Chương 17: Annabeth
ANNABETH
đang
CỐ GẮNG LÀM HAZEL VUI LÊN, bằng cách giải trí với những khoảnh-khắc-óc-tảo-biển của Percy ngay khi Frank đột ngột xuất
hiện
ở đại sảnh và xộc vào khoang
cô.
“Leo đâu?” cậu thở hổn hển. “Nhanh lên! Nhanh lên!”
Cả hai
cô
gái
chạy
đi
thật
nhanh.
“Percy đâu?” Annabeth hỏi. “Cả thần rừng nữa?”
Frank vịn đầu gối, cố gắng để thở. Quần áo của cậu vừa cứng vừa ẩm ướt, giống như chúng vừa được tắm trong tinh bột nguyên chất. “Ở
trên
boong. Họ vẫn ổn. Nhưng chúng ta
đang
bị theo dõi.”
Annabeth vọt qua cậu và vội vàng chạy
một
mạch lên hết ba tầng cầu thang. Hazel thở hổn hển chạy theo sau
cô
và Frank. Percy với Hedge nằm
trên
boong, trông họ vô cùng mệt mỏi và kiệt sức. Đôi giày của Hedge
đã
mất. Ông
đang
nhìn lên trời nhe răng cười, trong miệng vẫn lẩm bẩm “Tuyệt vời.
thậttuyệt vời.”
trên
người Percy chi chít những vết cắt và vết xước, như thể cậu mới nhảy qua cửa sổ. Cậu
không
nói
gì, nhưng cậu nắm tay Annabeth yếu ớt như muốn
nói
Luôn ở bên cạnh cậu, ngay cả khi thế giới này ngừng quay.
Leo, Piper và Jason, những người
đang
dùng bữa ở đại sảnh, chạy vội lên cầu thang. “Chuyện gì? Có chuyện gì?” Leo kêu gào,
trên
tay cậu vẫn cầm
một
miếng sandwich phô mai nướng
đang
ăn dở. “Các cậu thậm chí
không
cho tớ
một
giờ nghỉ trưa sao?
đã
có chuyện gì vậy?”
“Bị theo dõi.” Frank hét lại.
“Bị theo dõi bởi
cái gì?” Jason hỏi.
“Tớ
không
biết.” Frank hổn hển
nói. “Cá voi? Quái vật biển? Có lẽ là Kate và Porky!”
Annabeth
thật
sự
muốn bóp cổ cậu trai này, nhưng
cô
vẫn
không
chắc bàn tay mình có thể vừa vặn với cái cổ dày cộm của cậu ta
không. “Việc đấy hoàn toàn vô nghĩa. Leo, tốt nhất cậu nên đưa chúng ta ra khỏi đây.”
Leo kẹp miếng sandwich giữa hai hàm răng, làm điệu bộ như
một
cướp biển và vận hành bánh lái.
không
lâu sau,
Argo II
đã
bay lên bầu trời. Annabeth giữ vị trí đuôi tàu.
cô
không
thấy bất cứ dấu hiệu nào của việc bị theo dõi bởi cá voi hay thứ gì khác, nhưng Percy, Frank và Hedge cũng bắt đầu hồi phục khi đường chân trời Atlanta chỉ còn là
một
vệt mờ ở phía xa xa.
“Charleston.” Percy
nói
khi
đi
khập khiễng quanh boong tàu như
một
ông lão. Cậu có vẻ run rẩy. “Hướng tới Charleston.”
“Charleston?” Jason nhắc lại cái tên kia như nó
đã
đem lại cho cậu những kí ức
không
vui. “Chính xác
thìcậu
đã
tìm thấy gì ở Atlanta?”
Frank mở ba lô và bắt đầu lấy ra mấy món quà lưu niệm. “một
ít mứt đào. Mấy cái áo thun.
một
quả cầu tuyết. Và, ừm, những cái khóa tay
không-thực-sự-là-khóa-tay-Trung-Quốc.”
Annabeth buộc mình phải giữ bình tĩnh. “Tại sao cậu
không
bắt đầu phần đầu của câu chuyện trước và để việc cái ba lô của cậu qua
một
bên?”
Họ tụ tập ở sân lái để Leo có thể nghe được cuộc trò chuyện khi
đang
lái. Percy và Frank lần lượt kể những chuyện
đã
xảy ra ở thủy cung Georgia, HLV Hedge đôi khi cũng xen vào: “thật
tuyệt vời!” hoặc “Sau đó tôi
đã
đá vào đầu
cô
ta!”
Ít nhất là huấn luyện viên dường như
đã
quên mất việc
cô
với Percy ngủ quên trong chuồng ngựa đêm hôm trước. Nhưng xét đến câu chuyện của Percy
thì
Annabeth có
một
vấn đề tồi tệ hơn để lo lắng thay vì chuyện bị cấm túc.
Khi Percy giải thích về những sinh vật biển bị giam cầm ở thủy cung,
cô
hiểu được tại sao cậu lại lo lắng đến thế.
“Điều đó
thật
khủng khϊếp.”
cô
nói. “Chúng ta cần giúp đỡ chúng.”
“Chúng ta
sẽ
làm,” Percy hứa. “Vào đúng thời điểm. Nhưng chúng ta phải tìm ra
cách. Tớ muốn…” Cậu lắc đầu. “Đừng bận tâm. Trước hết chúng ta phải đối phó với mớ tiền thưởng truy nã chúng ta.”
HLV Hedge có vẻ như
không
còn hứng thú với cuộc đối thoại – có lẽ vì nó
không
còn
nói
về ông – và lang thang đến mũi tàu, luyện tập mấy cú đá vòng cầu[1]
rồi tự khen ngợi kĩ thuật của mình.
Annabeth nắm chặt chuôi dao găm của mình. “Treo thưởng truy nã chúng ta sao…cứ như thể chúng ta
không
đủ thu hút quái vật vậy.”
“Chúng ta
sẽ
có áp phích truy nã sao?” Leo hỏi. “Và chúng có tiền thưởng cho chúng ta, như phân chia bảng giá?”
Hazel nhăn mũi. “anh
đang
nói
gì vậy?”
“Chỉ là tò mò
không
biết
anh
đáng giá bao nhiêu,” Leo
nói. “Ý tớ là, tớ hiểu mình
không
đáng giá như Percy hay Jason, có lẽ…nhưng
không
biết tớ có giá trị như hai Frank, hay ba Frank
không?”
“Này.” Frank phàn nàn.
“Thôi
đi,” Annabeth ra lệnh. “Ít nhất chúng ta biết bước tiếp theo là đến Charleston, để tìm bản đồ.”
Piper dựa vào tấm bảng điều khiển.
cô
tết tóc bằng lông vũ trắng hôm nay, nó trông thích hợp với mái tóc nâu sẫm của
cô. Annabeth tự hỏi
không
biết làm sao
cô
có thời gian để làm thứ đó. Annabeth chỉ có thể nhớ đến
chải tóc
mà thôi.
“Tấm bản đồ,” Piper
nói. “Nhưng bản đồ
gì?”
“Dấu hiệu Athena.” Percy cẩn thận nhìn Annabeth như thể cậu sợ mình
đi
quá giới hạn.
cô
trưng ra
mộtvẻ nặng nề
Tớ
không
muốn
nói
đến nó.
“Mặc kệ
nó là gì,” cậu tiếp tục. “Chúng ta biết nó dẫn đến
một
cái gì đó quan trọng ở Rome, cái mà có thể hàn gắn được
sự
rạn nứt giữa người La Mã và người Hy Lạp.”
“Tai ương của lũ khổng lồ.” Hazel thêm vào.
Percy gật đầu “Và trong giấc mơ của tớ, hai gã khổng lồ song sinh
đã
nói
điều gì đó về
một
bức tượng.”
“Ừm…” Frank lắc cái khóa tay
không-thực-sự-là-khóa-tay-Trung-Quốc giữa mấy ngón tay cậu. “Theo như lời Phorcys, chúng ta
sẽ
điên đầu để tìm nó. Nhưng nó
là
cái gì?”
Mọi người đều nhìn Annabeth. Da đầu của
cô
râm ran như thể những suy nghĩ trong đầu của
cô
đang
có khuynh hướng nhảy ra ngoài:
một
bức tượng…Athena…Hy Lạp và La Mã, cơn ác mộng của
cô
và cuộc tranh luận với mẹ
cô.
cô
đã
nhìn thấy các mảnh ghép được ghép lại với nhau như thế nào, nhưng
côkhông
thể tin nó lại là
thật. Câu trả lời quá lớn, quá quan trọng và
thật
đáng sợ.
cô
nhận thấy Jason
đang
quan sát mình như cậu biết
chính xác
những gì
cô
đang
nghĩ và cũng chẳng ưa thích nó.
cô
không
thể
không
tự hỏi:
Tại sao cậu luôn làm
cô
cảm thấy lo lắng? Liệu cậu có thực
sựđứng về phía
cô?
Hay đó chỉ là lời của mẹ
cô
nói…
“T-tớ sắp có câu trả lời,”
cô
nói. “Tớ
sẽ
biết nhiều hơn nếu chúng ta tìm thấy tấm bản đồ. Jason, cách cậu gọi tên
Charleston…cậu từng đến đó sao?”
Jason lo lắng liếc nhìn Piper, mặc dù Annabeth
không
chắc chắn tại sao. “Phải.” Cậu thừa nhận. “Reyna và tớ
đã
có
một
nhiệm vụ ở đó khoảng
một
năm trước. Chúng tớ
đã
thu hồi được vũ khí Vàng Hoàng Gia từ
C.S.S Hunley.”
“Cái gì?” Piper hỏi.
“Wow!” Leo
nói. “Đó là con tàu ngầm quân
sự
thành công đầu tiên. Từ cuộc Nội chiến. Tớ luôn muốn được nhìn thấy nó.”
“Nó được thiết kế bởi các á thần La Mã,” Jason
nói. “Nó cất giữ
một
ngư lôi bí mật bằng Vàng Hoàng Gia – cho đến khi bọn tớ tìm thấy chúng và đem về trại Jupiter.”
Hazel khoanh tay lại. “Vậy là người La Mã
đã
chiến đấu ở phe Liên Minh. Là
một
cô
gái
có bà ngoại nô ɭệ, em chỉ có thể
nói…chẳng hay ho gì cả
không?”
Jason đưa tay lên trước mặt, lật lòng bàn tay lên. “Bản thân
anh
cũng
không
hiểu
rõ
lắm. Nhưng
khôngphải
toàn bộ
người Hy Lạp và La Mã đều đứng về hai phe khác nhau. Nhưng, đúng vậy.
thật
không
hay ho gì. Đôi khi các á thần có lựa chọn sai lầm.” Cậu lúng túng nhìn Hazel. “Như chúng ta đôi khi cũng quá đa nghi. Và chúng ta
đã
nói
mà
không
suy nghĩ.”
Hazel nhìn cậu. Từ từ
cô
nhận ra cậu
đang
xin lỗi mình.
Jason huých khuỷu tay vào người Leo.
“Au.” Leo hét lên. “Ý tớ là, ừm…đúng…lựa chọn sai lầm. Như là khi
không
tin tưởng
anh
em của bạn bè, những người mà, các cậu biết đấy, cần được giải cứu. Giả sử là thế.”
Hazel bĩu môi. “Được thôi. Quay trở lại với Charleston.
anh
đã
nói
là chúng ta nên kiểm tra lại con tàu ngầm kia phải
không?”
Jason nhún vai. “À…anh
nghĩ chúng ta nên tìm kiếm hai địa điểm ở Charleston.
một
là ở bảo tàng, nơi họ giữ
Hunley__một
trong số chúng. Nó chứa rất nhiều tàn tích từ hồi Nội chiến. Bản đồ có thể được giấu ở
một
trong số đó. Tớ biết cách bố trí. Tớ có thể dẫn
một
nhóm vào bên trong.”
“Tớ
sẽ
đi,” Leo
nói. “Nghe có vẻ hay đấy.”
Jason gật đầu. Cậu quay sang nhìn Frank, người
đang
cố sức kéo mấy ngón tay của mình ra khỏi cái khóa tay Trung Quốc. “Cậu nên
đi
cùng, Frank. Chúng tớ cần cậu.”
Frank ngạc nhiên. “Tại sao? Có vẻ như tớ
đã
làm
không
tốt lắm khi ở thủy cung.”
“Cậu
đã
làm rất tốt.” Percy cam đoan với cậu. “Phải cần đến ba người chúng ta mới có thể đập vỡ tấm kính.”
“Hơn nữa, cậu là con trai thần Mars,” Jason
nói. “Hồn ma của những kẻ bại trận phải phục tùng cậu. Và bảo tàng ở Charleston có
vô số
hồn ma quân Liên Minh. Chúng tớ cần cậu để chế ngự chúng.”
Frank nuốt nước bọt. Annabeth nhớ đến lời kể của Percy về việc Frank hóa thành con cá vàng khổng lồ và
cô
cố gắng
không
bật cười.
cô
sẽ
không
bao giờ có thể nhìn
anh
chàng to con này mà
không
nhớ tới loài cá vàng.
“Thôi được.” Frank dịu lại.” Đồng ý.” Cậu cau mày nhìn vào mấy ngón tay của mình và cố gắng kéo chúng ra khỏi cái khóa tay. “Ừm, làm thế nào các cậu___?”
Leo cười khúc khích “Này cậu trai, chưa từng thấy chúng trước đây sao? Có
một
mẹo đơn giản để lấy nó ra.”
Frank kéo mạnh lần nữa nhưng
không
thành công. Thậm chí ngay cả Hazel cũng cố nhịn cười.
Frank nhăn mặt như
đang
cố gắng tập trung. Đột nhiên cậu biến mất.
trên
boong nơi cậu đứng,
mộtcon cự đà xanh[2]
cúi người bên cạnh những cái khóa tay Trung Quốc.
“Làm tốt lắm, Frank Trương,” Leo
nói
cộc lốc, rồi làm theo điệu bộ của bác Chiron. “Đó là cách người ta giải quyết cái khóa tay Trung Quốc. Họ biến thành những con cự đà.”
Mọi người đều bật cười. Frank hóa lại hình người, nhặt mấy cái khóa tay lên rồi nhét vào ba lô. Cậu nở nụ cười ngượng ngùng.
“Dù sao,” Frank
nói, lo lắng thay đổi chủ đề. “Bảo tàng là
một
nơi để tìm kiếm. Nhưng, ừm, Jason, cậu
nói
có tận hai chỗ cơ mà.”
Nụ cười Jason mờ
đi. Dù cậu
đang
nghĩ đến cái gì, Annabeth đều có thể
nói
rằng nó hoàn toàn
khônghay ho cho mấy.
“Phải,” Cậu
nói. “Nơi đó, vào lúc tớ đến…cùng Reyna…” Cậu liếc nhìn Piper, sau đó nhanh chóng
nóitiếp. “Bọn tớ
đã
nhìn thấy thứ gì đó trong công viên.
một
bóng ma hay là
một
dạng linh hồn, kiểu như
một
người phụ nữ miền Nam từ thời Nội chiến, phát sáng và trôi lềnh bềnh. Bọn tớ
đã
cố tiếp cận, nhưng nó biến mất mỗi khi bọn tớ đến gần. Sau đó Reyna có cảm giác –
cô
ấy
nói
cô
ấy nên thử
mộtmình. Có lẽ nó chỉ có thể trò chuyện với các
cô
gái.
cô
ấy
một
mình
đi
đến chổ linh hồn kia và đúng
thật, nó
đã
nói
chuyện với
cô
ấy.”
Mọi người đợi chờ.
“Nó
đã
nói
gì?” Annabeth hỏi.
“Reyna
không
kể tớ biết,” Jason thừa nhận. “Nhưng nó chắc hẳn rất quan trọng.
cô
ấy dường như…đãrun sợ. Có lẽ
cô
ấy nhận được
một
lời tiên tri hoặc tin xấu. Reyna
không
bao giờ tỏ ra như thế trước mặt tớ sau lần đó nữa.”
Annabeth cân nhắc. Sau những trải nghiệm của họ với các eidolon,
cô
không
thích ý nghĩ tiếp cận
mộtcon ma, đặc biệt là khi nó mang lại cho người ta tin xấu hay những lời tiên tri. Mặt khác, mẹ
cô
là nữ thần của tri thức và tri thức là
một
thứ vũ khí quyền lực nhất. Annabeth
không
thể từ chối các nguồn thông tin khả thi.
“Cuộc phiêu lưu của con
gái, sau đó,” Annabeth
nói. “Piper và Hazel có thể
đi
cùng tớ.”
Cả hai cùng gật đầu, mặc dù Hazel trông khá lo lắng.
không
nghi ngờ gì khi cuộc sống ở Địa ngục cho
cô
đủ những trải nghiệm về các hồn ma ở cả hai cuộc đời. Mắt Piper lóe lên bướng bỉnh, như mọi thứ Reyna có thể làm
thì
cô
cũng làm được.
Annabeth nhận ra sáu người trong số họ
đã
có mặt trong hai nhiệm vụ, nên điều đó có nghĩa là Percy
sẽphải ở lại
trên
tàu
một
mình với HLV Hedge, đó
không
phải việc mà
một
cô
bạn
gái
chu đáo nên làm.
côcũng
không
muốn phải rời tầm mắt khỏi Percy lần nữa__sau khi họ
đã
xa nhau hàng tháng trời. Mặt khác, Percy trông có vẻ rối bời sau khi thấy những sinh vật biển bị giam cầm,
cô
nghĩ có lẽ cậu nên nghỉ ngơi.
cô
bắt gặp ánh mắt cậu, im lặng hỏi cậu. Cậu gật đầu như muốn
nói,
Được mà. Mọi chuyện
sẽ
ổn thôi.
“Vậy, mọi chuyện
đã
ổn thỏa.” Annabeth quay sang Leo, người
đang
nghiên cứu giao điện điều khiển của mình, lắng nghe Fetus kêu cót két và nhấn vào hệ thống liên lạc. “Leo, còn bao lâu nữa
thì
chúng ta đến Charleston?”
“Câu hỏi hay đấy,” Leo
thì
thầm. “Fetus
đã
phát
hiện
ra
một
nhóm lớn đại bàng
đang
theo sau chúng ta – là loại có rada tầm xa, nhưng chúng ta vẫn chưa rơi vào tầm nhìn của chúng.”
Piper dựa vào bàn điều khiển. “Cậu có chắc đó là người La Mã
không?”
Leo đảo mắt. “không, Pipes. Chúng có thể là nhóm các con đại bàng khổng lồ tình cờ bay theo đội hình hoàn hảo. Ôi trời, dĩ nhiên đó là người La Mã! Tớ nghĩ chúng ta nên quay tàu lại và đánh nhau…”
“Đó là
một
ý tồi.” Jason
nói, “và
không
tháo gỡ được bất cứ nghi ngờ nào về việc chúng ta là kẻ thù của người La Mã.”
“Hoặc tớ có ýn khác,” Leo
nói. “Nếu chúng ta
đi
thẳng đến Charleston
thì
sẽ
mất vài tiếng đồng hồ. Nhưng đám đại bàng kia
sẽ
bắt kịp chúng ta và mọi chuyện
sẽ
trở nên rắc rối.
Thay vì vậy, chúng ta nên nhử mồi để bẫy chúng. Còn chúng ta
sẽ
đi
đường vòng đến Charleston và có lẽ đến đó vào sáng hôm sau__”
Hazel định kháng nghị, nhưng Leo
đã
giơ tay ngăn lại. “anh
biết.
anh
biết. Nico
đang
gặp nguy hiểm và chúng ta phải nhanh lên.”
“Hôm nay là ngày 27 tháng 6,” Hazel
nói. “Sau hôm nay
thì
còn bốn hôm nữa. Nó
sẽ
chết.”
“anh
biết! Nhưng chỉ có cách này để cắt đuôi bọn La Mã. Chúng ta vẫn còn đủ thời gian để đến Rome.”
Hazel giận dữ. “Khi
anh
nói
vẫn còn đủ…”
Leo nhún khinh thường. “Vậy chỉ còn
vừa đủ
thì
thế nào?”
Hazel úp tay lên mặt và đếm đến ba. “Nghe có vẻ chúng ta chỉ còn cách đó.”
Annabeth quyết định coi đó như mà
một
dấu hiệu đèn xanh. “Được rồi, Leo. Loại mồi nhử cậu
đang
nóiđến là gì?”
“Tớ rất vui khi cậu hỏi!” Cậu nhấn mấy cái nút
trên
bàn điều khiển, xoay bàn xoay và liên tục nhấn nút A
trên
cái điều khiển Wii. Cậu gọi qua hệ thống liên lạc, “Buford? Vui lòng báo cáo nhiệm vụ.”
Frank lùi
một
bước. “Còn có người khác
trên
thuyền sao? Buford là ai?”
một
làn hơi nước bắn ra từ cầu thang và bàn tự động của Leo trèo lên boong.
Annabeth
không
thấy Buford mấy trong suốt chuyến
đi. Nó hầu như toàn ở phòng động cơ. (Leo khẳng định Buford có
một
sự
say mê bí mật với động cơ.) Nó là
một
chiếc bàn ba chân với mặt bàn gỗ gụ. Chân đế đồng của cậu ta có nhiều ngăn kéo, bánh răng quay và
một
bộ các lỗ thông hơi. Buford
đangmang
một
cái túi như bao tải thư buộc vào
một
chân nó. Nó ồn ào vào khoang máy và tạo
âm
thanh như tiếng còi xe lửa.
“Đây là Buford,” Leo giới thiệu.
“Cậu đặt tên cho đồ gỗ sao?” Frank hỏi.
Leo khịt mũi. “Cậu trai, cậu chỉ
ước
có được món đồ gỗ tuyệt vời đến thế là cùng. Buford, cậu
đã
sẵn sàng cho Chiến dịch Bàn đèn[3]
chưa?”
Buford phụt hơi nước. Nó bước đến chỗ rào chắn. Mặt bàn gỗ gụ của nó chẻ thành bốn lát kéo dài ra thành các phiến gỗ. Các phiến gỗ quay và Buford cất cánh.
“một
bàn trực thăng,” Percy lẩm bẩm. “Phải thừa nhận nó
thật
tuyệt. Có gì trong túi đó?”
“Quần áo dơ của á thần,” Leo
nói. “Tớ hy vọng cậu
không
phiền, Frank.”
Frank nén giận. “Cái gì?”
“Nó
sẽ
ngăn lũ đại bàng đánh hơi thấy chúng ta.”
“Đó là mấy cái quần duy nhất của tớ còn lại đấy.”
Leo nhún vai. “Tớ
đã
bảo Buford giặt chúng và gấp lại khi cậu ấy
đi. Hy vọng cậu ấy
sẽ
làm thế.” Cậu xoa tay và nhe răng cười. “À! Tớ phải gọi hôm nay là
một
ngày tốt lành. Tớ
sẽ
tính toán lộ trình đường vòng của chúng ta. Gặp lại các cậu vào bữa tối!”
Percy
đã
rời
đi
sớm, để lại Annabeth với buổi chiều nhàn rỗi
không
có việc làm ngoại trừ nhìn chằm chằm vào máy tính của
cô.
Tất nhiên
cô
mang laptop của Daedalus bên mình. Hai năm trước,
cô
thừa kế cái máy từ nhà phát minh vĩ đại nhất mọi thời đại và nó có những ý tưởng phát minh, những sơ đồ và biểu đồ Annabeth
đang
cố gắng để tìm hiểu hết. Sau hai năm,
một
laptop thông thường
sẽ
xuống cấp, nhưng Annabeth phát
hiệnmáy tính của Daedalus vẫn còn thời hạn năm mươi năm trước khi xuống cấp. Nó có thể mở rộng ra thành
một
laptop với kích thước đầy đủ, thu
nhỏ
thành
một
máy tính bảng, hoặc gấp lại thành
mộtmiếng kim loại
nhỏ
hơn chiếc điện thoại di động. Nó hoạt động nhanh hơn bất cứ máy tính nào mà Annabeth
đã
từng có, có thể truy cập vào các vệ tinh hoặc chương trình phát sóng của Hephaetus-TV vệ tinh từ Đỉnh Olympus và chạy chương trình đặt-làm mà có thể làm từ bất cứ thứ gì ngoại trừ buộc dây giày. Có lẽ cũng có
một
ứng dụng cho việc đó, nhưng Annabeth vẫn chưa tìm ra.
cô
ngồi
trên
giường, sử dụng
một
trong những chương trình cấu hình 3-D của Daedalus để nghiên cứu mô hình đền Parthenon[4]
ở Athens.
cô
luôn khao khát được đến đó, cả Parthenon và Athens, bởi vì
côyêu
kiến trúc và bởi vì đó là đền thờ nổi tiếng nhất của mẹ
cô.
Bây giờ
cô
sắp thực
hiện
được điều đó, nếu họ còn sống tới khi đến Hy Lạp. Nhưng càng nghĩ đến dấu hiệu Athena và những truyền thuyết La Mã cổ xưa mà Reyna
đã
đề cập,
cô
càng thêm lo lắng.
cô
không
muốn, nhưng
cô
nhớ lại cuộc tranh luận với mẹ
cô. Thậm chí sau nhiều tuần, những lời ấy vẫn làm
cô
đau nhói.
Annabeth
đã
đi
tàu điện ngầm trở về từ Upper East Side sau khi thăm mẹ Percy. Trong những tháng dài đằng đẵng khi Percy mất tích, Annabeth
đã
đi
ít nhất
một
tuần
một
lần –
một
phần là để thông báo cho Sally Jackson và chồng của bà, Paul, về cuộc tìm kiếm và
một
phần bởi Annabeth với Sally cần nhau để cổ vũ tinh thần và thuyết phục người kia rằng Percy vẫn ổn.
Trải qua mùa xuân đặc biệt khó khăn. Lúc đó, Annabeth có lý do tin rằng Percy vẫn còn sống, từ kế hoạch của Hera dường như có liên quan đến việc gửi cậu đến trại La Mã, nhưng
cô
không
thể chắc cậu
đang
ở đâu. Jason ít nhiều vẫn nhớ đến trại cũ của cậu, nhưng tất cả những phép màu Hy Lạp – thậm chí ngay cả các trại viên nhà Hecate – cũng
không
thể khẳng định Percy
đang
ở bất cứ đâu. Cậu dường như biến mất khỏi hành tinh. Rachel, nhà tiên tri Oracle, cũng cố gắng đọc những điều về tương lai và khi
cô
không
thể thấy được nhiều điều,
cô
vẫn chắc rằng Leo cần phải hoàn thành
Argo IItrước khi họ liên lạc với người La Mã.
Tuy nhiên, Annabeth
đã
dành tất cả thời gian rảnh rỗi để tìm kiếm bất cứ tin tức nào về Percy.
cô
đãthử trò chuyện cùng các tinh linh tự nhiên, đọc các truyền thuyết về Rome, lần tìm các manh mối trong máy tính xách tay của Daedalus và tốn cả trăm đồng drachma cho thông điệp Iris đến các tinh linh thiện, á thần hoặc các quái vật mà
cô
đã
từng gặp, tất cả đều vô vọng.
Chiều hôm đó, khi trở về từ nhà Sally, Annabeth cảm thấy mệt mỏi hơn bình thường.
cô
và Sally
đãkhóc, sau đó cố gắng vực dậy tinh thần, nhưng các dây thần kinh của họ dường như sờn
đi. Cuối cùng Annabeth
đã
lên tàu điện ngầm Lexington Avenue
đi
xuống Grand Central.
Có
một
con đường khác để trở lại khu nội trú trường trung học của
cô
từ Upper East Side, nhưng Annabeth thích đến ga cuối Grand Central. Thiết kế tuyệt đẹp và
không
gian rộng thoáng đãng nhắc nhở
cô
nhớ đến đỉnh Olympus. Tòa nhà Grand làm
cô
cảm thấy tốt hơn_có lẽ vì ở
một
nơi cố định khiến
cô
ổn định hơn.
cô
đã
qua Kẹo Ngọt Mĩ, cửa hàng kẹo ngọt nơi mẹ Percy từng làm việc và nghĩ đến việc vào trong mua
một
ít kẹo màu xanh
thì
thấy Athena nghiên cứu bản đồ tàu điện ngầm
trên
tường.
“Mẹ!” Annabeth
không
thể tin được.
cô
chưa gặp mẹ mình cả tháng trời – kể từ khi Zeus đóng cửa Olympus và cấm tất việc liên lạc với các á thần.
Annabeth
đã
cố gắng liên lạc với mẹ mình rất nhiều lần bằng mọi cách, cầu xin chỉ dẫn, gửi
đi
các lời cầu nguyện trong mỗi bữa ăn ở trại. Nhưng
cô
không
nhận được hồi đáp. Giờ Athena
đã
ở đây, mặc quần jeans, giày leo núi và áo sơ mi caro màu đỏ, mái tóc đen của bà đổ xuống vai. Bà mang theo ba lô và
một
cây gậy cuốc bộ như
đã
chuẩn bị cho hành trình dài.
“Ta phải về nhà,” Athena lẩm bẩm, tiếp tục nghiên cứu bản đồ. “Đường xá
thật
rắc rối. Ta ước gì Odysseus ở đây. Có lẽ ông ấy
sẽ
hiểu.”
“Mẹ!” Annabeth gọi. “Athena!”
Nữ thần quay lại. Bà dường như
không
nhận ra
cô.
“Đó là tên ta,” nữ thần
nói
một
cách mơ màng. “Trước kia họ cướp thành phố của ta, lấy
đi
danh tính của ta, khiến ta thành ra
thế này.” Bà nhìn quần áo của mình
một
cách ghê tởm. “Ta phải về nhà.”
Annabeth bước lùi lại vì sốc. “Bà…bà là Minerva?”
“Đừng gọi ta như thế!” Đôi mắt xám của nữ thần lóe lên giận dữ. “Ta từng mang theo cây thương và tấm khiên. Ta nắm giữ chiến thắng trong lòng bàn tay. Ta
đã
làm được nhiều hơn thế.”
“Mẹ.” Giọng Annabeth run rẫy. “Là con, Annabeth.
Con
gái
của mẹ.”
“Con
gái
của ta…” Athena lặp lại. “Phải, con ta
sẽ
trả thù cho ta. Chúng
sẽ
phải hủy diệt La Mã. Khủng khϊếp, nhục nhã, hãy làm như tụi La Mã. Hera cho rằng chúng ta nên giữ hai trại ở xa nhau. Ta
nói,
không, để chúng đánh nhau. Để con cái của ta tiêu diệt những kẻ xâm lược.”
Nhịp tim của Annabeth đập vào tai
cô. “Người
muốn
thế? Nhưng người rất khôn ngoan. Người hiểu tác chiến tốt hơn bất cứ__”
“Từng là như thế!” Vị nữ thần
nói. “Bị thay thế. Bị tước đoạt. Bị cướp giật như
một
chiến lợi phẩm và bị mang đi__xa khỏi quê hương
yêu
dấu. Ta
đã
mất quá nhiều thứ. Ta thề
sẽ
không
bao giờ quên. Kể cả con cái của ta nữa.” Bà chú ý vào Annabeth. “Ngươi là con
gái
của ta?”
“Vâng.”
Nữ thần lấy thứ gì đó từ trong túi áo sơ mi –
một
huy hiệu lỗi mối của tàu điện ngầm – và ấn vào tay của Annabeth.
“Lần theo dấu hiệu Athena,” Vị nữ thần
nói. “Trả thù cho ta.”
Annabeth nhìn vào đồng xu. Ngay lúc đó, nó biến đổi từ huy hiệu tàu điện ngầm New York thành đồng bạc drachma cổ, loại mà người Athen
đã
từng sử dụng. Nó có hình
một
con cú, con vật linh thiêng của Athena, với hình cây ôliu
trên
một
mặt và dòng chữ Hy Lạp ở mặt bên kia.
Dấu hiệu Athena.
Vào lúc đó, Annabeth
không
hiễu ý nghĩa của nó.
cô
không
hiểu tại sao mẹ
cô
lại hành động như vậy. Như Minerva hay ai khác, bà
không
thể bối rối như vậy.
“Mẹ…”
cô
cố gắng khiến giọng của mình trở nên hợp lí nhất có thể. “Percy
đang
mất tích. Con cần
sựgiúp đỡ của mẹ.”
cô
bắt đầu giải thích kế hoạch Hera kết hợp hai trại để chiến đấu với Gaea và lũ khổng lồ, nhưng nữ thần chống cây gậy cuốc bộ lên nền đá cẩm thạch.
“không
bao giờ!” Bà
nói. “Bất kì ai giúp La Mã đều phải bị tiêu diệt. Nếu ngươi nhập bọn với chúng, ngươi
sẽ
không
phải là con ta. Ngươi
đã
làm ta thất vọng.”
“Mẹ!”
“Ta
không
quan tâm đến
Percy
này nọ gì hết. Nếu
hắn
đã
về phe người La Mã
thì
cứ để
hắn
bị tiêu diệt. Gϊếŧ
hắn. Gϊếŧ tất cả lũ La Mã. Tìm dấu hiệu, theo nó tìm tới tận nguồn căn. Chứng kiến người La Mã
đãlăng mạ ta như thế nào và hứa là phải báo thù cho ta.”
“Athena
không
phải là nữ thần báo thù.” Móng tay của Annabeth đâm vào lòng bàn tay. Đồng xu trong tay
cô
dường như ấm hơn. “Percy là tất cả với con.”
“Và trả thù là tất cả mọi thứ đối với ta,” Nữ thần tức giận. “Ai trong chúng ta khôn ngoan hơn?”
“Mẹ có điều gì
rất lạ. Chuyện gì
đã
xảy ra?”
“Rome có chuyện!” Nữ thần
nói
một
cách cay đắng. “Nhìn những gì chúng
đã
làm xem, tạo ra
một
ta người
La Mã. Chúng ước sao ta là thần của chúng? Rồi đây hãy bắt chúng nếm mùi đê tiện của chúng. Gϊếŧ chúng, con
gái.”
“không.”
“Thế
thì
ngươi
sẽ
không
còn là gì nữa.” Nữ thần quay nhìn bản đồ tàu điện ngầm. Biểu tình của bà mềm mỏng hơn và trở nên bối rối,
không
tập trung. “Nếu ta có thể tìm được lộ trình…đường về nhà, sau đó có lẽ__Nhưng,
không. Trả thù cho ta hoặc cứ mặc ta. Ngươi
không
còn là con ta nữa.”
Mắt của Annabeth đau nhức.
cô
đã
nghĩ hàng ngàn điều kinh khủng muốn
nói
nhưng
cô
không
thể.
côđã
quay người và chạy
đi.
cô
đã
cố vứt đồng bạc ấy
đi, nhưng nó lại xuất
hiện
trong túi của
cô, giống như thanh Thủy Triều của Percy.
không
may là đồng drachma của Annabeth
không
có sức mạnh phép thuật__hầu như vô dụng. Nó chỉ toàn làm
cô
mơ thấy ác mộng và kệ
cô
cố gắng thế nào cũng
không
thoát được khỏi nó.
Giờ đây, ngồi trong khoang mình
trên
tàu Argo II,
cô
có thể cảm nhận đồng xu trở nên nóng hơn trong túi.
cô
nhìn chằm chằm vào mô hình đền Parthenon
trên
màn hình vi tính và nghĩ đến cuộc cãi vã với Athena. Chuyện vài ngày trước xoáy vào đầu
cô:
một
người bạn tài giỏi sẵn sàng đợi
cô
tới.
không
ai tìm được bức tượng đó. Con
gái
của trí tuệ
đi
một
mình.
cô
lo sợ mình dường như
đã
hiểu được hết ý nghĩa của chúng.
cô
cầu nguyện các vị thần mong mình
đãsai.
Cái gõ cửa khiến
cô
giật mình.
cô
hy vọng người đó là Percy, nhưng thay vào đó Frank Trương thò đầu vô.
“Ừm, xin lỗi,” cậu
nói. “Mình có thể_?”
cô
có chút bất ngờ khi thấy cậu, phải mất
một
lúc sau
cô
mới nhận ra cậu muốn
đi
vào.
“Chắc rồi,”
cô
nói. “Cậu vào
đi.”
Cậu bước vào trong, nhìn xung quanh khoang. Chẳng có gì nhiều để xem.
trên
cái bàn đặt cạnh đống sách,
một
tờ báo,
một
cây viết và
một
tấm ảnh bố
cô
đang
bay với chiếc máy bay hai tầng Sopwith Camel, cười toe toét và giơ thẳng ngón cái. Annabeth thích tấm ảnh đó. Nó gợi nhớ đến quãng thời gian
cô
cảm thấy gần gũi ông nhất, khi ông tấn công đội quân quái vật với súng máy bắn đạn Đồng Thiên Thai chỉ để bảo vệ cô__món quà tốt đẹp nhất mà
một
đứa con
gái
mong đợi.
Treo
trên
tường là chiếc mũ lưỡi trai New York Yankees của
cô,
một
món quà từ mẹ
cô. Nó có khả năng khiến người đội trở nên vô hình. Từ sau cuộc cãi vã giữa
cô
và Athena, cái mũ mất
đi
phép màu của nó. Annabeth
không
chắc tại sao, nhưng
cô
vẫn luôn mang nó theo trong nhiệm vụ. Mỗi buổi sáng
cô
đều cố thử, hy vọng nó trở lại như cũ. Nhưng nó chỉ làm
cô
nhớ đến cơn thịnh nộ của mẹ mình mà thôi.
Thêm nữa, khoang của
cô
không
cầu kì.
cô
chỉ giữ cố sạch
sẽ
và đơn giản để giúp
cô
suy nghĩ tốt hơn. Percy
không
tin điều đó vì
cô
luôn làm mọi thứ hoàn hảo, nhưng như hầu hết các á thần,
cô
mắc chứng ADHD. Khi mọi thứ quá rối mắt trong
không
gian cá nhân,
cô
chẳng bao giờ có thể tập trung.
“Vậy…Frank,”
cô
hỏi. “Tớ có thể giúp gì cho cậu?”
Trong số những người
trên
tàu, Frank là người mà
cô
chả mấy nghĩ tới là có khả năng
sẽ
tìm gặp
cô.
côkhông
cảm thấy ít bối rối hơn khi cậu đỏ mặt và lôi cái khóa tay ra khỏi túi.
“Tớ
không
thích phải mù mờ về nó như thế này,” cậu
nói
khẽ. “Cậu có thể chỉ cho tớ cái mẹo
không? Tớ cảm thấy
không
thoải mái khi hỏi người khác.”
Annabeth xử lý lời
nói
của cậu
một
cách chậm chạp. Chờ
đã…Frank
đang
nhờ
cô
giúp đỡ? Sau đó mọi chuyện dường như sáng tỏ: dĩ nhiên, Frank
đang
xấu hổ. Leo
đã
chọc cậu khá đau.
không
ai thích bị biến thành trò cười. Biểu
hiện
của Frank như muốn
nói
cậu
không
bao giờ muốn chuyện đó xảy ra lần nữa. Cậu muốn biết cách giải quyết, mà
không
cần đến giải pháp con cự đà.
Annabeth cảm thấy
một
chút kính phục. Frank tin
cô
không
biến cậu thành trò hề. Hơn thế nữa,
cô
sẽchỉ dẫn cho tất cả những ai muốn tìm hiểu kiến thức – thậm chí những thứ đơn giản như khóa tay Trung Quốc.
cô
vỗ
nhẹ
lên chiếc giường cạnh mình. “Tất nhiên rồi. Ngồi
đi.”
Frank ngồi ngay sát mép nệm, như chuẩn bị cho cuộc đào thoát chóng vánh. Annabeth cầm lấy cái khóa tay và đặt chúng cạnh máy tính mình.
cô
đánh dãy kí tự mệnh lệnh việc quyét bằng tia hồng ngoại. Lát sau,
một
mô hình 3-D về khóa tay Trung Quốc xuất
hiện
trên
màn hình.
cô
dịch chuyển laptop để Frank có thể nhìn thấy.
“Cậu làm thế nào vậy?” Cậu ngạc nhiên.
“Công nghệ Hy Lạp tiên tiến cổ xưa,”
cô
nói. “Được rồi, nhìn này. Cấu trúc là
một
bím hai trục hình trụ, vì thế nó có khả năng đàn hồi xuất sắc.”
cô
thao tác hình ảnh để nó ép vào trong rồi dãn ra ngoài như cây đàn xếp. “Khi cậu cho các ngón tay của cậu vào trong, nó
sẽ
lơi lỏng ra. Nhưng khi cậu cố rút ra, chu vi của nó
sẽ
co lại như cái bím bện lại và thắt chặt.
sẽ
không
có cách nào tháo ra nếu cứ vật lộn với nó.”
Frank ngây ngô nhìn chằm chằm vào
cô. “Nhưng tháo ra thế nào?”
“À…”
cô
cho cậu thấy
một
vài phép toán – làm sao cái khóa tay có thể chịu đựng được
một
lực mạnh thế được hả, là do chất liệu được sử dụng trong các mối bện. “Khá tuyệt cho
một
cấu trúc dệt đúng
không? Các bác sĩ dùng nó trong phương pháp kéo giãn chân tay và co cơ điện_”
“Ừ, nhưng mà tháo ra?”
Annabeth cười. “Cậu
không
thể chiến đấu
chống lại
cái khóa tay. Cậu chỉ cần nhấn ngón tay vào trong,
không
phải ra ngoài. Các mối bện
sẽ
lỏng ra.”
“Ồ.” Frank làm thử. Thành công. “Cám ơn, nhưng…cậu có thể chỉ cho tớ về cái khóa tay mà
không
cần chương trình 3-D và các phép toán
không?”
Annabeth do dự. Đôi khí
sự
khôn ngoan đến từ những thứ khác lạ, thậm chí đến từ cậu thiếu niên cá vàng khổng lồ này. “Tớ nghĩ là cậu đúng. Ngốc
thật. Tớ cũng
sẽ
học theo.”
Frank thử mở cái khóa tay
một
lần nữa. “thật
dễ khi cậu biết cách giải quyết.”
“Hầu hết các loại bẫy tốt nhất đều khá đơn giản,” Annabeth
nói. “Cậu chỉ cần suy nghĩ về nó và mong các nạn nhân của cậu
thì
không.”
Frank gật đầu. Cậu dường như
không
có ý định rời
đi.
“Cậu biết
không,” Annabeth
nói, “Leo
không
cố ý cợt nhả thế đâu. Cậu ấy chỉ hơi to mồm thôi. Khi có người làm cậu ấy lo, cậu ấy sử dụng khiếu hài hước như
một
kiểu phòng vệ.”
Frank nhíu mày. “Tại sao tớ lại làm cậu ấy lo lắng?”
“Cậu to gấp đôi cậu ấy. Cậu có thể hóa rồng.” Và
Hazel thích cậu, Annabeth nghĩ, mặc dù
cô
không
nóira.
Frank có vẻ
không
bị thuyết phục. “Leo có thể triệu hồi lửa.” Cậu xoắn cái khóa tay. “Annabeth…có khi, cậu có thể giúp mình giải quyết những vấn đề khác
không
đơn giản thế này thôi
không? Tớ có…Tớ đoán cậu gọi nó là ‘gót chân’ Achilles.”
Annabeth cảm giác như
cô
vừa uống socola nóng của người La Mã.
cô
chưa bao giờ cảm nhận được
sựấm áp và mơ hồ
nhưng Frank
đã
cho
cô
cảm giác đó. Cậu là
một
con gấu bông siêu lớn.
cô
có thể hiểu tại sao Hazel thích cậu. “Tớ rất sẵn lòng,”
cô
nói. “Có ai khác biết về chuyện ‘gót chân’ Achilles
không?”
“Percy và Hazel,” Cậu
nói. “không
còn ai khác. Percy…cậu ấy gã trai tốt. Tớ
sẽ
theo cậu ấy đến bất cứ nơi nào. Tớ nghĩ là cậu nên biết.”
Annabeth vỗ
nhẹ
vào cánh tay cậu. “Percy luôn biết cách để chọn những người bạn tốt. Như cậu. Nhưng, Frank, cậu có thể tin tưởng bất cứ ai
trên
tàu. Kể cả Leo. Chúng ta là
một
đội. Chúng ta phải tin tưởng nhau.”
“Tớ – tớ cũng nghĩ thế.”
“Vậy điểm yếu mà cậu lo lắng là gì?”
Tiếng chuông báo bữa tối reo vang và Frank nhảy dựng lên.
“Có lẽ…có lẽ lát nữa,” cậu
nói. “thật
khó để
nói
về nó. Nhưng cám ơn, Annabeth.” Cậu cầm cái khóa tay Trung Quốc lên. “Cứ nghĩ
thật
đơn giản thế thôi.”
[1]
đã
có ở chương trước, là roundhouse kick
[2] Cự đà xanh: Cự đà xanh có tên khoa học là Cyclura lewisi, là phân loài của thằn lằn Iguana Cuba. Vì thế, chúng còn được gọi là Iguana xanh. Chúng là loài đặc hữu của đảo Grand Cayman, Vương quốc
anh.Loài cự đà xanh có trọng lượng trưởng thành 15kg. Chiều dài cơ thể 1,5m. Tuổi thọ của chúng khá lớn, đến 60 năm.
đã
từng ghi nhận
một
con cự đà sống tới 69 tuổi.Vào năm 2001, các nhà khoa học thống kê và giật mình khi chỉ phát
hiện
được 5 cá thể cự đà xanh
trên
hòn đảo xinh đẹp này. Loài cự đà xanh có nguy cơ biến mất khỏi trái đất trong tương lai gần. Khi đó, nhiều nhà khoa học
đã
đưa ra cảnh báo rằng, chúng
sẽ
biến mất khỏi trái đất vào thập kỷ thứ 2 của thế kỷ 21.
[3] End Table, bàn
nhỏ
để đèn ngủ, sách báo, đồ uống, đồ ăn
nhẹ, điểm tâm
[4] Parthenon
Parthenon (tiếng Hy Lạp: Παρθενών) là
một
ngôi đền thờ thần Athena, được xây dựng vào thế kỷ 5 trước Công nguyên ở Acropolis. Đây là công trình xây dựng nổi tiếng nhất còn lại của Hy Lạp cổ đại, và
đã
được ca ngợi như là thành tựu của kiến trúc Hy Lạp. Các điêu khắc trang trí của ngôi đền bằng từ đá cẩm thạch (marble) trắng, được coi như là đỉnh cao của nghệ thuật Ai Cập cổ đại. Đền Parthenon là biểu tượng của
sự
kết thúc Hy Lạp cổ đại và của nền dân chủ Athena, và được đánh giá như là
mộttrong những công trình văn hóa vĩ đại nhất thế giới. Sử dụng mũi tên trái (←) hoặc phải (→) để chuyển chương