Chương 34: Annabeth

KHI ANNABETH LỦNG LẲNG

trên

không, tay nọ tiếp tay kia lần xuống

trên

cái thang đung đưa dữ dội,



biết ơn Chiron vì bao năm huấn luyện leo trèo ở Trại Con Lai.



từng hay to tiếng phàn nàn rằng leo dây

sẽ

chả bao giờ giúp mình đánh bại được lấy

một

con quái vật nào cả. Chiron

đã

chỉ mỉm cười, như thể biết ngày này

sẽ

tới.

Cuối cùng Annabeth cũng xuống được tới đáy.



trượt khỏi rìa gạch và đáp xuống con rạch, nhưng nó hóa ra lại chỉ sâu có vài icnh. Nước lạnh cóng xộc vô giày của

cô.



giơ cao con dao phát sáng. Con rạch cạn chạy xuống giữa

một

đường hầm bằng gạch. Cứ vài thước lại có những ống nước bằng gốm nhô ra từ tường.



đoán chúng là ống thoát nước,

một

phần của hệ thống dẫn nước La Mã cổ đại, dù thế,



thấy

thật

tuyệt khi

một

đường hầm thế này còn tồn tại dày đặc dưới lòng đất với những đường ống, tầng hầm và cống rãnh trị giá hàng thế kỷ.

một

ý nghĩ đột ngột khiến



ớn lạnh hơn cả nước. Vài năm trước, Percy cùng



từng thực

hiện

một

nhiệm vụ ở mê cung Daedalus-một

mạng lưới ngầm các đường hầm và phòng ốc, mê hoặc mạnh mẽ và đầy cạm bẫy, chạy khắp dưới lòng tất cả các thành phố của Mỹ.

Khi Daedalus chết trong Trận chiến chốn Mê cung, toàn bộ mê cung

đã

sụp đổ – hoặc Annabeth tin thế. Những giả sử đó chỉ là ở Mỹ thôi

thì

sao? Gỉa như đây là phiên bản cổ hơn của mê cung

thì

sao? Daedalus từng bảo



là mê cung của ông ta có

một

cuộc sống riêng. Nó

không

ngừng thay đổi và phát triển. Có lẽ mê cung có thể tái tạo, như quái vật chẳng hạn. Có thể lắm. Đó là

một

thế lực nguyên thủy, như Chiron từng

nói

– những thứ

không

bao giờ có thể thực

sự

chết

đi.

Nếu đây là

một

phần của mê cung…

Annabeth quyết định nghĩ tới nó nữa, nhưng



quyết định

không

cho rằng hướng

đi

của mình là đúng. Mê cung khiến khoảng cách trở nên vô nghĩa. Nếu



không

cẩn thận,



có thể

đi

chệch hướng hai mươi bộ và thành ra tới Ba Lan.

Để an toàn,



buộc

một

cuộn dây mới vào phần cuối cái thang dây.



có thể gỡ nó ra sau khi tìm hiểu xong. Mánh cũ mà hay.



cân nhắc nên

đi

hướng nào. Đường hần trông hệt nhau về cả hai phía. Rồi, khoảng năm mươi bộ về phía trái

cô, dấu hiệu Athena lại bùng cháy

trên

bức tường. Annabeth thề là nó

đang

chằm chằm nhìn



bằng đôi mắt to rực lửa, kiểu bảo,



bị gì thế hả? Mau lên chứ!



bắt đầu thực

sự

ghét con cú.

Ngay khi



tới được chỗ đó, hình đấy mờ

đi

và cuộn dây đầu tiên

đã

hết.

Khi buộc thêm cuộn dây mới,



liếc về phía bên kia đường hầm. Có

một

phần đổ vỡ

trên

tường gạch, như thể có cái búa tạ

đã

dục

một

lỗ

trên

tường.



tiến tới nhìn cho kỹ. thò dao qua lỗ hổng cho sáng, Annabeth có thể thấy

một

căn phòng thấp hơn, dài và hẹp, sàn phòng đá khảm, bích họa và các băng ghế chạy xuống hai bên. Căn phòng tạo hình như

một

toa xe điện ngầm.



chui đầu vào lỗ, hi vọng

không

có cái gì cắn đứt đầu. Đầu phòng gần đấy là

một

cánh cửa giả. Đầu phòng phía xa có

một

cái bàn bằng đá, hay án thờ cũng nên.

Hmm…Đường hầm dẫn nước vẫn còn chạy tiếp, nhưng Annabeth chắc chắn đây là lối chuẩn.



nhớ Tiberinus

đã

nói: Tìm kiếm án thờ của vị thần ngoại quốc. Dường như

không

có bất kỳ lối nào khỏi phòng thờ, nhưng chỉ có

một

quãng ngắn tới chiếc ghế phía dưới.



có thể lại trèo lên được

không

vấn đề gì.

Vẫn giữ sợi dây,



hạ dần xuống.

Trần phòng hình thùng[1] với những mái vòm bằng gạch, nhưng Annabeth

không

thích hình dạng các cột chống. Ngay

trên

đầu

cô,

trên

mái vòm gần nhất với cánh cửa chắn gạch, tấm đá bị nứt làm đôi. Khe nứt căng lực chạy ngang trần phòng. Nơi này có lẽ

đã

giữ được nguyên vẹn tầm hai ngàn năm, nhưng



quyết định

không

muốn dành nhiều thời gian ở đây. Với vận may của

cô, nó

sẽ

sụp trong vòng hai phút mất.

Sàn nhà là

một

bức khảm hẹp dài với bảy bức tranh

một

hàng, như dòng thời gian. Ở ngay chân Annabeth là

một

con quạ. Canh đấy là con sư tử. Vài cái khác trông như những chiến binh La Mã với vũ khí đủ loại. Phần còn lại hư hại quá mức hoặc phủ bụi quá dày để Annabeth nhìn chi tiết cho được. Hai băng ghế hai bên rải rác các mảnh gốm vỡ. Các bức tường vẽ cảnh các bữa yến tiệc:

một

người đàn ông mặc áo chùng với

một

chiếc mũ vành cong như thìa xúc kem[2], ngồi cạnh là

một

gã to con hơn, người tỏa ra tia nắng. Ngồi quanh họ là những người cầm đuốc, người hầu và đủ loài động vật khác nhau như quạ, sư tử thẩn thơ làm nền. Annabeth

không

chắc bức tranh diễn tả cái gì, nhưng nó

không

gợi



nhớ tới bất kỳ truyền thuyết Hy Lạp nào mà



biết.

Đầu phía kia căn phòng, án thờ được chạm trổ công phu với bức phù điêu khắc

một

người đàn ông đội chiếc mũ-thìa-kem

đang

dí dao vô cổ bò mộng.

trên

án thờ đặt tượng người đàn ông bằng đá bị ngập trong đá tới tận gối,

một

con dao găm và

một

ngọn đuốc

trên

hai tay giương cao. Thêm lần nữa, Annabeth

không

biết những hình ảnh đó có ghĩa gì.



bước

một

bước về phía án thờ. Chân



đánh RẮC

một

tiếng.



nhìn xuống và nhận thấy mình

đã

xỏ giầy qua

một

khung xương sườn của con người.

Annabeth nuốt lại tiếng hét vô bụng. Cái đó từ đâu mà có?



mới nhìn xuống khoảnh khắc trước và có thấy cái xương nào đâu. Giờ

thì

sàn phòng rải đầy những sương là xương. Khung xương sườn chắc xưa lắm rồi. Nó tan thành tro bụi ngay khi



bỏ chân ra. Gần đó đặt

một

con dao găm bằng đồng rất giống con của

cô. Hoặc là vũ khí người chết mang theo, hoặc là vũ khí

đã

gϊếŧ chết người này.



giơ con dao của mình ra xa để thấy được phía trước. Xa hơn

một

chút dưới lối

đi

khảm đá,

một

bộ xương hoàn chỉnh hơn nằm dài

trên

phần còn lại của chiếc áo chẽn thêu màu đỏ, như

một

người thời kỳ phục hưng. Cổ áo xếp nếp và hộp sọ của

anh

ta bị cháy rất nặng, như thể

anh

chàng

đã

quyết định gội đầu bằng

một

cây đèn hàn.

Tuyệt, Annabeth nghĩ.



ngước mắt lên nhìn bức tượng

trên

bàn thờ

đang

cầm con dao và ngọn đuốc.

một

kiểu kiểm tra gì đó, Annabeth đoán định. Hai người này

đã

thất bại. Đính chính:

không

phải chỉ hai người. Còn nhiều xương và mảnh áo quần rải rác

trên

khắp lối

đi

đến án thờ.



không

thể đoán có bao nhiêu bộ xương

hiện

diện, nhưng



sẵn sàng cá rằng họ đều là á thần trước kia, con của Athena thực

hiện

cùng

một

nhiệm vụ.

“Tôi

sẽ

không

thành

một

bộ xương nữa

trên

sàn phòng của ông đâu,”



nói

với bức tượng, hi vọng tiếng mình nghe có vẻ dũng cảm.

một

con bé,

một

giọng nhạt nhẽo cất lên, vang vọng khắp phòng. Đàn bà con

gái

không

được chấp nhận.

một

nữ á thần, giọng thứ hai bảo.

không

thể tha thứ được.

Căn phòng rung ầm ầm. Bụi rơi xuống từ trần nhà bị nứt. Annabeth phóng về cái lỗ



đã

chui qua, nhưng nó

đã

biến mất. Dây của



bị cắt đứt.



trèo lên băng ghế và đập vô bức tường nơi từng có cái lỗ, mong rằng

sự

vắng mặt của nó chỉ là ảo ảnh, nhưng bức tường rất rắn.



bị bẫy.

Dọc những băng ghế,

một

tá các bóng ma lung linh

hiện

ra – những người đàn ông ánh tím mặc áo chùng La Mã, như các thần Lar



từng thấy ở trại Jupiter. Họ nhìn



chằm chằm như thể



phá đám cuộc họp của mình vậy.



làm điều duy nhất có thể.



bước xuống khỏi băng ghế và quay lưng lại lối vào bít gạch.



cố tỏ ra tự tin dù những bóng ma màu tím cau có và các bộ xương á thần dưới chân khiến



chỉ muốn rụt cổ vào trong chiếc áo phông của mình mà hét.

“Tôi là

một

đứa con của Athena,”



nói, mạnh dạn hết mức có thể.

“một

đứa Hy Lạp,”

một

trong những bóng ma ghê tởm

nói. “Còn tồi tệ hơn nữa.”

Ở đầu kia căn phòng,

một

bóng ma trông già nua khó nhọc đứng dậy (ma có bị viêm khớp

không

nhỉ?) và đứng cạnh án thờ, đôi mắt đen nhìn chăm chăm Annabeth. Ý nghĩ đầu tiên của



là trông ổng như Đức Giáo Hoàng. Ổng có áo choàng lấp lánh, mũ nhọn và cây trượng mục sư.

“Đây là hang động của Mithras,” bóng ma già

nói. “cô

đã

quấy rầy nghi lễ thiêng liêng của bọn ta.



không

thể biết được bí mật của chúng ta mà vẫn sống sót được.”

“Tôi đâu có muốn biết bí mật của các ông cơ chứ,” Annabeth trấn an ông ta. “Tôi

đang

lần theo Dấu hiệu Athena. Chỉ tôi lối ra và tôi

sẽ

tự

đi

đường mình.”

Giọng



bình tĩnh tới mức làm chính mình ngạc nhiên.



không

biết làm sao ra được khỏi đây nhưng



biết mình phải thành công ở nơi

anh

chị em mình

đã

thất bại. Con đường của



đã

dẫn

đi

xa hơn – sâu hơn vào các tầng đất dưới lòng Rome.

Những thất bại của các kẻ tiền nhiệm

sẽ

chỉ dẫn

cô. Sau đó…ta

không

biết.

Các bóng ma

thì

thầm với nhau bằng tiếng latin. Annabeth chộp được vài lời

không

hay về nữ á thần và Athena.

Cuối cùng, bóng ma đội mũ Giáo Hoàng gõ cây trượng mục sư của mình lên sàn phòng. Những thần Lar khác rơi vào im lặng.

“Nữ thần Hy Lạp của



bất lực ở đây,” giáo hoàng bảo. “Mithras là vị thần của các chiến binh La Mã! Ngài là vị thần của quân đoàn, vị thần của đế chế!”

“Ổng còn chả phải người La Mã nữa,” Annabeth phản đối. “Phải

không

hả, kiểu như người Ba Tư hay gì gì đó?”

“Phạm thánh!” lão già hét lên, đập cây gậy của mình lên sàn phòng vài lần nữa. “Mithras bảo vệ chúng ta! Ta là pater của hội huynh đệ này–”

“Người cha,” Annabeth dịch ra.

“Đừng có cắt ngang! Là pater, ta phải bảo vệ bí mật của chúng ta.”

“Bí mật nào?” Annabeth hỏi. “một

tá người chết mặc toga ngồi quanh cái động hở?”

Các bóng ma làm bầm với phàn nàn tới khi pater đưa họ về dưới

sự

kiểm soát bằng

một

tiếng huýt gọi taxi. Lão già có bộ phổi tốt

thật. “cô



một

kẻ vô tín. Như những tên khác,



phải chết.”

Những tên khác. Annabeth gắng

không

nhìn những bộ xương.

Tâm trí



làm việc điên cuồng, nắm bắt bất cứ điều gì



biết về Mithras. Ông ta có

một

giáo phái bí mật cho các chiến binh. Ông ta rất nổi tiếng trong quân đoàn. Ông ta là

một

vị thần, người

đã

thay thế Athena làm thần chiến tranh. Aphrodite

đã

nhắc tới ông ta trong bữa trà tán gẫu của họ ở Charleston. Ngoài ra, Annabeth chả biết gì nữa. Mithras

không

phải là

một

trong những vị thần họ

nói

tới ở Trại Con Lai.



nghi ngờ các bóng ma

sẽ

chẳng đợi



rút máy tính xách tay của Daedalus ra rồi tìm

một

phát đâu.



lướt nhìn sàn phòng khảm đá – bảy bức tranh

một

hàng.



nghiên cứu các bóng ma và nhận thấy tất cả đều đeo cùng

một

vài loại huy hiệu

trên

áo toga –

một

con quạ, ngọn đuốc hay cây cung.

“Các ông có các nghi lễ thông hành,”



buột miệng. “Bảy cấp bậc thành viên. Và cấp cao nhất là pater.”

Các bóng ma hít vô tập thể. Rồi họ bắt đầu la lớn cùng lúc.

“Làm sao



ta biết được?”

một

người gặng hỏi.

“Con nhóc

đã

soi ra bí mật của tụi ta!”

“Im lặng! vị pater ra lệnh.

“Nhưng



ta có thể biết về các thử thách!”

một

người khác thét.

“Các thử thách!” Annabeth bảo. “Tôi biết về chúng!”

một

màn há miệng hoài nghi nữa.

“Vớ va vớ vẩn!” Vị pater hắng lên. “Con nhóc

nói

dối! Con

gái

Athena, chọn cách chết

đi. Nếu



không

chọn, thần

sẽ

chọn cho

cô!”

“Lửa hoặc dao hả,” Annabeth đoán.

Cả vị pater trông cũng kinh hoàng. Chắc chắn lão ta

không

biết là có các nạn nhân bị trừng trị trước đây nằm dưới sàn.

“Làm – làm sao

cô…?” Lão nuốt khan. “cô

là ai?”

“một

đứa con của Athena,” Annabeth lại

nói. “Nhưng

không

phải

một

đứa bất kỳ. Tôi là…à, mater hội tỷ muội của tôi. Thực ra là Magna mater. Chẳng có gì là bí mật đối với tôi. Mithras chẳng che giấu được gì khỏi tầm mắt của tôi.”

“Magna mater!”

một

bóng ra rền rĩ tuyệt vọng. “Mẹ cả!”

“Gϊếŧ nó!”

một

trong những bóng ma tấn công, tay gã giơ ra bóp cổ



nhưng lại xuyên thẳng qua người

cô.

“Ông chết rồi,” Annabeth nhắc gã nhớ. “Ngồi xuống

đi

thôi.”

Bóng ma trông bối rối quay lại chỗ ngồi.

“Chúng ta

không

tự tay gϊếŧ

cô,” vị pater càu nhàu. “Mithras

sẽ

thay bọn ta làm điều đó!”

Bức tượng

trên

án thờ bắt đầu sáng lên.

Annabeth tì tay vào lối

đi

bít gạch sau lưng. Đó phải là lối ra. Vữa

đang

nát ra, nhưng

không

đủ yếu để



phá ra bằng sức mạnh tay chân.



tuyệt vọng nhìn quanh phòng – trần nhà nứt toác, sàn khảm, bích họa và án thờ chạm trổ.



bắt đầu

nói, giải trừ các suy diễn đặt lên mình.

“không

ích gì đâu,”



bảo. “Tôi biết tất. Các ông kiểm tra các đồng đạo nhập môn của mình bằng lửa bởi đuốc là biểu tượng của Mithras.

một

biểu tượng khác của ngài ấy là dao găm, đấy là lý do tại sao các ông lại có thể được kiểm tra bằng dao. Các ông muốn gϊếŧ tôi…a, như Mithras kết kiễu con bò thiêng chứ gì.”

Toàn là đoán cả, nhưng án thờ khắc hình Mithras gϊếŧ con bò mộng nên Annabeth phát

hiện

ra nó rất quan trọng. Các bóng ma rền rĩ và bịt tai lại.

một

số tự vả vô mặt như mới tỉnh giấc khỏi cơn ác mộng.

“Mẹ cả biết đấy!”

một

kẻ

nói. “không

thể nào!”

Trừ phi ông nhìn quanh phòng, Annabeth nghĩ, tự tin dâng lên.



chằm chằm nhòn bóng ma mới

nói. Ông ta đeo huy hiệu quạ

trên

toga – cùng biểu tượng với sàn phòng dưới chân

cô.

“Ông chỉ ở cấp quạ thôi,”



mắng. “Đấy là cấp thấp nhất. Im

đi

và để ta

nói

với patercủa ông.”

Bóng ma rùng mình. “Chao ôi! Chao ôi!”

Phía trước căn phòng, vị pater run lên – hoặc giận hoặc sợ, Annabeth

không

chắc là tại cái nào. Mũ giáo hoàng nghiêng về

một

bên như

một

máy đo khí giảm dần tới mức chân

không. “Qủa nhiên,



biết rất nhiều, mẹ cả à. Trí khôn của



rất tuyệt, nhưng đó là tất cả lý do tại sao



không

thể rời

đi

được. Người thợ dệt

đã

cảnh báo chúng tôi



sẽ

tới.”

“Người thợ dệt…” Annabeth cảm thấy nôn nao nhận ra điều vị pater

đang

nói: thứ trong bóng tối từ giấc mơ của Percy, kẻ canh giữ ngôi đền. Đây là lần duy nhất



mong sao mình đừng biết câu trả lời, nhưng



cố duy trì

sự

bình tĩnh. “Mụ thợ dệt sợ tôi. Bà ta

không

muốn tôi lần theo Dấu hiệu Athena. Nhưng các ông

sẽ

để tôi qua.”

“cô

phải chọn

một

thử thách!” vị pater khăng khắng. “Dao hay lửa! Sống sót qua

một

thử thách, và rồi, có khi được!”

Annabeth nhìn xuống những khúc xương của

anh

em mình. Những thất bại của các kẻ tiền nhiệm

sẽ

chỉ dẫn

cô.

Họ đều

đã

chọn cái này hoặc cái kia: lửa hay dao. Có lẽ họ

đã

nghĩ mình có thể vượt qua thử thách. Nhưng họ đều chết cả. Annabeth cần lựa chọn thứ ba.



nhìn bức tượng

trên

án thờ

đang

sáng hơn qua từng giây.



có thể cảm nhận sức nóng của nó từ bên kia phòng. Bản năng của



là tập trung vào con dao hoặc ngọn đuốc, nhưng thay vào đấy,



lại tập trung vào cơ sở bức tượng.



tự hỏi sao chân nó lại kẹt trong đá. Rồi ý nghĩ nảy ra trong

cô: có lẽ bức tượng

nhỏ

của Mithras

không

bịmắc kẹt trong đá. Có lẽ ông ta

đang

trồi lên từ đá.

“không

phải đuốc hay dao,” Annabeth chắc chắn

nói. “Có

một

bài kiểm tra thứ ba, bài mà tôi

sẽ

vượt qua.”

“một

bài kiểm tra thứ ba?” vị pater hỏi gặng.

“Mithras sinh ra từ đá,” Annabeth

nói, hy vọng mình đúng. “Ngài ấy sinh ra và lớn lên hoàn toàn từ đá, cầm trong tay đuốc và dao.”

Tiếng la hét và rền rĩ mách



biết mình

đã

đoán đúng.

“Mẹ cả biết tất!”

một

bóng ma thét lớn. “Đó là bí mật được bảo vệ chặt chẽ nhất của chúng ta!”

Rồi có khi các ông

không

nên đặt

một

bức tượng về nó ngay án thờ, Annabeth nghĩ. Nhưng



rất biết ơn những bóng ma nam ngu ngốc này. Nếu họ chấp nhận nữ chiến binh vào giáo phái, có khi lại học được chút tri thức thông dụng.

Annabeth đột ngột chỉ bức tường chỗ



vừa

đi

qua. “Tôi sinh ra từ đá, như Mithras vậy! Do đó, tôi

đã

vượt qua thử thách của các ông rồi!”

“Phì!” vị pater nhổ nước bọt. “cô

đến từ

một

cái lỗ

trên

tường!

không

giống nhau gì sất.”

Được thôi. Thế



ràng là vị pater này

không

đần hoàn toàn, nhưng Annabeth vẫn giữ tự tin.



ngước nhìn trần nhà,

một

ý tưởng khác đến với



– tất cả các chi tiết khớp vào nhau.

“Tôi từng điều khiển rất nhiều đá.”



giương tay lên. “Tôi

sẽ

chứng minh sức mạnh của mình vượt

trên

cả Mithras. Bằng

một

cú duy nhất, tôi

sẽ

đánh sập căn phòng này.”

Các bóng ma rền rĩ và run run nhìn lên trần nhà, nhưng Annabeth biết họ

không

thấy cái



thấy. những bóng ma này là chiến binh,

không

phải kỹ sư. Con cái Athena có rất nhiều kỹ năng và

không

chỉ trong chiến đấu mà thôi. Annabeth

đã

học kiến trúc trong nhiều năm.



biết căn phòng cổ này

trên

bờ đổ sập đến nơi.



nhận thấy những khe nứt căng lực

trên

trần rất tệ, tất cả bắt nguồn từ

một

điểm duy nhất – đỉnh vòm đá ngay phía

trên

mình. Phần đá đỉnh sắp sụp và khi điều đó xảu ra, nếu



có thể căn chuẩn thời gian…

“Bất khả thi!” vị pater hét. “Người thợ dệt trả chúng ta rất nhiều cống phẩm để tiêu diệt bất cứ đứa con nào của Athena dám vào điện thờ của chúng ta. Bọn ta chưa bao giờ khiến bà ấy thất vọng. Bọn ta

không

cho



qua được.”

“Các ông sợ sức mạnh của tôi!” Annabeth bảo. “Ông thừa nhận rằng tôi có thể hủy căn phòng thiêng liêng của các người!”

Vị pater cau mày. Lão khó khăn vuốt thẳng chiếc mũ của mình. Annabeth biết



đã

đặt lão vào

một

tình huống tiến thoái lưỡng nan. Lão

không

thể lùi bước mà

không

tỏ ra hèn nhát.

“Làm tệ hết sức

đi, con

gái

Athena,” lão quyết định. “không

một

kẻ nào có thể đánh sập hang động của Mithras, đặc biệt chỉ với

một

cú đập. Đặc biệt

không

phải là

một

con nhóc!”

Annabeth giơ cao con dao. Trần rất thấp.



có thể với tới viên đá đỉnh dễ dàng, nhưng



phải tính toán vừa

một

cú thôi.

Lối vào phái sau



đã

bị bít, nhưng theo lý thuyết, nếu căn phòng sụp, nếu căn phòng bắt đầu sập, những viên gach đó

sẽ

yếu

đi

và sụp đổ.



sẽ

có thể phá lấy đường ra trước khi toàn bộ trần nhà sụp xuống – giả như thế, tất nhiên là thế, có cái gì phía sau bức tường gạch,

không

chỉ là đất cứng; và giả như Annabeth phải đủ nhanh, mạnh và may mắn. Nếu

không,



sẽ

thành bánh kếp á thần[3].

“Này, các cậu trai,”



bảo. “Có vẻ các người

đã

chọn nhầm thần chiến tranh rồi.”



tấn công phần đỉnh. Lưỡi dao đồng Thiên Thai phá vỡ nó như

một

viên đường. trong khoảnh khắc, chả có gì xảy ra.

“Ha!” vị pater hả hê. “Thấy chưa? Athena chả có sức mạnh quái gì ở đây sất!”

Căn phòng rung lắc.

một

vết nứt chạy ngang chiều dài của trần phòng và phía bên kia hàng động sụp đổ, chôn vùi bàn thờ và cả vị pater. Các vết nứt rộng thêm. Gạch rơi xuống từ mái vòm. Các bóng ma la hét chạy loạn nhưng họ có vẻ như

không

xuyên qua được tường.



ràng họ bị ràng buộc với căn phòng này kể cả khi

đã

chết.

Annabeth quay

đi.



đập mạnh vô lối vào bị bít hết sức có thể và gạch rời ra. Khi hang động của Mithras nổ sập phía sau

cô,



lao vào bóng tối và thấy mình

đang

rơi.

[1] Có 2 loại như mình search ra, 1 loại ‘thùng đứng’ 1 loại ‘thùng ngang’, nhưng nếu

nói

căn phòng dài và hẹp

thì

chắc loại dài hẹp đúng hơn rồi

[2] nó cong thía lày

[3] bánh kếp làm bằng bơ, bột mì, trứng là chủ yếu

Tượng ai đó sinh ra từ đá, định để đầu bài nhưng hơi bất nhã cho xuống đây vậy