HỌ ĐỨNG TRONG SÂN TRONG CỦA
một
KHU NHÀ KHÉP KÍN, như kiểu
một
tu viện. Những bức tường gạch đỏ được cây leo phủ kín. Những cây mộc lan mọc nứt cả gạch lát. Mặt trời chiếu ánh nắng chói chang và độ ẩm
thì
khoảng hai trăm phần trăm, thậm chí còn ẩm ướt hơn cả Houston. Từ đâu đó gần đấy, Leo ngửi thấy mùi cá
đang
rán.
trên
đầu, màn mây thấp và xám xịt, vằn vện như lông hổ.
Khoảnh sân lớn cỡ
một
sân bóng rổ.
một
quả bóng đá cũ xì hơi nằm lăn lóc
một
góc, dưới chân
một
bức tượng Đức Mẹ Đồng Trinh.
Dọc theo những tòa nhà, các cửa sổ đều mở. Leo có thể thấy thấp thoáng những cử động bên trong, nhưng mọi thứ lại im lặng
một
cách kì quái. Cậu
không
thấy dấu hiệu gì của máy điều hòa
không
khí, có nghĩa là bên trong chắc phải nóng đến cả nghìn độ.
“Bọn mình
đang
ở chỗ nào đây?” Cậu hỏi.
“Trường cũ của em,” Hazel đứng bên cạnh cậu
nói. “Học viện Thánh Agnes Cho Trẻ Em Da Màu Và Da Đỏ.”
“Tên kiểu gì–?”
Cậu quay sang Hazel và giật mình kêu lên.
cô
là
một
bóng ma–chỉ là
một
cái bóng mờ sương trong
không
khí ẩm thấp. Leo nhìn xuống và nhận ra thân thể của chính cậu cũng biến thành sương khói.
Mọi thứ chung quanh cậu đều có vẻ
rõ
nét và rất
thật, nhưng cậu lại là
một
linh hồn. Sau vụ bị eidolon nhập ba ngày trước, cậu
không
khoái cái cảm giác này tẹo nào.
Trước khi cậu kịp thắc mắc thêm,
một
hồi chuông vang lên từ bên trong:
không
phải tiếng chuông điện
hiện
đại, mà là
âm
thanh kiểu xưa của
một
chiếc búa gõ lên kim loại.
“Đây là
một
kí ức,” Hazel
nói, “vậy nên
sẽ
không
có ai trông thấy bọn mình cả. Nhìn kìa, bọn em đến rồi.”
“Bọn em á?”
Từ khắp các cánh cửa, từng tá từng tá học sinh ùa ra sân, hò hét và xô đẩy nhau. Hầu hết trong số chúng mang dòng máu Mĩ-Phi, với
một
nhúm rải rác những đứa trông như trẻ con Mĩ-Latin, bé bằng trẻ con mẫu giáo cũng có mà lớn cỡ học sinh cấp ba cũng có. Leo có thể nhận ra đây là quá khứ, vì tất cả đám con
gái
đều mặc váy và
đi
giày da cài khóa[1]. Đám con trai
thì
mặc áo sơ-mi trắng có cổ và quần tây có dây đeo. Nhiều đứa đội mũ lưỡi trai giống mũ của mấy tay đua ngựa[2]. Vài đứa mang theo đồ ăn trưa. Nhiều đứa khác
thì
không. Quần áo của bọn chúng sạch
sẽ, nhưng sờn rách và bạc màu. Vài đứa có chỗ rách ở quần chỗ đầu gối hay giày bị há mõm.
Vài đứa con
gái
bắt đầu chơi nhảy dây bằng
một
đoạn dây phơi quần áo. Mấy đứa lớn hơn
thì
chuyền qua chuyền lại
một
quả bóng chày cũ mèm. Những đứa mang đồ ăn trưa
thì
ngồi túm tụm vừa ăn vừa tán dóc.
Chẳng ai để ý thấy Ma Hazel hay Ma Leo.
Rồi Hazel – Hazel của quá khứ – xuống sân. Leo nhận ra
cô
chẳng khó khăn gì, dù trông
cô
trẻ hơn bây giờ khoảng hai tuổi. Tóc
cô
được kẹp lại thành
một
túm. Đôi mắt vàng của
cô
bồn chồn đảo quanh khoảnh sân.
cô
mặc
một
chiếc váy tối màu,
không
giống những đứa con
gái
khác mặc váy vải bông trắng hay màu nhạt in hoa, vì vậy
cô
nổi bật như
một
người khóc than giữa
một
đám cưới vậy.
cô
cầm
một
túi đựng đồ ăn trưa bằng vải bạt và
đi
men theo bức tường, như
đang
cố hết sức để
không
bị chú ý.
Cách đó
không
hiệu quả.
một
thằng con trai kêu lên, “Đồ phù thủy!” Nó ì ạch
đi
đến chỗ
cô, dồn
cô
vào
một
góc. Đứa con trai có lẽ mười bốn hay mười chín tuổi. Khó mà
nói
rõ
được vì nó cực kì đô con, dễ chừng là đứa to xác nhất trong sân. Leo nhận thấy nó
đã
bị cản lại mấy lần. Đứa con trai mặc
một
cái áo sơ mi bẩn thỉu có màu của
một
cái giẻ lau dầu máy, quần sợi len mòn xơ (với cái nóng như thế này
thì
chẳng dễ chịu gì), và chẳng giày tất gì sất. Có lẽ các giáo viên quá kinh hãi để mà bắt thằng này
đi
giày, hay có lẽ nó chẳng có đôi giày nào.
“Đấy là Rufus,” Ma Hazel
nói
đầy vẻ chán ghét.
“Nghiêm túc đó hả?
không
đời nào mà thằng đó lại tên là Rufus.” Leo
nói.
“đi
nào,” Ma Hazel
nói.
cô
lướt về phía cuộc đối đầu. Leo lướt theo. Cậu
không
quen lướt
đi, nhưng cậu từng
đi
xe Segway[3]
một
lần và nó cũng tương tự như vậy.
Thằng nhóc đô con Rufus có
một
khuôn mặt bèn bẹt, như thể nó dành phần lớn thời gian cắm mặt hôn vỉa hè. Tóc
trên
đỉnh đầu nó cũng được cắt bằng, đến nỗi máy bay mini có thể dùng chỏm đầu nó làm đường băng hạ cánh.
Rufus chìa tay ra. “Bữa trưa.”
Hazel trong quá khứ
không
nói
gì.
cô
đưa cái túi vải bạt ra như thể đó là chuyện cơm bữa hàng ngày.
Mấy đứa con
gái
lớn xúm đến xem trò vui.
một
đứa cười khúc khích với Rufus. “Mày
không
muốn ăn thứ đấy đâu,” con bé cảnh báo. “Dám có độc trong đó lắm.”
“Mày
nói
đúng,” Rufus
nói. “Con mẹ phù thủy của mày làm cái này hả, Levesque?”
“Mẹ
không
phải phù thủy,” Hazel lẩm bẩm.
Rufus ném cái túi xuống đất và dẫm lên nó, nghiền nát các thứ bên trong bằng bàn chân trần của nó. “Trả mày đấy. Nhưng tao muốn
một
viên kim cương. Tao nghe
nói
mẹ
yêu
của mày biến được ra mấy thứ đó từ
không
khí. Đưa tao
một
viên kim cương.”
“Tôi
không
có kim cương,” Hazel
nói. “Cút
đi.”
Rufus co tay lại thành nắm đấm. Leo
đã
ở nhiều trường học và nhà nhận nuôi khắc nghiệt đủ để nhận biết khi nào chuyện sắp thành ra tồi tệ. Cậu muốn bước tới và giúp Hazel, nhưng cậu là
một
bóng ma. Hơn nữa, tất cả những chuyện này
đã
xảy ra từ vài chục năm trước rồi.
Rồi
một
đứa khác loạng choạng bước ra dưới ánh mặt trời.
Leo hít sâu
một
hơi. Cậu nhóc đó trông y chang cậu.
“anh
thấy chưa?” Bóng Ma Hazel hỏi.
Leo Dỏm có chiều cao bằng Leo
thật
– có nghĩa là lùn. Cậu ta cũng có cùng kiểu năng lượng bồn chồn đó – gõ gõ ngón tay lên quần mình, phủi phủi áo sơ mi, chỉnh chỉnh cái mũ lưỡi trai kỵ sĩ
trên
mái tóc nâu xoăn xoăn của mình. (thật
tình, Leo nghĩ, người thấp bé
không
nên đội mũ cưỡi ngựa, trừ phi họ là tay đua ngựa.) Leo Dỏm có nụ cười tinh quái tương tự như nụ cười vẫn cười với Leo
thật
mỗi lần cậu nhìn vào gương —
một
vẻ mặt khiến các thầy
cô
giáo phải lập tức quát lên, “Đừng có hòng mà nghĩ đến chuyện đấy!” và xách cổ cậu lên hàng đầu.
Có vẻ như Leo Dỏm vừa bị
một
thầy
cô
nào đấy quở mắng. Cậu ta
đang
cầm
một
cái mũ lừa[4] –
một
cái mũ lừa hàng-thật-giá-thật
bằng bìa cứng có viết chữ ĐẦN ĐỘN
trên
mặt. Leo cứ tưởng mấy thứ này chỉ có trong hoạt hình thôi chứ.
Leo có thể hiểu tại sao Leo Dỏm
không
đội cái mũ đó. Trông giống
một
tay đua ngựa là
đã
đủ tệ lắm rồi. Cái mũ đó mà ngồi
trên
đầu cậu ta
thì
cậu ta
sẽ
trông như
một
thần lùn giữ của[5] mất.
Vài đứa lùi lại khi Leo Dỏm nhảy vào
hiện
trường. Những đứa khác
thì
huých nhau chạy về phía cậu ta như
đang
mong chờ
một
màn hay.
Trong lúc đó, Rufus Đầu Bẹt vẫn
đang
cố moi
một
viên kim cương từ Hazel, mù tịt về
sự
xuất
hiện
của Leo Dỏm.
“Nào,
cô
gái.” Rufus gườm gườm nhìn Hazel, nắm đấm siết chặt. “Đưa nó đây!”
Hazel nép sát vào bức tường phía sau. Đột nhiên mặt đất dưới chân
cô
kêu tạch
một
tiếng, như tiếng
một
nhánh cây gãy.
một
viên kim cương hoàn hảo to cỡ hạt dẻ cười lấp lánh nằm giữa hai bàn chân
cô.
“Ha!” Rufus rống lên khi nhìn thấy nó. Nó bắt đầu cúi xuống, nhưng Hazel kêu lên, “Làm ơn, đừng!” như thể
cô
đang
lo lắng cho thằng đần to xác.
Đó cũng là lúc Leo Dỏm nhởn nha
đi
tới.
Đến rồi đây, Leo nghĩ. Leo Dỏm
sẽ
tung ra mấy đòn nhu thuật[6] kiểu HLV Hedge và lập chiến công.
Thay vì vậy, Leo Dỏm đưa chóp của cái mũ lừa lên trước miệng mình như
một
cái loa và gào lên, “CẮT!”
Cậu ta
nói
câu đó với đầy quyền uy đến nỗi tất cả đám nhóc còn lại đứng hình trong giây lát. Ngay cả Rufus cũng đứng thẳng dậy và hoang mang lùi lại.
một
đứa con trai bé khúc khích cười thầm: “Hammy Sammy.”
Sammy… Leo rùng mình. Tên này là đứa quái quỷ nào vậy?
Sammy/Leo Dỏm lao tới chỗ Rufus với cái mũ lừa
trên
tay, vẻ mặt giận dữ. “không,
không,
không!” cậu ta phán, điên cuồng vẫy cái tay rảnh với những đứa khác
đang
xúm vào xem trò vui.
Sammy quay về phía Hazel. “Tiểu thư Lamarr, lời thoại của
cô
phải là…” Sammy bực dọc nhìn chung quanh. “Kịch bản đâu! Lời thoại của Hedy Lamarr là gì?”
“‘không, làm ơn, đồ xấu xa’”
một
đứa con trai đáp.
“Cám ơn!” Sammy
nói. “cô
Lamarr,
cô
phải
nói,
không, làm ơn, đồ xấu xa! Còn cậu, Clark Gable – “[7]
Cả sân chơi phá ra cười. Leo chỉ biết lơ mơ rằng Clark Gable là
một
diễn viên thời xưa, còn lại
thì
cậu mù tịt. Dù vậy, có vẻ như cái ý rưởng Rufus Đầu Bẹt có thể là Clark Gable là cực kì khôi hài với đám nhóc ở đây.
“Ngài Gable–”
“không!”
một
đứa con
gái
kêu lên. “Cho nó làm Gary Cooper[8]
đi!”
Thêm nhiều tiếng cười nữa. Rufus trông như thể
đang
sắp nổi khùng. Nó siết chặt nắm đấm như muốn đánh ai đó, nhưng nó
không
thể tấn công cả trường được.
rõ
ràng là nó ghét bị cười nhạo, nhưng đầu óc bé
nhỏ
chậm chạp của nó lại
không
thể ngộ ra Sammy
đang
định làm gì.
Leo gật đầu tán thưởng. Sammy đúng là rất giống cậu. Cậu
đã
làm những trò tương tự với đám ưa bắt nạt hàng nhiều năm trời.
“Rồi!” Sammy hống hách kêu lên. “Cậu Cooper, cậu
nói, Ồ, nhưng viên kim cương này là của tôi,
cô
em gian trá của tôi ạ! Rồi cậu hãy lượm lấy viên kim cương như thế này này!”
“Sammy, đừng!” Hazel kêu lên, nhưng Sammy
đã
lượm viên đá lên và nhét nó vào túi cậu ta bằng
một
cử động mượt mà.
Cậu xoay về phía Rufus. “Tôi muốn cảm xúc! Tôi muốn các nữ khán giả ngất xỉu! Các quý
cô, vừa rồi Ngài Cooper
đã
khiến các
cô
ngất xỉu chưa?”
“Chưa,” vài đứa con
gái
đáp lại.
“Đấy, cậu thấy chưa?” Sammy gào lên. “Nào, bắt đầu lại từ đầu!” cậu ta gào vào cái mũ lừa
trên
tay. “Diễn!”
Rufus vừa bước ra khỏi trạng thái mù mờ. Nó bước về phía Sammy và
nói, “Valdez, tao
sẽ
–”
Chuông kêu. Đám học sinh ùa về phía các cánh cửa. Sammy kéo Hazel tránh sang
một
bên trong khi những đứa bé – hành xử như thể bọn chúng có tên trong danh sách trả lương của Sammy – lùa Rufus
đi
cùng bọn chúng, khiến nó bị lôi vào trong bởi
một
cơn thủy triều toàn trẻ con mẫu giáo.
Chẳng mấy chốc, Sammy và Hazel chỉ còn lại
một
mình với nhau,
không
tính hai bóng ma.
Sammy lượm bữa trưa bẹp nát của Hazel lên, trình diễn động tác phủi bụi cho cái túi vải bạt của Hazel, rồi đưa nó cho
cô
với
một
cái cúi mình trịnh trọng, như thể đó là vương miện của
cô. “Tiểu thư Lamarr.”
Hazel trong quá khứ nhận lấy túi đồ ăn trưa bị hỏng của
cô. Trông
cô
giống như thể
cô
sắp khóc, nhưng Leo
không
đoán được đó là vì
nhẹ
nhõm hay khổ sở hay ngưỡng mộ. “Sammy…Rufus
sẽ
gϊếŧ cậu mất.”
“À, nó đủ khôn để mà
không
chọc tới mình.” Sammy thả cái mũ lừa lên
trên
cái mũ cưỡi ngựa của cậu ta. Cậu đứng thẳng và ưỡn tấm ngực gầy gò. Cái mũ lừa rớt xuống.
Hazel cười. “Trông cậu
thật
lố bịch.”
“Ồ, cảm ơn, Tiểu thư Lamarr.”
“Có gì đâu,
anh
chàng xảo trá của tôi.“
Nụ cười của Sammy nao núng.
không
khí trở nên trầm mặc
một
cách khó chịu. Hazel nìn chăm chăm xuống mặt đất. “Lẽ ra cậu
không
nên nhặt viên kim cương đó. Nó rất nguy hiểm.”
“A, thôi nào,” Sammy
nói. “không
phải với mình!”
Hazel thận trọng quan sát cậu ta, như thể
cô
muốn tin điều đó. “Những chuyện xấu có thể xảy ra. Cậu
không
nên–”
“Mình
sẽ
không
bán nó đâu,” Sammy
nói. “Mình hứa đấy! Mình
sẽ
chỉ giữ nó làm bằng chứng cho mùi vị (flavor) của cậu thôi!”
Hazel nặn ra
một
nụ cười. “Mình nghĩ ý cậu là
một
bằng chứng cho tình cảm quý mến(favor) của mình.“
“Đấy đấy! Bọn mình nên
đi
thôi. Đến giờ cho cảnh tiếp theo của chúng ta: Hedy Lamar suýt chết vì chán trong lớp học Tiếng
anh
rồi.”
Sammy đưa khuỷu tay ra như
một
quý ông lịch thiệp, nhưng Hazel tinh nghịch đẩy cậu ra. “Cảm ơn cậu vì
đã
ở đó, Sammy.”
“Tiểu thư Lamarr, tôi
sẽ
luôn ở bên
cô
khi
cô
cần!” cậu tươi tỉnh
nói. Hai người bọn họ chạy nhanh vào lớp.
Leo cảm thấy giống
một
hồn ma hơn bao giờ hết. Có lẽ cậu vẫn
đã
là
một
hồn ma eidolon suốt cả đời mình, bởi vì cậu nhóc cậu vừa thấy hẳn phải là Leo xịn. Cậu ta thông minh hơn, ngầu hơn và hài hước hơn. Cậu ta giỡn hớt với Hazel tài đến nỗi hiển nhiên cậu ta
đã
trộm được trái tim của
cô.
Chẳng trách Hazel lại nhìn Leo theo cách kì lạ như thế lúc họ mới gặp lần đầu. Chẳng trách mà
cô
lại gọi cái tên Sammy với nhiều cảm xúc đến vậy. Nhưng Leo
không
phải là Sammy, cũng y như Rufus Đầu Bẹt
không
phải là Clark Gable vậy.
“Hazel,” Cậu
nói. “anh
–
anh
không
— “
Sân trường nhòa
đi
thành
một
khung cảnh khác.
Hazel và Leo vẫn là những bóng ma, nhưng giờ họ lại đứng trước
một
ngôi nhà cũ nát bên
một
con mương mọc đầy cỏ dại.
một
bụi chuối mọc ủ rũ
trên
khoảng sân.
trên
bậc thang đặt
một
cái radio kiểu cổ
đang
phát nhạc conjunto[9], và
trên
hàng hiên râm mát, ngồi
trên
một
cái ghế bập bênh,
một
ông già gầy gò
đang
nhìn về phía chân trời.
“Bọn mình ở đâu thế này?” Hazel hỏi.
cô
vẫn
đang
ở thể hơi, nhưng giọng
nói
của
cô
đầy hoảng hốt. “Cái này
không
có trong cuộc đời em!”
Leo cảm thấy như thể bóng ma của mình
đang
chắc lại, trở nên
thật
hơn. Nơi này có vẻ quen thuộc
một
cách kỳ lạ.
“Chỗ này là Houston,” cậu nhận ra. “anh
biết khung cảnh này. Con mương đó…Đây là chỗ ở cũ của mẹ
anh, nơi mẹ lớn lên. Đằng kia là Sân bay Hobby.”
“Đây là kí ức của
anh
á?” Hazel
nói. “Em
không
hiểu! Làm thế nào–?”
“Em hỏi
anh
á?” Leo vặn lại.
Bỗng ông lão lẩm bẩm, “A, Hazel…”
Cảm giác sững sờ chạy dọc xương sống Leo. Đôi mắt của ông lão vẫn nhìn đăm đăm về phía chân trời. Sao ông lại biết họ ở đây được?
“Mình đoán chúng ta
đã
hết thời gian rồi,” ông lão mơ màng
nói
tiếp. “Chà…”
Ông
không
nói
nốt ý nghĩ đó ra.
Hazel và Leo đứng im như tượng. Ông lão
không
tỏ thêm dấu hiệu nào rằng ông nghe thấy hay nhìn thấy họ. Leo hiểu ra là ông lão chỉ
đang
nói
chuyện
một
mình. Vậy
thì
sao ông lại gọi tên Hazel?
Ông lão có làn da nhăn nheo, tóc xoăn bạc trắng và đôi bàn tay sần sùi, như thể ông
đã
dành cả đời làm việc trong
một
xưởng cơ khí. Ông mặc
một
cái áo sơ mi màu vàng nhạt, sạch
sẽ
không
một
vết bẩn với quần tây xám có quai đeo và giày đen được đánh kĩ.
Bất chấp tuổi tác, đôi mắt ông vẫn tinh tường và sáng trong. Ông ngồi với
một
phong thái nghiêm trang tĩnh lặng. Trông ông rất thanh thản–thậm chí là khoái chí, như thể ông
đang
nghĩ, Bố khỉ, mình sống lâu đến ngần này cơ á? Oách
thật!
Leo khá là chắc là mình chưa từng nhìn thấy ông lão này. Vậy mà sao ông lại có vẻ quen quen? Rồi cậu nhận ra ông lão
đang
gõ gõ ngón tay lên tay vịn chiếc ghế mà ông
đang
ngồi, nhưng
không
phải gõ linh tinh. Ông
đang
dùng mã Morse[10], hệt như cách mẹ Leo thường làm với cậu…và ông lão
đang
gõ
đi
gõ lại
một
thông điệp:
anh
yêu
em.
Cánh cửa chớp mở ra.
một
người phụ nữ trẻ bước ra.
cô
mặc quần jeans và
một
cái áo cánh màu xanh ngọc. Mái tóc đen của
cô
được cắt ngắn thành những lọn lỉa chỉa. Trông
cô
xinh xắn, nhưng
không
hề mong manh.
cô
có hai cánh tay rắn chắc và đôi bàn tay chai sạn. Cặp mắt nâu của
cô, giống như đôi mắt của ông lão, lấp lánh niềm vui thích. Trong tay
cô
ôm
một
đứa bé, được bọc trong
một
cái chăn màu xanh dương.
“Nhìn này, mijo[11],”
cô
nói
với đứa bé. “Đây là bisabuelo của con đấy. Bisabuelo, ông có muốn bế bé
không?”
Khi Leo nghe thấy giọng
nói
của người phụ nữ trẻ, cậu thổn thức.
Đó là mẹ cậu– trẻ hơn cậu nhớ, nhưng thực
sự
còn sống. Điều đó có nghĩa là đứa bé trong tay bà…
Ông lão nhe răng cười toe toét. Ông có những cái răng hoàn hảo, trắng tinh y như tóc ông vậy. Mặt ông đầy những nếp nhăn vì cười. “một
đứa bé trai! Mi bebito[12], Leo!”
“Leo?” Hazel
thì
thào. “Đấy– đấy là
anh? Bisabuelo là gì?”
Leo
không
thể tìm được giọng
nói
của mình. Là ông cố [13], Leo muốn trả lời như vậy.
Ông lão đón lấy bé Leo, cười khùng khục thích thú và cù cù cái cằm của thằng bé – và cuối cùng
thì
Bóng Ma Leo cũng nhận ra cái mà mình
đang
nhìn thấy.
Bằng cách nào đó, khả năng về thăm lại quá khứ của Hazel
đã
tìm được
sự
kiên duy nhất kết nối cuộc đời hai bọn họ – nơi dòng thời gian của Leo và Hazel gặp nhau.
Người đàn ông này…
“Ôi…” Hazel có vẻ như cũng nhận ra ông là ai cùng thời điểm đó. Giọng của
cô
trở nên lí nhí, chực bật khóc. “Ôi, Sammy,
không…”
“A, Leo bé bỏng,” Sammy Valdez,
đã
hơn bảy mươi tuổi,
nói. “Cháu
sẽ
là diễn viên đóng thế của ta, hử? Người ta gọi thế
thì
phải, ta nghĩ vậy.
nói
với
cô
ấy giùm ta. Ta hi vọng ta có thể sống tiếp, nhưng, ây, lời nguyền
không
cho ta làm vậy!”
Hazel nức nở. “Gaea…Gaea
nói
với em rằng cậu ấy chết vì đau tim, vào những năm 60. Nhưng đây
không
phải – đây
không
thể là…”
Sammy Valdez vẫn
không
ngừng
nói
chuyện với đứa bé, trong khi mẹ của Leo, Esperanza, nhìn họ với
một
nụ cười đau buồn – có lẽ là hơi lo lắng rằng bisabuelo của Leo
đang
lan man, hơi buồn vì ông
đang
nói
lẩn thẩn.
“Quý
cô
đó, Doña Callida,
đã
cảnh báo ta.” Sammy buồn bã lắc đầu. “cô
ta
nói
mối hiểm nguy lớn với Hazel
không
xảy đến lúc ta sống. Nhưng ta
đã
hứa ta
sẽ
ở bên
cô
ấy. Cháu phải
nói
với
cô
ấy rằng ta xin lỗi, Leo ạ. Hãy giúp
cô
ấy nếu cháu có thể.”
“Bisabuelo,” Esperanza
nói, “chắc ông mệt rồi.”
Bà giang tay ra định đón thằng bé, nhưng ông cụ ôm nó thêm
một
lúc nữa. Leo Bé có vẻ hoàn toàn ổn với điều đó.
“nói
với
cô
ấy là ta xin lỗi vì
đã
bán viên kim cương
đi, nhé?” Sammy
nói. “Ta
đã
thất hứa. Lúc
cô
ấy biến mất ở Alaska…à,
đã
lâu lắm rồi, cuối cùng ta cũng dùng viên kim cương đó, chuyển đến Texas như ta vẫn từng mơ. Ta mở xưởng cơ khí của ta. Tạo dựng gia đình của ta!
một
cuộc đời tốt đẹp, nhưng Hazel
đã
đúng. Viên kim cương mang
một
lời nguyền. Ta
không
bao giờ được trông thấy
cô
ấy nữa.”
“Ôi, Sammy,” Hazel
nói. “không, lời nguyền
không
phải thứ ngăn trở mình. Mình đãmuốn quay trở lại. Mình
đã
chết!”
Ông lão chẳng có vẻ gì là
đã
nghe thấy. Ông cười với đứa bé, và hôn đầu thằng bé. “Ta chúc phúc cho cháu, Leo. Chắt trai lớn! Ta có cảm giác cháu là đứa bé đặc biệt, giống như Hazel. Cháu còn hơn cả
một
đứa bé bình thường, nhỉ? Cháu
sẽ
bước tiếp thay ta. Cháu
sẽ
gặp
cô
ấy
một
ngày nào đó.
nói
xin chào với
cô
ấy hộ ta nhé.”
“Bisabuelo,” Esperanza
nói, hơi dứt khoát hơn.
“Ừ, ừ.” Sammy cười khùng khục. “El viejo loco[14] lảm nhảm suốt ngày. Ông mệt rồi, Esperanza. Cháu
nói
đúng. Nhưng ông
sẽ
nghỉ ngơi sớm thôi.
một
cuộc đời tốt đẹp. Hãy nuôi dạy thằng bé cho tốt, nieta[15].”
Khung cảnh mờ
đi.
Leo lại
đang
đứng
trên
boong tàu Argo III, nắm tay Hazel. Mặt trời
đã
lặn, và con tàu chỉ được thắp sáng bởi những l*иg đèn bằng đồng. Mắt Hazel sưng húp vì khóc.
Những gì họ
đã
thấy là quá nhiều. Đại dương nhấp nhô bên đưới họ và lúc này, lần đầu tiên trong đời Leo cảm thấy họ như
đang
hoàn toàn lênh đênh.
“Xin chào, Hazel Levesque.” cậu
nói, giọng khàn khàn.
Cằm
cô
run rẩy.
cô
quay
đi
và mở miệng muốn
nói
nhưng trước khi
cô
kịp làm vậy
thì
con tàu
đã
tròng trành nghiêng sang
một
bên.
“Leo!” HLV Hedge gào lên.
Festus kêu ù ù báo động và phun lửa vào bầu trời đêm. Chuông
trên
tàu rung lên.
“Đám quái vật mà trò lo
sẽ
đυ.ng phải ấy mà?” Hedge hét lên. “một
con trong đám đấy tìm thấy chúng ta rồi!”
[1] buckled leather shoes
[2] mũ lưỡi trai kỵ sĩ.
[3] Segway PT (viết tắt của Segway Personal Transporter – Xe cá nhân Segway), thường được gọi tắt là Segway là
một
phương tiện giao thông cá nhân có hai bánh, hoạt động
trên
cơ chế tự cân bằng do Dean Kamen phát minh. Loại xe này được sản xuất bởi công ty Segway Inc. ở bang New Hampshire, Hoa Kỳ. Từ “Segway” phát
âm
gần giống với “segue” (một
từ gốc tiếng Ý có nghĩa “di chuyển
nhẹ
nhàng”)
[4] dunce cone: mũ làm bằng giấy đội vào đầu những học sinh học dốt hoặc có những hành vi
không
tốt như
một
hình phạt.
[5] gnome: các bức tượng lùn thường để trước cửa hoặc trong vườn để giữ nhà giữ vườn
[6] jujitsu: Nhu Thuật (柔術; Jujitsu, Jiu-Jitsu) là
một
danh từ gọi chung cho nhiều môn phái võ thuật cổ truyền của người Nhật. Nhu Thuật xuất nguồn từ giai cấp võ sĩ samurai xưa ở Nhật Bản dùng tay
không
để tự vệ và chống cự lại đối thủ có võ trang hay
không
võ trang. Vì các samurai nhận thấy rằng phương pháp đấm đá của các bộ môn võ khác
không
có hiệu nghiệm khi chống lại địch thủ mặc áo giáp, họ phát minh ra phương pháp dùng quật ngã, đè, siết cổ, khóa tay, khóa chân,… để kháng cự địch thủ. Những phương pháp này
nói
chung là dựa
trên
lý thuyết dùng sức công của đối phương để kềm chế địch thủ, thay vì chống trả trực tiếp.
[7] Hedy Lamarr và Clark Gable: hai diễn viên chính trong phim Comrade X (1940), bộ phim từng được đề cử giải Hàn Lâm cho Kịch Bản Xuất Sắc Nhất.
[8] Gary Cooper: là
một
nam diễn viên điện ảnh Mỹ. Ông nổi tiếng với phong cách diễn
nhẹ
nhàng, trầm lặng và khả năng tự chủ, kiềm chế cảm xúc nên được coi là hình mẫu hoàn hảo cho thể loại phim câm, nhưng bên cạnh đó, ông vẫn có thể thể
hiện
cá tính mạnh mẽ như trong
một
số bộ phim miền Tây ông tham gia.
sự
nghiệp của Cooper kéo dài từ năm 1925 cho đến tận khi ông sắp qua đời, bao gồm hơn
một
trăm bộ phim.
[9] conjunto:
một
thể loại nhạc bắt nguồn từ phía Nam Texas từ cuối thế kỉ XIX, thường có đàn bajo sεメto (ghi-ta của Tây Ban Nha) và đàn accordion là nhạc cụ chính.
[10] Mã Morse hay mã Moóc-xơ, được phát minh vào năm 1835 bởi Samuel Morse, là
một
loại mã hóa ký tự dùng để truyền các thông tin điện báo. Mã Morse dùng
một
chuỗi
đã
được chuẩn hóa gồm các phần tử dài và ngắn để biểu diễn các chữ cái, chữ số, dấu chấm, và các kí tự đặc biệt của
một
thông điệp. Các phần từ ngắn và dài có thể được thể
hiện
bằng
âm
thanh, các dấu hay gạch, hoặc các xung, hoặc các kí hiệu tường được gọi là “chấm” và “gạch” hay “dot” và “dash” trong tiếng
anh.
[11] Tiếng Tây Ban Nha, ghép từ ‘mi’(của tôi) và ‘hijo’(con trai) thành ‘mijo’ là ‘con tai của tôi’
[12] Tiếng Tây Ban Nha, ‘mi bebito’ tương tự ‘my baby’ trong tiếng
anh, là ‘bé của tôi’
[13] Được dịch nguyên văn theo bản gốc. Thực ra từ Bisabuelo có nghĩa là ông thôi, còn từ tatarabuelo mới có nghĩa là ông cố.
không
biết tại sao lại có nhầm lẫm như vậy, có lẽ tại tác giả. Đây
không
phải lỗi của dịch giả
))))
[14] Tiếng Tây Ban Nha: ‘El viejo loco’ có nghĩa là ‘già rồi lẩm cẩm’
[15] Tiếng Tây Ban Nha: ‘nieta’ là ‘cháu
gái’