bàn thờ Khổng Tử mà đứng, rồi hai tên lính khác nữa chuyền tấm biển lên, chúng xê qua dịch lại thế nào mà làm rớt tấm bài vị xuống sàn.
Trần Tôn và anh em họ Lữ thấy tấm bài vị của nhà khai sáng Nho giáo bị gãy đôi không khỏi cau mày. Nghị Chánh bực mình dợm bước lên thì lập tức bị ông lão kéo lại, nghiêm mặt lắc đầu. Những học sinh đứng dưới sân ngẩng cổ ngó lên để xem chuyện đang xảy ra trên gác lửng lại càng bất bình xôn xao.
(còn tiếp)