Chương 7
Những cơn mơ phiền toái ùa vào giấc ngủ của tôi. Khuôn mặt của cô gái tóc đỏ cùng hình ảnh vấy máu của những lần Đấu trường Sinh tử trước, hình ảnh mẹ càng ngày càng rời xa khỏi tầm với, rồi hình ảnh Prim hốc hác và hoảng sợ. Tôi choàng dậy khi miệng đang gào lên gọi cha chạy khỏi khu mỏ đang nổ tung thành hàng triệu ánh chớp.
Ánh bình minh rọi qua ô cửa sổ. Không khí ở Capitol mù sương và rờn rợn. Cơn đau đầu của tôi hẳn là do tì một bên má trong khi ngủ. Lưỡi tôi khô ráp và có mùi máu.
Tôi chậm chạp trườn khỏi giường rồi đi tắm. Tôi nhấn tùy tiện vào những nút trên bảng điều khiển để rồi chân tay quýnh quáng hết cả khi bị những tia nước vừa lạnh giá vừa nóng hổi tấn công tới tấp. Rồi tôi chìm trong đống bọt có mùi chanh khiến tôi phải chà sạch người bằng cái bàn chải thô ráp nặng trịch. Mà thôi, cũng chẳng sao. Ít nhất tôi cũng còn sống.
Khi đã lau khô người và thoa kem dưỡng da, tôi tìm thấy một bộ đồ đã được chuẩn bị cho mình phía trước tủ quần áo. Chiếc quần dài bó màu đen, chiếc áo tunic màu vang đỏ tay dài và đôi giày da. Tôi vẫn để tóc một túm thẳng xuống sau lưng. Đây là lần đầu tiên kể từ buổi sáng chiêu quân tôi trở lại là chính mình. Không quần áo hay đầu tóc cầu kỳ, không áo choàng bốc lửa. Chỉ là tôi. Trông như thể tôi đã sẵn sàng cho một cuộc đi săn. Điều này làm tôi nhẹ nhõm.
Haymitch đã không cho chúng tôi biết thời gian điểm tâm chính xác và sáng nay cũng không ai gọi tôi dậy cả, nhưng vì đói nên tôi đi thẳng xuống phòng ăn, hy vọng sẽ có thứ gì ở đó. Tôi không phải thất vọng. Bàn ăn tuy trống nhưng chiếc bàn trung tâm dài từ đầu này đến đầu kia căn phòng được bày ít nhất hai mươi món. Một chàng trai trẻ, dân Avox, đứng bao quát xung quanh. Khi tôi hỏi liệu tôi có thể tự phục vụ không, anh ta gật đầu. Tôi lấy ra đĩa nào là trứng, lạp xưởng, nào là bánh bột nhão với lớp mứt cam dày xung quanh và mấy lát dưa màu tím hoa cà. Vừa ăn ngấu nghiến, tôi vừa nhìn mặt trời mọc ở Capitol. Đĩa thứ hai tôi lấy ngũ cốc nóng với thịt bò hầm. Còn đĩa cuối cùng, tôi lấy những cái bánh cuộn ra đầy đĩa và ngồi vào bàn, bẻ từng mẩu nhỏ và chấm vào sô cô la nóng, như cách Peeta đã làm trên xe lửa.
Tôi nghĩ về mẹ và Prim. Vào giờ này hẳn họ đã dậy rồi. Mẹ tôi đang chuẩn bị bữa sáng với cháo ngô. Prim thì vắt sữa dê trước khi đến trường. Chỉ cách đây hai buổi sáng, tôi vẫn còn ở nhà. Điều này là thật sao? Phải, chỉ mới hai buổi sáng. Và giờ đây dù ở một nơi rất xa, tôi vẫn cảm giác được căn nhà của tôi mới trống trải làm sao. Tối qua họ đã nói gì về màn ra mắt rực lửa của tôi ở Đấu trường nhỉ? Liệu điều đó mang lại cho họ hy vọng hay chỉ gây thêm sợ hãi khi họ đã thấy thực tế về hai mươi bốn đấu thủ bị quây lại với nhau, trong đó chỉ một người có thể sống sót?
Haymitch và Peeta đến, chúc tôi buổi sáng tốt lành rồi lấy đĩa ăn. Tôi thấy phát cáu khi Peeta cũng mặc đồ giống tôi. Tôi cần nói chuyện với Cinna. Việc giống nhau này sẽ khiến chúng tôi ngượng chín mặt khi Đấu trường bắt đầu. Chắc chắn là họ biết chứ. Rồi tôi nhớ Haymitch đã nói rằng tôi phải làm chính xác những gì những nhà tạo mẫu yêu cầu. Nếu không phải Cinna mà là ai khác, có lẽ tôi đã lơ anh ấy rồi. Nhưng sau màn thành công tối qua, tôi không có nhiều lý do để chỉ trích lựa chọn của anh.
Tôi lo lắng về buổi luyện tập. Tất cả vật tế sẽ có ba ngày luyện tập cùng nhau. Vào buổi chiều cuối cùng, mỗi chúng tôi sẽ có cơ hội thể hiện riêng trước Ban Giám khảo. Cứ nghĩ đến việc phải mặt đối mặt với những đấu thủ khác làm tôi phát ốm. Lật qua lật lại ổ bánh mì vừa lấy trong rổ, nhưng cơn thèm ăn của tôi thì đã đi đâu mất.
Chén xong vài đĩa thịt hầm, Haymitch bỏ chiếc đĩa lại cùng tiếng thở dài. Ông lấy chiếc bình bẹt đựng rượu ra khỏi túi, tu một hơi dài rồi chống cùi chỏ vào bàn. “Bắt đầu vào việc thôi. Về buổi tập luyện. Trước tiên, nếu các cháu muốn, ta sẽ dạy riêng cho từng người. Quyết định ngay đi.”
“Tại sao ông phải dạy riêng từng người?” tôi hỏi.
“Chẳng hạn nếu cháu có một kỹ năng bí mật nào đấy mà không muốn người kia biết,” Haymitch nói.
Tôi và Peeta nhìn nhau. “Tớ chẳng có tuyệt kỹ nào cả,” cậu nói. “Và tớ cũng biết tỏng bí mật của cậu, đúng không? Ý tớ là, tớ đã ăn biết bao nhiêu sóc nhà cậu rồi.”
Tôi không nghĩ là Peeta đã ăn những con sóc mà tôi bắn. Không hiểu sao tôi luôn mường tượng ra cảnh ông chủ tiệm bánh lặng lẽ lủi đi và nướng lũ sóc một mình. Không phải vì tham. Nhưng vì những gia đình ở thị trấn luôn ăn những món thịt đắt đỏ. Thịt bò, thịt gà và thịt ngựa.
“Ông có thể dạy bọn cháu cùng nhau,” tôi nói với Haymitch. Peeta gật đầu.
“Được thôi, bây giờ hãy cho ta biết các cháu có thể làm những gì?” Haymitch nói.
“Cháu chẳng biết làm gì cả,” Peeta nói. “Trừ khi ông tính cả việc nướng bánh mì.”
“Xin lỗi, thế thì thôi. Này Katniss. Ta biết cháu dùng dao khá cừ.” Haymitch nói.
“Cũng không hẳn. Nhưng cháu có thể săn,” tôi nói. “Bằng cung tên.”
“Và cháu bắn tốt chứ?” Haymitch hỏi.
Câu hỏi của ông khiến tôi phải suy nghĩ. Trong bốn năm qua thức ăn của nhà là do tôi kiếm. Công việc đó không hề dễ dàng. Tôi săn không cừ như cha, nhưng bởi ông có nhiều thời gian luyện tập hơn. Tôi săn giỏi hơn Gale, nhưng vì tôi luyện tập nhiều hơn. Anh là thiên tài cài bẫy và giăng lưới. “Cháu bắn cũng tàm tạm,” tôi nói.
“Cậu ấy cừ lắm,” Peeta nói. “Cha cháu thường mua sóc của cậu ấy. Ông luôn nhận xét rằng những mũi tên của cậu ấy không bao giờ làm toạc thịt con mồi. Câu ấy luôn bắn vào mắt. Những con thỏ cậu ấy bán cho tiệm thịt cũng thế. Cậu ấy còn hạ được cả nai.”
Sự am hiểu của Peeta về kỹ năng của tôi khiến tôi hoàn toàn bất ngờ. Một là cậu có để ý thật. Hai là cậu đang tâng bốc tôi. “Cậu đang làm gì thế?” Tôi hỏi đầy ngờ vực.
“Còn cậu đang làm gì thế? Nếu muốn giúp cậu thì ông ấy phải biết cậu có khả năng gì. Đừng đánh giá thấp bản thân mình chứ,” Peeta nói.
Không hiểu tại sao, nhưng tôi thấy khó chịu. “Còn cậu thì sao? Tớ từng thấy cậu ở chợ. Cậu có thể vác những bao bột mì nặng năm mươi ký,” tôi trả đũa. “Kể với ông ấy đi. Chuyện đó có phải cỏn con đâu.”
“Chính xác, và tớ chắc là ở đấu trường sẽ có đầy những bao bột mì để tớ liệng vào đối thủ rồi. Nó khác với việc dùng một thứ vũ khí. Cậu biết là khác mà,” cậu bật lại.
“Peeta biết đấu vật,” tôi nói với Haymitch. “Cậu ấy đứng thứ nhì trong cuộc thi cấp trường năm ngoái, chỉ đứng sau anh ruột.”
“Thì có ích gì? Cậu đã thấy ai vật chết người bao giờ chưa?” Peeta bực dọc.
“Bao giờ mà chẳng có những cuộc đấu tay đôi. Chỉ cần cầm dao lao tới là ít nhất cậu cũng có cơ hội rồi. Nếu bị tấn công thì tớ bỏ mạng!” Tôi thấy mình đang nói trong giận dữ.
“Nhưng cậu có ở dưới đất đâu! Cậu sẽ leo lên cây, bắt sóc mà ăn uống và dùng cung tên hạ gục đối thủ. Cậu biết mẹ tớ đã nói gì khi đến nói lời tạm biệt và động viên tớ không? Bà nói có thể cuối cùng Quận 12 sẽ có một người chiến thắng. Và rồi tớ nhận ra, bà không nói về tớ, mà ám chỉ cậu!” Peeta nói lớn.
“Ồ, bà ám chỉ cậu đấy,” tôi nói cho qua.
“Bà nói, ‘Cô bé ấy sẽ là người sống sót.’ Cô bé ấy,” Peeta nói.
Tôi hơi phổng mũi. Mẹ Peeta nói về tôi như thế thật sao? Liệu bà có đánh giá tôi cao hơn con trai bà? Tôi nhìn thấy nỗi ấm ức trong đôi mắt Peeta và biết cậu không nói dối.
Rồi tôi chợt thấy mình đang đứng cạnh tiệm bánh và những giọt mưa rét buốt chảy dọc sống lưng, dạ dày tôi trống rỗng. Tôi thấy mình trở lại năm mười một tuổi. “Nhờ ai đó mà mình đã sống sót.”
Peeta nhìn xuống cái bánh trong tay tôi, tôi biết cậu cũng nhớ ngày hôm đó. Nhưng cậu chỉ nhún vai. “Người ta sẽ giúp cậu ở Đấu trường. Họ sẽ giành nhau quyền tài trợ cho cậu.”
“Thì với cậu cũng thế,” tôi nói.
Peeta nhìn sang Haymitch. “Cậu ấy không biết gì về ảnh hưởng của mình,” Peeta cà móng tay theo thớ gỗ trên bàn, tránh nhìn vào mắt tôi.
Cậu ta có ý quái gì thế? Người ta sẽ giúp đỡ tôi? Khi chúng tôi chết dần chết mòn vì đói, không ai giúp tôi cả! Không ai ngoại trừ Peeta. Một khi tôi có gì đó để đổi chác, mọi thứ cũng khác đi. Tôi là một tay buôn có hạng. Phải thế không nhỉ? Tôi thì có ảnh hưởng gì chứ? Vì tôi yếu ớt và nghèo đói ư? Cậu ấy muốn nói tôi có ưu thế vì người ta thương hại tôi ư? Tôi đang cố nghĩ xem điều đó có đúng không? Có thể một vài người trao đổi hàng hóa với tôi có hào phóng hơn chút đỉnh, nhưng tôi luôn nghĩ đó là vì mối quan hệ lâu năm của họ với cha tôi. Hơn nữa, đây là cuộc đấu đỉnh cao. Sẽ không ai thương hại tôi cả!
Tôi nhìn đăm đăm vào ổ bánh, chắc chắn rằng cậu có ý hạ nhục tôi.
Được chừng một phút, Haymitch nói. “Thôi nào. Được rồi. Được rồi. Katniss, sẽ không chắc là có cung tên ở đấu trường, nhưng trong buổi gặp riêng với Ban Tổ chức, hãy cho họ thấy cháu có thể làm gì. Trước lúc đó, hãy quên cái cung tên đi. Cháu đặt bẫy khá không?”
“Cháu biết vài cách gài bẫy căn bản,” tôi thì thầm.
“Việc này là rất cần thiết để tìm thức ăn,” Haymitch nói. “Còn Peeta, cô bé nói đúng đấy, đừng bao giờ hạ thấp sức mạnh cơ bắp ở Đấu trường. Những đấu thủ cơ bắp thường có lợi thế hơn. Ở Trung tâm Huấn luyện có tạ, nhưng cháu không cần thể hiện trước mặt những đấu thủ khác. Kế hoạch cho cả hai cháu là như nhau. Hãy vào những lớp huấn luyện nhóm. Dành thời gian học những thứ mình chưa biết. Ném lao. Lăng chùy. Học cách thắt nút cho đúng. Đừng bộc lộ sở trường cho đến khi vào buổi gặp riêng. Rõ cả rồi chứ?” Haymitch nói.
Peeta và tôi gật đầu.
“Điều cuối cùng. Ở nơi đông người, ta muốn hai cháu lúc nào cũng đi cạnh nhau,” Haymitch nói. Bọn tôi định từ chối, nhưng Haymitch đập tay xuống bàn. “Bất cứ lúc nào! Không cần phải tranh cãi! Hãy làm theo lời ta dặn! Ở cạnh nhau, tỏ ra thân mật với nhau. Giờ thì đi đi. Gặp Effie tại thang máy lúc mười giờ để luyện tập.”
Tôi bặm môi và nặng nề bước về phòng, đóng sập cửa để Peeta nghe thấy. Tôi ngồi lên giường, thấy ghét Haymitch, ghét Peeta, ghét bản thân mình vì đã nhắc lại cái ngày dưới mưa năm đó.
Thật nực cười! Peeta và tôi đi cạnh nhau và vờ là bạn bè! Moi móc những điểm mạnh của nhau, buộc nhau phải thừa nhận khả năng của mình. Bởi vì, sự thật là đến lúc bằng cách nào đó, chúng tôi sẽ phải làm rõ trắng đen và thừa nhận rằng cả hai đều là đối thủ khó chịu của nhau. Đó mới là cái việc đáng lẽ tôi phải làm bây giờ, nếu không vì cái mệnh lệnh ngớ ngẩn của Haymitch rằng chúng tôi phải đi cùng nhau trong buổi tập luyện riêng từng người. Nhưng điều đó không có nghĩa là tôi muốn chia sẻ mọi thứ với Peeta, người mà dù sao cũng chẳng muốn hợp tác với tôi.
Tôi thấy tiếng Peeta văng vẳng trong đầu mình. Cậu ấy không biết gì về sự ảnh hưởng của mình. Rõ ràng muốn hạ nhục tôi. Chứ còn gì nữa? Nhưng một phần rất nhỏ trong tôi lại tự hỏi, liệu đó có phải là một lời khen tặng? Rằng Peeta cho rằng tôi cuốn hút theo một cách nào đó. Thật quái lạ khi cậu ấy để ý tôi kĩ đến thế. Chẳng hạn cậu chú ý đến việc săn bắn của tôi. Và rõ ràng là tôi cũng không mù tịt về Peeta như tôi nghĩ. Những bao bột mì. Chuyện đấu vật. Tôi đã luôn để mắt tới chàng trai từng cho tôi ổ bánh mì.
Đã gần mười giờ. Tôi đánh răng và chải lại tóc. Cơn giận bất chợt đã khỏa lấp nỗi lo lắng của tôi về những đấu thủ khác, nhưng bây giờ tôi lại thấy lo âu trở lại. Lúc gặp Effie và Peeta ở thang máy, tôi nhận ra mình đang cắn móng tay. Tôi bỏ ngay tay xuống.
Khu phòng luyện tập nằm dưới lòng đất của tòa nhà. Thang máy đưa chúng tôi xuống sau chưa đầy một phút. Cánh cửa mở ra, bên trong là phòng thể dục khổng lồ với đầy đủ những thứ vũ khí và chướng ngại vật. Mặc dù chưa tới mười giờ nhưng chúng tôi là những người cuối cùng đến đó. Những đấu thủ khác đang đứng quây thành vòng tròn. Mỗi người họ đều có một miếng vải vuông với số thứ tự quận gài lên áo. Trong khi chờ ai đó gài con số 12 trên lưng, tôi thoáng nhìn xung quanh. Peeta và tôi là cặp duy nhất mặc đồ giống nhau.
Ngay khi chúng tôi gia nhập vòng tròn, người phụ trách huấn luyện, một phụ nữ cao ráo, rắn rỏi có tên Atala bước lên phía trước và bắt đầu giải thích chế độ luyện tập. Các chuyên gia thuộc các lớp kỹ năng khác nhau sẽ đứng ở các khu riêng của mình. Chúng tôi được tự do đến những lớp tự chọn khác nhau, tùy theo sự chỉ đạo của người hướng dẫn. Chúng tôi không được phép tham gia bất cứ bài tập chiến đấu nào với một đấu thủ khác. Sẽ có người hỗ trợ nếu chúng tôi cần người đấu tập cùng.
Khi Atala bắt đầu đọc danh sách các lớp kỹ năng, tôi không thể không đưa mắt nhìn quanh những đấu thủ khác. Đây là lần đầu tiên chúng tôi được tụ họp lại, ở đây, trong những bộ quần áo đơn giản. Tim tôi thót lại. Hầu hết bọn con trai và hơn nửa bọn con gái to lớn hơn tôi, mặc dù nhiều đứa cũng chưa từng được ăn uống đầy đủ. Bạn có thể thấy sự suy dinh dưỡng thể hiện qua xương xẩu, da dẻ, hay cặp mắt trũng sâu của chúng. Có thể là bề ngoài tôi nhỏ người hơn, nhưng nguồn thức ăn kiếm được ở nhà đã giúp tôi có chút lợi thế. Tôi đứng thẳng người, và dù gầy gò, trông tôi vẫn khỏe mạnh. Thịt và rau quả kiếm được trong rừng cùng với việc săn lượm hàng ngày đã giúp tôi có được vóc dáng chắc nịch hơn hầu hết những đứa bên cạnh.
Bọn trẻ đến từ những quận giàu có là ngoại lệ. Chúng là những đứa xung phong đến Đấu trường, những đứa được nuôi ăn và huấn luyện từ bé cho Đấu trường này. Đó thường là bọn đến từ Quận 1, 2 hay 4. Trên nguyên tắc, việc huấn luyện đấu thủ trước khi đến Capitol là trái với điều lệ, nhưng điều đó vẫn diễn ra hàng năm. Ở Quận 12, chúng tôi gọi chúng là những Vật tế Nhà nghề, hay đơn giản là bọn Nhà nghề. Và người thắng cuộc thường là một trong số chúng.
Lợi thế nho nhỏ của tôi trước khi vào Trung tâm Huấn luyện, màn xuất hiện bốc lửa vào tối qua, có vẻ đã mất đi khi trực tiếp gặp những đấu thủ của mình. Chúng ghen tị với hai đứa tôi không phải vì bản thân chúng tôi có gì thú vị, mà bởi những gì các nhà tạo mẫu đã làm. Giờ đây tôi chỉ thấy trong mắt bọn Đấu thủ Nhà nghề ánh lên sự coi thường. Mỗi đứa phải nặng hơn tôi từ hai mươi đến bốn mươi cân. Chúng tỏ ra ngạo mạn và hiếu chiến. Khi Atala nói xong, bọn chúng đến thẳng những thứ vũ khí trông đáng sợ nhất trong phòng tập và sử dụng chúng một cách dễ dàng.
Khi tôi đang nghĩ mình thật may mắn vì là một tay chạy có hạng thì Peeta huých vào tay làm tôi giật mình. Cậu đang ở bên cạnh tôi như mệnh lệnh của Haymitch. Trông cậu khá điềm tĩnh. “Cậu muốn bắt đầu từ đâu?”
Tôi nhìn bọn Nhà nghề đang phô diễn; rõ ràng chúng muốn cả sàn tập khϊếp sợ. Rồi tôi nhìn những đứa khác, những đứa thiếu ăn, thiếu khả năng, đang run rẩy tập bài học đầu tiên của chúng với con dao hay cái rìu.
“Chúng ta tập thắt nút thử xem,” tôi nói.
“Ở ngay đây thôi,” Peeta nói. Chúng tôi đi đến một lớp vắng tanh, người huấn luyện tỏ vẻ hài lòng khi có người đến học. Có vẻ lớp học thắt nút không phải là điểm nóng cho Đấu trường. Khi thấy tôi biết chút ít về đặt bẫy, ông ta chỉ cho chúng tôi một cách đặt bẫy đơn giản nhưng hiệu nghiệm khiến đối thủ bị treo một chân lủng lẳng trên cây. Chúng tôi tập trung kỹ năng đó trong một giờ cho đến khi cả hai đều thành thạo. Rồi bọn tôi sang lớp học ngụy trang. Peeta tỏ ra thực sự thích thú với nơi này. Cậu trét một mớ những bùn, đất sét và ruột trái dâu lên khắp làn da nhợt nhạt của mình, cài thêm những dây nho và lá cây để ngụy trang. Người đứng lớp ngụy trang chỉ dẫn chúng tôi một cách không thể nhiệt tình hơn.
“Tớ học từ cách làm bánh,” Peeta thú nhận.
“Bánh ư?” tôi hỏi. Tôi đang để tâm vào một thằng Quận 2 vừa phóng một ngọn lao xuyên qua tâm hình nộm từ năm mươi mét. “Bánh nào cơ?”
“Ở nhà. Những chiếc bánh đông lạnh ấy, cho tiệm bánh mì,” cậu nói.
Peeta muốn nói đến những chiếc bánh được bày bên cửa sổ. Những chiếc bánh thơm ngon được trang trí hoa hòe và hình thù đẹp mắt bằng kem. Người ta mua chúng làm quà sinh nhật và mừng năm mới. Lúc ở quảng trường, Prim luôn kéo tôi lại để cùng trầm trồ nhìn chúng, mặc dù hai chị em chưa bao giờ có đủ tiền mua. Tôi khó mà không nghe theo con bé, bởi chẳng mấy khi mà tìm thấy điều gì đẹp đẽ ở Quận 12 này.
Tôi nhìn kỹ hơn vào hình thù trên cánh tay Peeta. Những vệt sáng tối đan xen giống như ánh sáng đang rọi qua những kẽ lá rừng. Tôi tự hỏi làm sao cậu lại biết làm vậy, vì tôi cứ ngỡ Peeta chưa bao giờ thoát khỏi vòng kèm cặp của cha mẹ. Chỉ cần nhìn cây táo già xơ xác sau vườn nhà là biết được điều đó ư? Dường như toàn bộ những điều ấy - kỹ năng của cậu ấy, những chiếc bánh đắt đỏ, lời khen ngợi từ chuyên gia hóa trang - đang làm tôi khó chịu.
“Khá đấy. Sao cậu không thử làm đông lạnh ai đó đến chết,” tôi nói.
“Đừng chủ quan. Cậu sẽ không lường trước điều gì ở Đấu trường đâu. Giả sử người đó là một chiếc bánh bự tổ chảng…” Peeta bắt đầu cù nhây.
“Chúng ta đi tiếp thôi,” tôi ngắt lời.
Và ba ngày tiếp theo trôi qua khi Peeta và tôi lặng lẽ đi từ lớp này đến lớp học khác. Chúng tôi nhặt nhạnh được vài kỹ năng đáng giá, từ đánh lửa đến phóng dao và làm nơi ẩn náu. Mặc dù Haymitch yêu cầu chúng tôi không được thể hiện mình, Peeta vẫn nổi trội trong các bài đối kháng, còn tôi vượt qua trong nháy mắt bài kiểm tra về những loại cây cỏ ăn được. Dù vậy, chúng tôi tránh vào khu vực bắn cung và nâng tạ, để dành chúng trong buổi gặp riêng.
Ngay ngày đầu tiên Ban Tổ chức đã có mặt từ sớm. Khoảng hai mươi người cả đàn ông và đàn bà mặc áo choàng màu tím than. Họ ngồi trên một bệ cao xung quanh nhà tập luyện, thỉnh thoảng qua lại quan sát chúng tôi, hí hoáy viết những ghi chú, có lúc thì ngồi ăn trên một bàn tiệc dài tít tắp được phục vụ riêng, không để ý đến số đông chúng tôi. Nhưng họ có để mắt đến hai đấu thủ Quận 12. Thỉnh thoảng, tôi bắt gặp ai đó dán mắt vào mình. Họ cũng hỏi ý kiến của những huấn luyện viên trong lúc chúng tôi ăn. Khi trở lại nơi tập, chúng tôi thấy họ đang đứng cùng nhau.
Bữa sáng và bữa tối được phục vụ tại tầng của mỗi người, còn đến bữa trưa hai mươi bốn người chúng tôi sẽ đến một phòng ăn bên ngoài nhà tập luyện. Thức ăn được sắp vào những xe đẩy ở xung quanh phòng, ai tự phục vụ người nấy. Lũ Nhà nghề thường tụ tập huyên náo quanh một chiếc bàn, như thể muốn chứng tỏ sự vượt trội của mình, như thể muốn nói chúng tôi không sợ một ai và không thèm để mắt tới những người còn lại. Phần nhiều những vật tế khác ngồi một mình như cừu lạc. Không ai nói lời nào với chúng tôi, Peeta và tôi ngồi ăn cùng nhau, và từ khi Haymitch dặn chúng tôi phải làm thế, hai đứa cố gắng nói chuyện thân mật suốt bữa ăn.
Tìm được đề tài để nói cũng không dễ. Nói chuyện về gia đình thì buồn lắm. Nói về hiện tại cũng không dễ chịu gì. Một hôm, Peeta đổ rổ bánh mì và chỉ cho tôi thấy người ta đã cẩn thận thu gom từng loại bánh mì của từng quận, cùng với thứ bánh mì thô của Capitol như thế nào. Ổ bánh hình con cá có màu xanh rong biển là của Quận 4. Ổ bánh hình trăng lưỡi liềm lấm tấm hạt là của Quận 11. Dù được làm từ cùng một nguyên liệu, nó trông vẫn thu hút hơn nhiều so với những chiếc bích quy thô kệch vẫn thường thấy ở quận chúng tôi.
“Và cậu hiểu rồi đấy,” Peeta nói, xúc bánh mì lại vào rổ.
“Cậu rõ là biết nhiều thứ,” tôi nói.
“Chỉ về bánh mì thôi,” cậu nói. “OK, bây giờ hãy cười như thể tớ vừa nói chuyện gì vui nhộn nhé.”
Chúng tôi cùng cười thật tự nhiên và bỏ qua những cái nhìn săm soi từ khắp phòng.
“Được rồi, giờ thì cậu nói còn tớ sẽ cười khoái chí,” Peeta nói.
Việc tỏ ra thân thiện theo lời Haymitch làm cả hai chúng tôi đều mệt mỏi. Kể từ lúc tôi đóng sập cánh cửa, đã có một bức tường lạnh lẽo ngăn cách cả hai. Có điều, chúng tôi phải làm theo lời căn dặn.
“Tớ đã kể cho cậu nghe về cái lần bị gấu rượt chưa nhỉ?” tôi hỏi.
“Chưa, nhưng nghe hấp dẫn đấy,” Peeta nói.
Tôi thử dùng nét mặt diễn tả lại tình huống khi ấy, một câu chuyện có thật. Lần ấy, tôi dại dột giành tổ ong với một con gấu đen. Peeta cũng cười và đặt câu hỏi rất tự nhiên. Cậu ấy giả bộ giỏi hơn tôi nhiều.
Vào ngày thứ hai, khi chúng tôi đang tập phóng lao, cậu thì thầm. “Tớ nghĩ là bọn mình có đuôi.”
Tôi phóng lao đi, cũng không cần phải ném quá xa dù thực sự tôi không tồi lắm về món này, và tôi thấy một cô gái nhỏ của Quận 11 đang đứng phía sau một chút nhìn bọn tôi. Con bé khoảng mười hai tuổi, cái tầm tuổi làm tôi nhớ đến Prim. Nhìn kỹ hơn thì nó giống mười tuổi hơn. Con bé có đôi mắt sáng, đen láy và làn da nâu mỏng như vải sa tanh. Nó đứng nhón chân, hai cánh tay hơi dang ra hai bên, như thể sẵn sàng bay vù đi ngay khi có một tiếng động nhỏ nhất. Tôi không thể không liên tưởng đến một con chim.
Tôi lấy một cây lao khác khi Peeta ném. “Tớ nghĩ tên con bé là Rue[14],” cậu nói khẽ.
Tôi bặm môi. Rue là tên một loài hoa nhỏ màu vàng mọc ở Đồng cỏ. Rue. Primrose[15]. Chẳng đứa nào qua được tầm ba mươi ký lô cả.
“Chúng ta làm gì với con bé đây?” Tôi hỏi, có vẻ hơn tàn nhẫn hơn những gì định nói.
“Không làm gì cả,” Peeta nói. “Cứ nói chuyện thôi.”
Bây giờ khi đã thấy con bé, tôi khó có thể không chú ý tới nó. Con bé lẻn đi và nhập hội với chúng tôi ở một lớp khác. Giống như tôi, nó rành rẽ về các loại cây cỏ, leo trèo nhanh nhẹn và ngắm rất tốt. Nó bắn trúng tất cả mục tiêu bằng một chiếc ná cao su. Nhưng liệu ná cao su có thể chống lại một thằng con trai nặng cả trăm ký với thanh kiếm trên tay?
Mỗi khi trở về tầng 12, chúng tôi lại bị Haymitch và Effie tra hỏi suốt buổi sáng và bữa tối về từng khắc trong ngày. Chúng tôi đã làm gì, bị ai quan sát và những đấu thủ khác thể hiện ra sao. Cinna và Portia không có ở đó, cũng có nghĩa là chẳng cón có người giữ hòa khí trong bữa ăn. Tuy nhiên, Haymitch và Effie không còn cãi nhau nữa. Thay vào đó họ có vẻ đồng thuận và quyết đưa chúng tôi vào khuôn khổ. Một mớ những căn dặn lê thê về những gì chúng tôi nên và không nên làm trong khi luyện tập. Peeta tỏ ra kiên nhẫn, nhưng tôi bắt đầu thấy bội thực và cáu tiết.
Khi chúng tôi cuối cùng cũng được giải thoát về phòng ngủ trong buổi tối thứ hai, Peeta lầm bầm. “Ai đó phải cho Haymitch uống gì đấy.”
Tôi khịt mũi nửa như muốn cười, nửa như muốn châm biếm. Rồi tôi chợt nhận ra. Thật sự tôi đã quá mệt mỏi trong việc xác định khi nào chúng tôi buộc phải là bạn và khi nào không. Ít nhất là khi vào Đấu trường, tôi biết chúng tôi là gì của nhau. “Thôi. Không giả bộ nữa khi không có ai ở xung quanh.”
“Được thôi, Katniss,” cậu uể oải. Sau đó, chúng tôi chỉ nói chuyện khi ở trước mặt mọi người.
Vào ngày luyện tập thứ ba, họ bắt đầu gọi chúng tôi sau bữa trưa để đến buổi gặp riêng với Ban Tổ chức. Từng quận một, nam đi trước rồi đến nữ. Như thường lệ, Quận 12 được xếp cuối cùng. Chúng tôi đứng ngồi không yên trong phòng ăn, chưa rõ phải đi đâu. Không một ai ra đi rồi trở lại. Khi căn phòng trống trải, áp lực phải tỏ ra thân thiện vơi đi. Vào lúc họ gọi Rue, trong phòng chỉ còn lại hai chúng tôi. Cả hai ngồi trong im lặng cho đến lúc tới lượt Peeta. Cậu đứng dậy.
“Hãy nhớ lời Haymitch, phải ném tạ dứt khoát.” Tôi bật ra trong vô thức.
“Cảm ơn, tớ sẽ làm thế,” cậu nói. “Cậu cũng… bắn cho thẳng vào nhé.”
Tôi gật đầu. Không hiểu sao tôi không nói gì cả. Mặc dù nếu có thua, tôi vẫn mong Peeta là người chiến thắng hơn những kẻ khác. Như thế sẽ tốt hơn cho quận chúng tôi, cho mẹ tôi và Prim.
Sau khoảng mười lăm phút, họ gọi tên tôi. Tôi vuốt lại tóc, ưỡn thẳng vai rồi bước vào phòng tập. Ngay lập tức, tôi biết là mình đã gặp bất lợi. Ban Tổ chức đã ở đó quá lâu. Họ ngồi suốt trong các màn thể hiện của hai mươi ba người khác. Hầu hết đã uống khá nhiều vang. Họ chỉ muốn về nhà.
Tôi không thể làm gì khác ngoài việc tiếp tục như kế hoạch. Tôi bước đến khu bắn cung. Chà, những cây cung! Tôi đã ngứa ngáy muốn cầm chúng trên tay từ mấy hôm nay rồi! Có cây làm bằng gỗ, có cây làm bằng chất dẻo, kim loại hay những thứ vật liệu mà tôi không biết là gì. Những mũi tên gắn lông chim được vót thẳng băng. Tôi chọn lấy một cây, thử dây và khoác ống đựng tên lên vai. Khoảng ngắm bắn quá gần. Tâm bắn ở giữa hình nhân. Tôi bước ra chính giữa phòng tập và nhắm vào mục tiêu đầu tiên. Hình nộm này được dùng cho bài phóng dao. Ngay khi giương cung tôi đã nhận ra có điều gì không ổn. Dây cung căng hơn so với cây cung tôi dùng ở nhà. Mũi tên chắc hơn. Tôi bắn trật hình nộm chỉ vài xăng ti mét nên hơn mất tập trung so với ban đầu. Trong vài giây tôi cảm thấy xấu hổ, nhưng rồi tôi tập trung trở lại vào tâm bắn ở giữa hình nhân. Tôi bắn thêm vài lần nữa cho đến khi có được cảm giác với thứ vũ khí mới.
Quay lại giữa phòng tập, tôi lấy lại tư thế ban đầu và bắn xuyên tâm hình nộm. Rồi tôi bắn đứt sợi thừng đang treo bao cát đấm bốc, cái bao rớt bịch xuống sàn tung tóe. Không dừng lại, tôi khom vai, quỳ gối và bắn vào chiếc bóng đèn đang treo trong phòng tập. Một chùm tia sáng lóa ra từ bóng đèn.
Một cú bắn tuyệt vời. Tôi quay sang Ban Tổ chức. Một số gật gù tán thưởng, nhưng phần đông chú tâm vào con heo quay vừa được bày trên bàn tiệc.
Đột nhiên tôi cảm thấy cáu tiết, khi những người đang phán xét số phận mình không có lấy một chút lịch sự nào. Rằng tôi còn không bằng một con heo bị làm thịt. Ngực tôi đập thình thịch, và tôi cảm thấy mặt mình đỏ ửng lên. Không nghĩ ngợi, tôi lấy một mũi tên ra khỏi bao và bắn thẳng đến bàn của Ban Tổ chức. Tôi nghe thấy những tiếng hô cảnh báo và mọi người giật lùi lại. Mũi tên xiên thẳng vào quả táo trong miệng con heo và cắm nó vào bức tường cạnh đó. Mọi người nhìn tôi ngỡ ngàng.
“Cảm ơn sự xem xét của các ngài,” tôi nói. Rồi tôi hơi cúi người chào và bước thẳng về phía cửa ra, không cần chờ đến lúc bị tống cổ.