Chương 32: Percy 2

XÉT THEO NHIỀU MẶT KHÁC NHAU,

thì

việc lang thang quanh Rome với Annabeth có thể

đã

khá tuyệt vời. Họ nắm tay khi tìm đường qua những con phố quanh co, tránh ô tô và đám lái xe vespa điên cuồng, len lỏi qua từng đoàn khách du lịch và lội qua từng biển bồ câu. Ngày nóng lên nhanh chóng. Khi họ

đã

đi

xa khỏi đám khói xăng

trên

đường chính,

không

khí có mùi bánh mì nướng và hoa mới cắt.

Họ

đi

về phía Đại Hí Trường[1] vì đó là cột mốc dễ tìm nhất, nhưng đến được đấy hóa ra lại khó hơn Percy dự đoán. Nhìn từ

trên

cao, thành phố này

đã

lớn và lộn xộn rồi, nhưng ở

trên

mặt đất nó còn rối rắm và mênh mông hơn. Có vài lần, họ

đi

lạc vào các ngõ cụt. Họ vô tình tìm thấy mấy đài phun nước tuyệt đẹp và những bức tượng khổng lồ.

Annabeth bình phẩm về kiến trúc, nhưng Percy lại để mắt chú ý đến những thứ khác. Có

một

lần cậu phát

hiện

thấy

một

bóng ma màu tím phát sáng—một

Thần giữ nhà La Mã[2]—lườm họ từ cửa sổ

một

tòa chung cư.

một

lần khác, cậu thấy

một

người phụ nữ mặc áo chùng trắng—có lẽ là

một

thần nữ[3] hay

một

nữ thần—lăm lăm

một

con dao trông rất gớm ghiếc, lẩn khuất giữa đám cột đổ nát trong

một

công viên.

không

có thứ gì tấn công họ, nhưng Percy có càm giác như họ

đang

bị theo dõi, và những kẻ theo dõi họ chẳng thân thiện gì.

Cuối cùng

thì

họ cũng đến được khu hí trường, nơi hàng tá những gã mặc trang phục đấu sĩ

đang

ẩu đả với đám cảnh sát—kiếm nhựa đấu với dùi cui. Percy

không



vụ đó là sao, nhưng cậu với Annabeth quyết định

đi

tiếp. Có đôi khi người thường còn quái hơn cả đám quái vật. Họ

đi

về phía tây, cứ

một

chốc lại dừng lại hỏi đường

đi

tới con sông. Percy

đã

không

nghĩ tới vụ đó—duh— ở Ý người ta

nói

tiếng Ý, mà cậu

thì

không. Dù vậy, chuyện đó hóa ra lại

không

phải là vấn đề gì to tát. Vài lần hiếm hoi có người

đi

trên

phố

đi

về phía hai người và hỏi câu gì đó, Percy chỉ nhìn họ đầy hoang mang và họ đổi sang

nói

tiếng

anh.

Khám phá tiếp theo: người Ý dùng đồng Euro và Percy chả có đồng nào lọai đó. Cậu

đã

thấy tiếc hùi hụi vì việc này ngay khi cậu thấy

một

cửa hàng cho khách du lịch bán sô-đa. Lúc đấy

đã

sắp trưa rồi, trời cực kì nóng và Percy

đã

bắt đầu ước cậu có

một

cái tàu chiến đầy Coca ăn kiêng.

Annabeth

đã

xử lí vấn đề đó.



lục lọi cái ba lô, lôi cái máy tính xách tay của Daedalus ra, và nhập vào

một

vài lệnh.

một

cái thẻ bằng nhựa chui ra từ

một

cái khe bên cạnh.

Annabeth vung vẩy nó đầy thắng lợi. “Thẻ tín dụng quốc tế. Cho trường hợp khẩn cấp.”

Percy nhìn



kinh ngạc. “Cậu làm thế nào mà–? Mà thôi. Mình

không

muốn biết. Cứ tiếp tục tuyệt vời như vậy

đi.”

Mấy lon sô-đa có ích, nhưng đến lúc tới được dòng sông Tiber, họ vẫn thấy nóng và mệt. Bờ sông được bao bởi đường kè bằng đá.

một

đám lộn xộn những kho hàng, căn hộ, cửa hàng và quán cà phê mọc chen chúc nhìn ra mặt sông.

Con sông Tiber

thì

rộng lớn, uể oải và có màu caramen.

một

vài cây bách cao lớn rủ bóng xuống hai bên bờ sông. Cây cầu gần đấy nhất trông khá mới, nhưng ngay cạnh nó là

một

vòng cung đá đổ nát bị đứt đoạn ngay nửa đường nối hai bờ sông—đống phế tích đó hẳn phải được lưu lại từ thời Caesar.

“Nó đây.” Annabeth chỉ cây cầu đá cũ nát. “Mình nhận ra nó trong bản đồ. Nhưng bọn mình làm gì bây giờ?”

Percy mừng là



đã

nói

bọn mình. Cậu vẫn chưa muốn phải tách ra với

cô. Thực ra, cậu

không

chắc cậu có thể bắt mình làm vậy khi thời điểm đến. Những câu chữ của Gaea lại vọng lại trong đầu cậu: Ngươi

sẽ

đơn độc ngã xuống ư?

Cậu đăm chiêu nhìn dòng sông, tự hỏi làm cách nào họ mới bắt liên lạc được với Tiberinus. Cậu

không

thực

sự

muốn nhảy xuống sông lắm. Trông con sông Tiber này

không

sạch

sẽ

hơn bao nhiêu so với Sông Đông ở quê nhà, nơi cậu từng có quá nhiều lần chạm trán với đám tinh linh cáu kỉnh.

Cậu làm dấu ra hiệu về phía

một

quán cà phê gần đấy có bàn nhìn ra mặt sông. “Đến giờ ăn trưa rồi. Bọn mình thử cái thẻ tín dụng của cậu lần nữa

thì

sao nhỉ?”



đang

là giữa trưa, chỗ này vẫn vắng teo. Họ chọn

một

bàn ngoài trời bên bờ sông, và

một

người bồi bàn vội vàng

đi

tới. Trông

anh

ta hơi ngạc nhiên khi nhìn thấy hai người—đặc biệt là khi họ

nói

muốn ăn trưa.

“Người Mỹ hả?”

anh

ta hỏi, với

một

nụ cười đau khổ.

“Vâng.” Annabeth đáp.

“Và tôi muốn

một

cái pizza,” Percy

nói.

anh

chàng phục vụ trông như

đang

cố nuốt

một

đồng xu euro. “Tất nhiên là vậy rồi,signor. Và để tôi đoán nhé:

một

cốc Coca-Cola? Có đá?”

“Tuyệt,” Percy

nói. Cậu

không

hiểu tại sao

anh

chàng lại chìa bộ mặt chua chát ra với cậu như thế. Có phải cậu vừa gọi

một

cốc Coke xanh đâu chứ.

Annabeth gọi

một

cái bánh mì kẹp và nước có ga. Sau khi người bồi bàn rời

đi,



cười với Percy. “Mình nghĩ người Ý ăn muộn hơn nhiều. Họ

không

bỏ đá vào đồ uống. Và họ chỉ làm pizza cho khách du lịch.”

“Ồ.” Percy nhún vai. “Món ngon nhất trong những món Ý, và họ thậm chí

không

thèm ăn nó?”

“Mình

sẽ

không

nói

vậy trước mặt người bồi bàn đâu.”

Họ nắm tay nhau ngang qua bàn. Chỉ nhìn Annabeth trong ánh mặt trời, Percy

đã

thấy mãn nguyện. Ánh nắng luôn khiến



trông ấm áp và rực rỡ. Mắt



nhuộm màu của bầu trời và màu đá cuội lát đường, lần lượt thay đổi giữa hai màu nâu và xanh da trời.

Cậu tự hỏi liệu cậu có nên kể cho Annabeth nghe giấc mơ về Gaea phá hủy Trại Con Lai hay

không. Cậu quyết định

không

làm vậy.



không

cần thêm bất cứ điều gì để mà lo lắng nữa—không

phải với những gì



đang

phải đối mặt.

Nhưng nó khiến cậu tự hỏi…chuyện gì

sẽ

xảy ra nếu họ

không

dọa cho đám hải tặc của Chrysaor chạy mất? Percy và Annabeth có thể

đã

bị xích lại và đưa đến chỗ đám tay sai của Gaea. Máu của hai người

sẽ

đổ

trên

những khối đá cổ xưa. Percy đoán thế có nghĩa là Annabeth và cậu

sẽ

bị áp giải đến Hy Lạp làm vật hiến tế trong

một

lễ hiến tế lớn kinh khủng nào đó. Nhưng Annabeth và cậu

đã

từng cùng trải qua kha khá tình huống tồi tệ rồi. Có lẽ họ

sẽ

nghĩ được ra

một

kế hoạch tẩu thoát, lập chiến công…và Annabeth

sẽ

không

phải đương đầu với thử thách đơn độc ở Rome này.

Ngươi ngã xuống khi nào

không

quan trọng, Gaea

đã

nói

vậy.

Percy biết đấy là

một

điều ước tồi tệ, nhưng cậu gần như tiếc nuối là họ

đã

không

bị bắt

trên

biển. Ít nhất

thì

Annabeth và cậu

sẽ

có thể ở bên nhau.

“Cậu

không

nên thấy xấu hổ,” Annabeth

nói. “Cậu

đang

nghĩ đến Chrysaor, phải

không? Đao kiếm

không

thể giải quyết mọi vấn đề. Cuối cùng cậu cũng

đã

cứu được bọn mình đấy thôi.”

Bất chấp bản thân, Percy mỉm cười. “Cậu làm thế nào thế? Lúc nào cậu cũng biết mình

đang

nghĩ gì.”

“Mình hiểu cậu mà,”



nói.

Thế mà cậu vẫn thích mình á? Percy muốn hỏi vậy, nhưng cậu kìm lại.

“Percy,”



nói, “cậu

không

thể gánh hết gánh nặng của cả nhiệm vụ được. Chuyện đó là

không

thể. Thế cho nên bọn mình mới có tận bảy người. Và cậu

sẽ

phải để mình tự

đi

tìm bức tượng Athena Parthenos

một

mình.”

“Mình

đã

rất nhớ cậu,” cậu thú nhận. “Suốt nhiều tháng ròng.

một

mảnh lớn của đời bọn mình bị lấy mất. Nếu mình lại mất cậu lần nữa–”

Bữa trưa được mang đến. Người bồi bàn trông

đã

bình tĩnh hơn nhiều.

đã

chấp nhận thực tế rằng họ là những người Mỹ vô vọng, có vẻ như

anh

ta

đã

quyết định tha thứ cho họ và đối đãi lịch

sự

với họ.

“Cảnh đẹp lắm đấy,”

anh

ta

nói, hất đầu về phía dòng sông. “Mời hai người cứ tận hưởng.”

Khi

anh

ta

đã

rời

đi, họ ăn trong im lặng. Cái bánh pizza là

một

miếng hình vuông nhão nhão nhạt hoét chẳng có nhiều phô mai lắm. Có lẽ, Percy nghĩ, đấy chính là lí do vì sao người La Mã

không

ăn thứ này. Người La Mã tội nghiệp.

“Cậu phải tin mình,” Annabeth

nói. Percy suýt nữa

thì

nghĩ rằng



đang

nói

với miếng bánh sandwich, vì



không

nhìn vào mắt cậu. “Cậu phải tin rằng mình

sẽ

quay về.”

Cậu nuốt thêm

một

miếng bánh nữa. “Mình tin cậu. Đấy

không

phải là vấn đề. Nhưng quay về từ đâu chứ?”

Tiếng

một

chiếc Vespa cắt ngang hai người. Percy nhìn dọc bờ sông và

không

tin được vào mắt mình. Chiếc xe máy là

một

mẫu xe cổ: to và có màu xanh da trời nhạt. Người lái xe là

một

gã bận

một

bộ vest xám bóng bẩy. Ngồi đằng sau

anh

ta là

một



gái

choàng khăn trùm đầu, hai tay



ta vòng quanh eo người đàn ông. Họ lách qua mấy cái bàn cà phê, tà tà

đi

đến rồi đỗ lại bên cạnh Percy và Annabeth.

“Ồ, xin chào,” người đàn ông

nói. Giọng

anh

ta trầm, gần như khàn khàn, như giọng

một

diễn viên điện ảnh. Tóc

anh

ta ngắn và được vuốt keo ngược ra đằng sau khuôn mặt góc cạnh của

anh

ta.

anh

ta đẹp trai theo kiểu bố-trên-tv của những năm 50. Ngay cả quần áo của

anh

ta cũng có vẻ cổ điển. Khi

anh

ta xuống xe, cạp chiếc quần của

anh

ta cao hơn bình thường rất nhiều, nhưng bằng cách nào đó, trông

anh

ta vẫn nam tính và phong cách chứ

không

hề giống

một

tên đần. Percy

không

tài nào đoán nổi tuổi

anh

ta—có lẽ khoảng ba mươi mấy, dù cách ăn mặc và hành xử của

anh

ta có vẻ hơi giống ông nội.



gái

bước xuống xe. “Bọn ta

đã

có buổi sáng đáng

yêu

nhất trần đời,”



ta hụt hơi

nói.

Trông



gái

khoảng hai mươi mốt tuổi, cũng ăn mặc theo phong cách cổ điển. Chiếc váy in hoa cúc vạn thọ dài tới mắt cá chân và chiếc áo cánh trắng của



ta được bó vào với nhau bằng

một

chiếc thắt lưng da lớn, khiến



ta có vòng eo

nhỏ

nhất mà Percy từng thấy. Khi



ta tháo cái khăn trùm đầu ra, mái tóc đen ngắn bồng bềnh của



ta cuộn thành hình dáng hoàn hảo.



ta có đôi mắt sẫm màu tinh nghịch và

một

nụ cười chói lọi. Percy từng gặp những thần nữ còn ít giống

yêu

tinh hơn



gái

này.

Miếng sandwich của Annabeth rớt khỏi tay

cô. “Ôi, thánh thần ơi. Làm—làm thế nào…?”

Trông



có vẻ sững sờ đến mức Percy thấy cậu nên biết hai người này mới phải.

“Trông hai người đúng là quen

thật

đấy,” cậu quyết định. Cậu nghĩ cậu

đã

nhìn thấy họ

trên

ti vi. Trông có vẻ như họ diễn trong

một

chương trình cũ ngày trước, nhưng chuyện đó

không

thể nào đúng được. Họ

không

hề già

đi

tẹo nào. Dù vậy, cậu chỉ vào người đàn ông và đoán thử. “anh

có phải cái gã trong phim Những Kẻ Điên[4] đó

không?”

“Percy!” Annabeth trông có vẻ kinh hãi.

“Gì nào?” cậu vặc. “Mình có xem ti-vi mấy đâu.”

“Đấy là Gregory Peck đấy!” Mắt Annabeth mở lớn, và miệng



há hốc suốt. “Và…ôithánh thần ơi! Audrey Hepburn! Mình biết bộ phim này. Kỳ nghỉ ở Rome[5]. Nhưng bộ phim đấy có từ những năm 1950. Làm thế nào—?”

“Ồ, cưng à!”



gái

xoay

một

vòng như

một

tinh linh của

không

trung và ngồi xuống bàn của họ. “Ta e rằng em

đã

nhầm ta với người khác rồi! Tên ta là Rhea Silvia[6]. Ta là mẹ của Remus và Romulus, từ hàng ngàn năm trước kia. Nhưng em

thật

tốt bụng khi nghĩ rằng trông ta trẻ như thập niên 50. Còn đây là chồng ta…”

“Tiberinus,” Gregory Peck

nói, chìa tay ra với Percy

một

cách đầy nam tính. “Thần Sông Tiber.”

Percy bắt tay

anh

ta. Người đàn ông có mùi nước hoa cạo râu. Dĩ nhiên, nếu Percy mà là con sông Tiber,

thì

cậu cũng muốn át cái mùi

đi

bằng nước hoa

cô-lô-nhơ.

“Ơ, chào,” Percy

nói. “Lúc nào trông hai người cũng giống diễn viên điện ảnh Mỹ thế à?”

“Vậy sao?” Tiberinus nhíu mày và nghiên cứu quần áo của mình. “Thực ra

thì, ta cũng

không



nữa. Con đường du nhập của văn hóa phương Tây có hai chiều, cậu biết đấy. Rome tác động đến thế giới, nhưng thế giới cũng ảnh hưởng tới Rome. Đúng là dạo này văn hóa Mĩ có vẻ ảnh hưởng khá nhiều. Ta cũng hơi bị loạn trong vài thế kỉ qua.”

“Được rồi,” Percy

nói. “Nhưng…hai người đến đây để giúp ạ?”

“Các



thần nước[7] của ta

nói

với ta hai người ở đây.” Tiberinus đưa mắt nhìn sang Annabeth. “cô

có bản đồ rồi chứ,



gái

thân mến? Cả thư giới thiệu nữa?”

“Ờ…” Annabeth đưa cho

anh

ta lá thư và chiếc đĩa đồng.



nhìn chằm chằm vị thần sông chăm chú đến nỗi Percy bắt đầu cảm thấy ghen.

“Th-thế…”



lắp bắp, “ngài từng giúp những người con khác của Athena trong thử thách này ạ?”

“Ôi, cưng ơi!”



gái

xinh đẹp, Rhea Silvia, đặt tay lên vai Annabeth. “Tiberinus lúc nào cũng giúp ích ấy chứ.

anh

ấy

đã

cứu hai đứa con trai Romulus và Remus của ta, và mang hai đứa đến chỗ nữ thần sói Lupa. Sau đấy, khi lão vua Numen đó cố gϊếŧ ta, Tiberinus

đã

thương cảm cho ta và lấy ta làm vợ. Kể từ đấy ta

đã

cùng

anh

ấy cai trị vương quốc dưới sông.

anh

ấy

thì

chỉ mơ màng suốt thôi!”

“Cám ơn em, em

yêu,” Tiberinus

nói

với

một

nụ cười nhăn nhở, “Và, phải, Annabeth Chase ạ, ta từng giúp đỡ nhiều

anh

chị em khác của

cô…ít nhất là giúp họ bắt đầu hành trình của họ được an toàn.

thật

tiếc là sau đó họ lại phải chết đau đớn. Rồi, giấy tờ của



có vẻ hợp lệ. Chúng ta nên

đi

thôi. Dấu Hiệu Athena

đang

chờ ở phía trước!”

Percy nắm chặt tay Annabeth—có lẽ hơi chặt quá. “Tiberinus, để cho tôi

đi

với



ấy được

không. Chỉ

một

đoạn nữa thôi.”

Rhea Silvia cười ngọt ngào. “Nhưng

không

được đâu, cậu bé ngốc ạ. Em phải quay lại thuyền của các em và tập hợp các bạn khác của em lại. Đương đầu với bọn khổng lồ ấy! Đường

đi

sẽ

hiện

ra

trên

con dao của



bạn Piper của em. Annabeth có

một

con đường khác.



bé phải

đi

một

mình.”

“Đúng vậy,” Tiberinus

nói. “Annabeth phải

một

mình đối mặt với người canh gác điện thờ. Đó là cách duy nhất. Và Percy Jackson, cậu có ít thời gian hơn cậu thấy để giải cứu người bạn bị nhốt trong cái hạp của cậu. Cậu phải nhanh chân lên.”

Chỗ pizza Percy ăn có cảm giác như xi-măng cục trong dạ dày cậu. “Nhưng–”

“không

sao đâu, Percy.” Annabeth siết chặt tay cậu. “Mình cần phải làm chuyện này.”

Cậu mở miệng định lên tiếng. Vẻ mặt của



đã

ngăn cậu lại.



khϊếp sợ, nhưng vẫn cố gắng hết sức để che giấu nỗi sợ đó—vì cậu. Nếu cậu còn cố tranh cãi nữa, cậu

sẽ

chỉ khiến mọi chuyện khó khăn hơn với

cô. Hay tệ hơn, cậu có thể

sẽ

thuyết phục được



ở lại. Rồi



sẽ

phải sống với cái ý thức rằng



đã

lùi bước trước thử thách lớn nhất đời mình…giả như họ có sống sót, khi mà Rome sắp bị san bằng và Gaea sắp sửa trỗi dậy rồi phá hủy cả thế giới. Bức tượng Athena chứa đựng chiếc chìa khóa để đánh bại đám khổng lồ. Percy

không

biết tại sao hay làm thế nào, nhưng Annabeth là người duy nhất có thể tìm được nó.

“Cậu

nói

đúng,” cậu

nói. “Giữ mình an toàn nhé.”

Rhea cười khúc khích như thể đấy là

một

ý kiến lố bịch. “An toàn á?

không

có đâu! Nhưng cũng cần thiết.

đi

nào, Annabeth, cưng. Bọn ta

sẽ

chỉ cho em chỗ con đường của em bắt đầu. Sau đó, em chỉ còn có

một

mình thôi.”

Annabeth hôn Percy.



ngập ngừng, như

đang

tự hỏi còn gì để

nói

nữa

không. Rồi



khoác ba lô lên vai và leo lên yên sau chiếc xe máy.

Percy ghét chuyện này. Cậu thà đấu với bất kì con quái vật nào

trên

đời còn hơn. Cậu thà đấu với Chrysaor lần nữa. Nhưng cậu buộc mình ngồi yên

trên

ghế và nhìn Annabeth ngồi xe máy

đi

khuất

trên

những con phố của Rome, cùng với Gregory Peck và Audrey Hepburn.

[1] Coloseum: Đấu trường La Mã (hay Đại hý trường La Mã) được biết đến đầu tiên dưới cái tên Amphitheatrum Flavium theo tiếng Latinh hoặc Anfiteatro Flavio tiếng Ý, sau này gọi là Colosseum hay Colosseo, là

một

đấu trường lớn ở thành phố Rome. Công suất chứa lúc mới xây xong là 50.000 khán giả. Đấu trường được sử dụng cho các võ sĩ giác đấu thi đấu và trình diễn trước công chúng. Đấu trường được xây dựng khoảng năm 70 và 72 sau Công Nguyên dưới thời hoàng đế Vespasian. Đây là công trình lớn nhất được xây ở Đế chế La Mã được hoàn thành năm 80 sau Công Nguyên dưới thời Titus, với nhiều chỉnh sửa dưới thời hoàng đế Domitian.

[2] Lar: là thần bảo hộ trong tôn giáo La Mã. Họ có thể là

một

vị tổ tiên

anh

hùng hoặc

một

vị thần coi sóc mùa màng trong vùng lãmh thổ nào đó. Người ta tin rằng các thần Lar trông coi và điều khiển mọi việc xảy ra trong vùng lãnh thổ mà họ cai quản. Những bức tượng thần Lar thường được đặt

trên

bàn trong các bữa ăn.

sự

hiện

diện của họ là

không

thể thiếu trong các

sự

kiện lớn của gia đình La Mã.

[3] nymph: các nữ thần

nhỏ

gắn với

một

địa danh hay vùng đất cụ thể nào đó, thường có hình tượng là những



gái

xinh đẹp mang lại sức sống cho cỏ cây hay thiên nhiên của

một

vùng đất; khác với nữ thần-godess.

[4] Mad Men:

một

chương trình phim truyền hình dài tập, công chiếu lần đầu vào tháng 7 năm 2007,

trên

kênh AMC của Mỹ, được sản xuất bởi hãng Lionsgate Television. Phim lấy bối cảnh những năm 1960, trong

một

công ty quảng cáo

không



thật

tên là Stirling Cooper, sau là tập đoàn Stirling Cooper Draper Pryce,

trên

Đại lộ Madison. Trong phim

thì

“những kẻ điên” là cái tên xuất

hiện

vào thập niên 50, do chính những người làm quảng cáo

trên

Đại Lộ Madison tự đặt cho mình. Bộ phim

nói

về công việc và cuộc sống của Don Draper, giám đốc sáng tạo của Stirling Cooper và người bạn đồng sáng lập tập đoàn Stirling Cooper Draper Pryce của

anh

ta.

[5] Roman Holiday là

một

bộ phim hài lãng mạn năm 1953, được đạo diễn và sản xuất bởi William Wyler, biên kịch John Dighton và Dalton Trumbo. Bộ phim này

đã

giới thiệu hình ảnh của huyền thoại điện ảnh gốc Bỉ Audrey Hepburn (đến với khán giả Mỹ, và bà

đã

giành được Giải Oscar cho nữ diễn viên chính xuất sắc nhất cho vai diễn công chúa Ann trong phim này. Hai vai nam chính trong phim do Gregory Peck và Eddie Albert thủ vai.

[6] Rhea Silvia (cũng được viết là Rea Silvia), cũng được gọi là Ilia, là người mẹ huyền thoại của hai

anh

em sinh đôi Romulus và Remus, những người sáng lập ra thành phố Roma.

Theo truyền thuyết về thành Roma, vị vua Numitor

đã

bị người em trai của mình đoạt ngôi và con

gái

của ông là Rhea Silvia bị buộc trở thành trinh nữ để

không

thể sinh con. Nhưng Rhea Silvia lại mang thai với con của thần Mars. Khi hai đứa bé bị phát

hiện, công chúa bị giam vào tù và kết án tử hình, còn lũ trẻ

thì

bị bỏ trong giỏ trôi

trên

dòng sông Tiber. May mắn là 2

anh

em

đã

cập bờ sống sót và được

một

con sói cái (là nữ thần sói Lupa) cho bú cho đến khi chúng được

một

người chăn cừu cưu mang. Khi biết được câu chuyện quá khứ của mình, 2

anh

em

đã

gϊếŧ kẻ chiếm ngôi Amulus, khôi phục lại ngôi vị cho Numitor và trở lại nơi được con sói nuôi dưỡng để xây dựng

một

thành phố. Hình ảnh 2 đứa trẻ tя͢ầи ͙ȶя͢υồиɠ ngửa mặt bú sữa từ

một

con sói cái

đã

trở thành chủ đề xuyên suốt trong nghệ thuật La Mã, và các bức điêu khắc minh họa truyền thuyết này đều xuất

hiện

tại các bảo tàng trong khu vực.

[7] Nữ thần nước hay Naiads là

một

trong các thần nữ trong thần thoại Hy Lạp (tiếng Hy Lạp: Ναϊάδες là từ ghép giữa từ νάειν có nghĩa “dòng chảy”, và νᾶμα có nghĩa là “nước”) đây là vị thần thường ngự

trên

đài phun nước, giếng, khe và suối. Họ khác với các thần sông thường sống ở vùng nước tĩnh lặng của hồ đầm lầy, ao và đầm phá. Bản thể của Naiad giống hình thù của

một

con nhộng nước, vì vậy nếu cơ thể bị khô héo

thì

họ

sẽ

phải chết. Naiad phản ánh khát vọng của người Hy Lạp cổ về

sự

cần thiết của yếu tố nước. Các Naiad có thể trở nên khá nguy hiểm đối với những người bộ hành và những người

đi

lạc, những



Naiad

sẽ

xuất

hiện

và quyến rũ những khách bộ hành này.