Đông lạnh thân nầy nơi đất khách
Mơ hồi cố thổ mộng Thiên Sơn
Đêm đó khoảng canh hai, Tế Độ trở mình. Cô gái áo hồng ngồi trên chõng tre bên cạnh giường chàng thấy chăn trên ngực chàng trễ xuống nàng liền chồm tới kéo tấm chăn đắp ngang ngực cho chàng. Tế Độ thở yếu ớt. Cô gái nhìn chàng với gương mặt đầy vẻ quan hoài, nàng dùng khăn tay lau mồ hôi vã ra ướt cả trán chàng. Tế Độ cũng nhìn lại nàng, mắt huyền, má hồng, môi đỏ thắm, mái tóc mượt mà xõa tung xuống đôi vai, vóc mình thon gầy, nàng như cành lộc non căng đầy nhựa sống. Chàng nhớ rõ lúc đó đã nhủ bụng nếu có đem cả thế giới để đổi lấy nàng chàng cũng không màng!
Trước khi gặp nàng chàng đã nghĩ trên đời này không có người con gái nào đáng để chàng bận lòng, không một cô gái nào khiến cho chàng động tâm được cả. Nhưng giờ đây, bộ y phục màu hồng thạch anh in đầy trong mắt chàng, trong trí não chàng cũng là tà áo hồng, và trong tim cũng chỉ có một màu hồng. Hồng y nữ tử là tâm nguyện của chàng, là linh hồn, là mạch máu, là tim cho chàng sống, còn là... chàng chẳng biết còn lời nào để diễn tả mối tình cuồng nhiệt của mình với nàng.
Cuối canh ba, Tế Độ lại mở mắt. Chàng tỉnh dậy trong trạng thái đau nhức khắp cả mình mẩy, lại nữa, toàn thân cũng nóng như có lửa đốt. Chàng gọi một tiếng “nước,” nhưng căn nhà thật hoang vắng, chỉ có tiếng ếch nhái kêu ộp ộp ở bãi cỏ quanh nhà. Cô gái đã đi đâu không biết.
Trái tim Tế Độ thắt lại. Cái hình ảnh nàng ra ngoài hiên nhà sắc thuốc và đã bị người A Lạp Sơn Khẩu bắt giữ hiện lên trong đầu chàng, hoặc là nàng bị bọn sói lang ăn thịt mất rồi. Chàng nghĩ tới đây không còn cảm thấy khát nước nữa, cố ngồi dậy, không có thời gian khoác áo choàng để giữ ấm cơ thể, phải khó khăn lắm chàng mới có thể bước xuống giường.
Tế Độ bước từng bước nặng nhọc đi đến cánh cửa để mở cửa ra ngoài tìm cô gái, hơi thở của chàng đã chuyển thành suyễn, vô cùng mệt mỏi, chàng định đưa tay đẩy cửa thì thấy nàng đang đứng nói chuyện với một nam nhân bên tảng đá phía trước sân nhà. Nam nhân vận y phục nâu như hòa trong màn đêm. Tế Độ không thấy mặt nam nhân vì hắn đứng hướng lưng về chàng. Thông thường, Tế Độ không có thói quen đứng sau khe cửa nghe lén cuộc nói chuyện của người ta, nhưng, bốn chữ “canh yến” và “thạch tín” đập vào tai, chàng chỉ có cách vươn hết thính giác ra để lắng nghe.
- Tại sao không thể?
Tế Độ nghe nam nhân vận y phục nâu nói. Hồng y nữ tử lắc đầu, không đáp.
Trong lòng Tế Độ xúc động khôn tả, chàng sực nhớ lúc A Mạc Đan chỉ mặt chàng quát tháo nàng đã dùng khuôn mặt tái bệch và đôi mắt chứa đầy những tia sửng sốt nhìn chàng.
Tế Độ thấy sau lưng nam nhân đeo một bộ cung tên, tự hỏi như vậy gã là họ Hoành hay họ Trần Đây?
Tế Độ lại nhìn cô gái, ông Trời thật biết trêu người, chàng nhớ lại nguyên tắc của mình, không làm thân, không gắn bó, không trao gửi tâm tình với bất kỳ nữ nhân nào giờ bị lung lạc vì một nữ nhân của Thiên Địa hội!
Lại nữa, nếu một lát đây nàng làm theo lời nam nhân áo nâu mang chén canh yến có pha thạch tín vào chàng sẽ làm gì? Chàng biết cô gái không hề nói với nam nhân về thương tích trầm trọng của chàng, bằng không, với võ nghệ của Trần Trạch Lâm hay Hoành Đình trong lúc này đều có thể dễ dàng hạ gục được chàng.
Vậy là tánh mạng của chàng do người Thiên Địa hội cứu lấy, Tế Độ lắc đầu tự nhủ, chàng đã mang ơn người Thiên Địa hội, nhưng rồi cũng chết dưới tay họ. Thật là đi một vòng tròn cuối cùng cũng trở về điểm xuất phát. Thật là luẩn quẩn.
Nhưng cũng không sao cả, Tế Độ nở nụ cười tự mãn, những ngày tháng cuối đời chàng đã được gặp người con gái vận bộ y phục màu hồng thạch anh và hiểu được thi vị của tình yêu, chốn cao sơn lưu thủy đã sống những ngày tháng vô cùng bình lặng. Ngoài trời bấy giờ đang khuya, đêm xuân, những hơi gió mỏng mảnh lùa vào khe cửa mùi ngai ngái của cỏ. Tế Độ nhớ đến thảm cỏ mà chàng và hồng y nữ tử nằm bên nhau ngắm bầu trời mùa xuân trong xanh cao vời vợi, thỉnh thoảng, mới có đám mây màu xanh phớt và màu mỡ gà trôi nhẹ qua, ước gì, chàng được nằm trên thảm cỏ ấy và nhắm mắt bên nàng.
- Muội còn nhớ tổ tông của chúng ta không?
Nam nhân vận y phục nâu hỏi cô gái, nàng quỳ đáp:
- Lão tổ chúng ta họ Chu.
Tế Độ nghe cô gái nói biết “lão tổ” ở đây chính là nói đến Sùng Trinh đế. Bởi tổng đà chủ của Thiên Địa hội chính là Chu Mỹ Xúc. Lúc triều Minh còn hưng thịnh, Chu Mỹ Xúc đi lại giang hồ đã lấy biệt hiệu A Cửu.
Vào năm 1643 bách tính theo Lý Tự Thành khởi nghĩa, phía Bắc có tộc chủ Mãn Châu Hoàng Thái Cực xua quân đội Bát kỳ Nam hạ, phía Đông có Oa Khấu hoành hành, trong triều thì Ngụy Trung Hiền thao túng, cho nên Sùng Trinh đã chẳng thể nào cùng lúc đối phó với quân giặc xâm lăng và Lý Tự Thành được. Trước khi Sùng Trinh cùng đường chạy lên Vạn Thọ Sơn tự vẫn đã chính tay gϊếŧ cả gia đình họ Chu, rồi cầm gươm chĩa thẳng mặt Chu Mỹ Xúc nói: "Chỉ trách số phận ngươi bất hạnh sinh ra trong hoàng tộc," rồi cầm kiếm chém xuống. Chu Mỹ Xúc giơ tay lên đỡ nên thanh kiếm chặt đứt cánh tay trái. Sau đó được Viên Thừa Chí cứu thoát. Chu Mỹ Xúc xuất gia làm ni cô, bái Mộc Tang đạo nhân làm sư phụ và lấy pháp danh Cửu Nạn. Từ đó về sau bà trở thành thủ lĩnh của phong trào phản Thanh phục Minh và được người trong giang hồ gọi là Độc Tý Thần Ni.
Tế Độ cũng biết, câu hỏi của nam nhân áo nâu chính là lời mở đầu cho các cuộc thẩm phán trước khi xử quyết những thành viên trong Thiên Địa hội phạm lỗi không thể dung nạp. Mỗi khi khai đường xử tội, một đương gia sẽ đứng ra hỏi sáu câu hỏi, và người phạm lỗi phải quỳ cung kính trả lời theo thứ tự. Sáu câu hỏi và câu trả lời đều được các thành viên Thiên Địa hội học thuộc sau khi gia nhập bang hội. Và sau khi người phạm tội trả lời sáu câu hỏi xong tổng đà chủ sẽ cùng các đương gia và các trưởng lão nghị luận trước khi đưa ra phương pháp xử quyết người phạm tội.
Nam nhân áo nâu tiếp:
- Tất cả huynh đệ Thiên Địa hội phải kính nể ba bậc thánh nhân nào?
Cô gái áo hồng nói:
- Một kính Lưu, Quan, Trương đào viên kết nghĩa, hai kính liệt vị anh hùng Ngõa Cang Trại, ba kính một trăm lẻ tám hảo hán Lương Sơn Bạc.
Cứ mỗi một câu hỏi phát ra từ miệng nam nhân là cô gái trả lời ngay lập tức. Hai người một hỏi một đáp sáu luật lệ từ lúc khai lập Thiên Địa hội tới nay.
- Tứ đại giáo điều của bang hội là gì?
- Đầu hàng Thanh triều phải gϊếŧ, phạm thượng bảng hội phải gϊếŧ, bán đứng bằng hữu phải gϊếŧ, da^ʍ ô vợ người phải gϊếŧ.
- Bang phái phải cứu giúp bốn loại người nào?
- Một cứu nghĩa sĩ nhân giả, hai cứu hiếu tử hiền tôn, ba cứu tiết phụ trinh nghĩa, bốn cứu lê dân khổ nạn.
- Bang hội phải gϊếŧ bốn loại người nào?
Cô gái không nói, nam nhân áo nâu hỏi xong cũng im lặng. Một hồi sau, cô gái nói:
- Một gϊếŧ tẩu cẩu Mãn Thanh, hai gϊếŧ tham quan ô lại, ba gϊếŧ thổ hào ác bá, bốn gϊếŧ hung đồ ác đảng.
Nam nhân áo nâu không cần hỏi điều luật thứ sáu, hắn rút một con dao ngắn có răng cưa cất đâu trong áo ra ném trước mặt cô gái và dùng giọng ráo hoảnh nói:
- Muội không gϊếŧ hắn thì hãy tự vẫn, huynh không nhẫn tâm mang muội về tổng đà để tổng đà chủ mở hương đường chất vấn muội, huynh không muốn đích mắt nhìn muội nhận ba đao sáu lỗ.
Tế Độ có nghe qua phương pháp xử quyết mà nam nhân áo nâu gọi là “ba đao sáu lỗ” kia, nghĩa là người phạm tội sẽ lãnh ba nhát đao vào ba vùng cổ, ngực và bụng, ba đao này phải xuyên thủng từ trước ra sau nên gọi là “ba đao sáu lỗ.”
Nam nhân áo nâu nói:
- Tứ ca biết, muội có tính thương người, nhưng cũng đừng vì quá lương thiện mà hồ đồ, muội không gϊếŧ hắn chính là phạm vào đại tội cấm kị của bảng phái. Tổng đà chủ nhất định sẽ mở hương đường chất vấn, đến chừng đó muội có thành tâm hối cải cũng không còn kịp nữa, cho dù muội có công chữa trị tất cả các thành viên Thiên Địa hội thì tội trạng cũng không được thuyên giảm.
Hoành Đình nói xong trăng ẩn sau một cụm mây, chợt hiện ra, sau đó tiếp tục bị che khuất đi bởi một cụm mây đen kịt khác. Không gian liên tục thay đổi giữa tranh tối và tranh sáng làm cho con dao của Hoành Đình phát ra tia sáng lạnh người.
Cô gái vẫn liên tục lắc đầu, Tế Độ thấy nàng vì chàng mà phạm phải hội qui nhất định phải mất mạng, chàng định đẩy cửa xông ra ngoài cản trở Hoành Đình lại, không để hắn đưa nàng đi gặp Cửu Nạn, hoặc chí ít, cũng cản không để nàng tự vẫn, và nếu có thể, chàng muốn khuyên nàng theo chàng về kinh thành là tốt nhất. Nhưng, Tế Độ vừa chạm tay vào cánh cửa thì đột nhiên có tiếng chân dồn dập rồi tiếng sủa inh ỏi vang lên.
Tiếng chân người và tiếng chó sủa càng lúc càng gần.
Có hai người xuất hiện trước mặt Hoành Đình.
- Bẩm tứ đương gia – Một người nói - Người A Lạp Sơn Khẩu đang trên đường đến đây. Ít nhất cũng một trăm người thưa tứ đương gia.
- Trong tay họ đều lăm lăm vũ khí – Người kia nói - Gương mặt cũng đằng đằng sát khí. Xưa nay chúng ta tới lui với họ không bao giờ xảy ra hiềm khích, không hiểu sao đêm nay họ lại mang vũ khí đến đây?
Hoành Đình chưa trả lời, người Hồi đã kéo tới vây Hoành Đình và bộ hạ của Hoành Đình vào giữa. Cầm đầu đoàn người Hồi là một ông lão đầu trọc thân hình mập mạp, mặc áo trắng hở ngực, râu xoắn quanh cằm, lông mày chổi sể, cất tiếng ồ ề như trâu rống:
- Khốn nạn! – Ông lão chĩa tia nhìn đầy lửa giận vào Hoành Đình chửi - Thì ra cuối cùng Thiên Địa hội chúng mày cũng trở thành Ưng Khuyển hội! Gϊếŧtt!!!
Người Hồi mang gậy gộc, giáo, mác, trường đao, kiếm, côn, chùy xích, đủ cả các loại binh khí tấn công Hoành Đình và hai người bộ hạ của Hoành Đình. Khoảnh sân êm đềm trước căn nhà trong phút chốc trở thành một bãi chiến trường kịch liệt.
Gió đêm đột nhiên nổi lên rất mạnh, như một cơn lốc hung hãn. Trăng hoàn toàn ló ra khỏi mây, chiếu những tia ngổn ngang trên các gương mặt đằng đằng sát khí. Ở cánh rừng xa xa tiếng quạ kêu đêm vẳng tới, dơi bay vùn vụt khỏi những tán thông khi tiếng gươm đao chát chúa bắt đầu nện vào nhau.
Tế Độ định đẩy cửa ra ngoài bảo vệ cô gái áo hồng thì nghe tiếng suỵt khẽ.
- Người A Lạp Sơn Khẩu nghĩ tứ ca cũng có phần làm loạn thánh địa – Cô gái nói - Trong lúc huynh ấy đánh nhau với họ muội đưa huynh đi, mau lên!
Thì ra cô gái nhân lúc hai bộ hạ của Hoành Đình xuất hiện đã len lén đi vòng ra phía sau nhà.
Tế Độ thấy nàng vẫn còn lo nghĩ cho chàng, trở vào nhà bằng cửa sau tìm chàng, xúc động đến độ đứng chết lặng nhìn nàng.
Cô gái nói xong chạy đến đẩy cái chõng tre sang một bên để lộ cánh cửa có diện tích khoảng chừng một thước hơn. Mấy tháng này Tế Độ ở trong căn nhà cũng không để ý, rằng bên dưới chõng tre là một cánh cửa dẫn xuống một địa đạo. Cô gái mở cửa, bước xuống cầu thang đi xuống địa đạo.
Tế Độ cũng theo nàng đi trên lối đi tối om om, mấy lần chàng muốn khuyên nàng hãy theo chàng rời khỏi Thiên Sơn nhưng cứ hễ chàng định nói chuyện là cơn ho nổi dậy khiến chàng không thể nào mở miệng nói chuyện được.
Địa đạo bí mật dẫn ra một vùng cỏ xanh mướt, lúc này trời bắt đầu sáng, hai người giẫm lên những ngọn cỏ mềm mượt còn ướt đẫm sương. Một cảm giác đau buốt chạy rùng rùng từ chân lên đầu khiến Tế Độ không thể đi tiếp, chàng ngồi thụp xuống cỏ ôm lấy đầu.
Cô gái cũng ngồi thụp xuống bên chàng, đưa bàn tay mát lạnh gỡ tay chàng ra khỏi đầu rồi sờ lên trán chàng nói:
- Cố lên, chúng ta phải đi thêm một đoạn nữa, ở đây sẽ có người Thiên Địa hội nhìn thấy huynh.
Nàng nói rồi đỡ lấy tay chàng dìu chàng đứng lên, hai người tiếp tục đi.
Cô gái dẫn Tế Độ đến một con suối nước đang chảy róc rách, nàng dừng chân lấy trong tay áo ra hai nén bạc lớn và con dao của Hoành Đình đưa cho chàng, nói:
- Huynh đi theo con suối này cho tới khi gặp một thôn làng, sau đó dùng tiền này mua ngựa trở về kinh thành, còn con dao huynh mang theo phòng thân. Cáo từ!
Tế Độ vẫn còn ho không thể kiềm chế, chàng ho đến độ đầu óc choáng váng, phải ngồi thụp xuống cỏ lần nữa. Đến khi cơn ho tạm lắng và đầu óc bớt choáng váng chàng nhìn lên thì cô gái đã đi mất.
Tế Độ trầm ngâm nghĩ về ký ức mà quên mất thời gian, đến lúc một binh sĩ bước vào kho thuốc Hắc Viện nhắc nhở chàng đi ngủ đã là cuối canh ba.
Tế Độ gật đầu. Người lính cúi chào chàng rồi đi ra ngoài.
Tế Độ cuộn tấm mành trúc lại cầm trong tay chàng, chàng nhớ, chàng đã không rời khỏi Hồi Cương cho tới cuối mùa xuân năm đó Thuận Trị sai Sách Ngạch Đồ đi tìm nên bất đắc dĩ chàng phải theo Sách Ngạch Đồ về kinh thành. Nhưng chàng đã quyết với lòng, quyết không bỏ cuộc, sẽ tìm ra cô gái vận y phục màu hồng thạch anh bằng mọi giá.
Khoảng thời gian trở về kinh thành sức khoẻ của chàng không tốt. Hằng ngày Thuận Trị, Hiếu Trang, Sách Ngạch Đồ và Não Đại đều cho người mang canh yến đến để chàng tẩm bổ nhưng chàng hoàn toàn không chạm vào một muỗng canh nào cả. Hễ mỗi lần nhìn chén canh yến của những a hoàn dâng đến miệng là chàng nhớ đến hồng y nữ tử, suốt cả mùa đông năm đó tối nào nàng ấy cũng nấu một bát canh nóng cho chàng trước khi chàng đi ngủ. Mùi vị bát canh tổ yến nấu với đường phèn chỉ có nàng ấy mới nấu ngon được.
Thấm thoát mà đã ba năm trôi qua, cứ hễ mỗi độ xuân sang chàng đều quay trở lại Hồi Cương, ngôi nhà tranh vẫn còn đó, cảnh vật vẫn như cũ. Chàng ngồi tựa lưng vào tảng đá trong sân dõi mắt nhìn trời xanh như tìm kiếm một hình ảnh quen thuộc, một mảnh trời mà chàng ước gì có thể gặp lại lần nữa.
Tế Độ chậm rãi khép cánh cửa kho thuốc lại. Bên ngoài mưa đã tạnh, chàng bước đi trên hành lang Hắc Viện, bóng mờ dần trong màn đêm.
(còn tiếp)