Jon Snow đọc đi đọc lại lá thư cho đến khi chữ nghĩa bắt đầu nhòe dần đi và lẫn cả vào nhau. Ta không thể ký thứ này. Ta sẽ không ký thứ này.
Anh suýt nữa đã đốt cuộn da ngay lúc đó. Nhưng thay vì làm vậy anh uống một ngụm bia trong nửa cốc còn lại từ bữa tối một mình đêm hôm trước. Ta phải ký. Họ chọn ta làm tướng chỉ huy. Tường Thành là của ta, và cả Đội Tuần Đêm cũng vậy. Đội Tuần Đêm không liên quan gì đến chuyện này.
Anh thấy nhẹ cả người khi Edd Tollett U Sầu mở cửa để thông báo rằng Gilly đang ở bên ngoài. Jon đặt lá thư của Maester Aemon sang bên cạnh. “Tôi sẽ gặp cô ấy.” Đó là một việc kinh khủng với anh. “Tìm Sam cho tôi. Sau khi gặp Gilly tôi sẽ nói chuyện với cậu ấy.”
“Cậu ấy đang ở dưới hầm với mấy quyển sách. Ngài tư tế già của tôi từng nói rằng đọc sách giống như nghe người chết nói chuyện. Còn tôi sẽ nói rằng người chết nên biết im lặng. Chẳng ai muốn nghe một xác chết lảm nhảm cả.” Edd U Sầu tiếp tục lẩm bẩm nói về giòi bọ và những con nhện.
Khi Gilly bước vào, cô gái lập tức quỳ xuống. Jon vòng qua chiếc bàn và đỡ cô đứng dậy. “Cô không cần quỳ trước mặt tôi. Chỉ phải quỳ trước mặt nhà vua thôi.” Dù đã làm vợ và làm mẹ, nhưng đối với anh, Gilly vẫn chẳng hơn một đứa trẻ là bao, một cô bé mảnh mai lọt thỏm trong chiếc áo choàng cũ của Sam. Chiếc áo quá lớn so với cô đến nỗi có thể giấu vài ba cô bé khác bên trong những nếp gấp áo. “Hai đứa nhỏ ổn chứ?” Anh hỏi cô.
Cô gái du mục mỉm cười e thẹn dưới chiếc mũ trùm đầu. “Vâng thưa lãnh chúa. Tôi cứ sợ mình sẽ không đủ sữa cho cả hai đứa trẻ, nhưng chúng càng bú nhiều, tôi lại càng có nhiều sữa. Chúng rất khỏe mạnh.”
“Tôi có một việc phải nói với cô, dù cô khó có thể chấp nhận được nó.” Suýt nữa anh định dùng từ hỏi, nhưng kịp kìm lại ở phút chót.
“Có phải là về Mance không? Val đã xin nhà vua tha mạng cho ngài ấy. Cô ấy nói sẽ chịu lấy một chư hầu nào đó và không bao giờ cắt cổ ông ta, chỉ cần Mance được sống. Tên Lãnh Chúa Xương đó lại được tha. Craster luôn thề rằng sẽ gϊếŧ hắn nếu hắn xuất hiện trước pháo đài. Những việc Mance làm còn không bằng một nửa so với những việc hắn gây ra.”
Tất cả những gì Mance làm là dẫn một đội quân tiến đánh vương quốc mà hắn từng thề sẽ bảo vệ. “Mance đã nói lời tuyên thệ, Gilly. Sau đó hắn lại tạo phản, cưới Dalla, tự nhận là Vua-Bên-Ngoài-Tường-Thành. Giờ số mệnh của hắn nằm trong tay nhà
vua. Nhưng chúng ta không cần nói về hắn, mà là con trai hắn cơ. Con trai của Dalla.”
“Đứa bé à?” Giọng cô run run. “Thằng bé có phản bội lời thề nào đâu. Nó chỉ ngủ, khóc và bú, thế thôi; nó chẳng làm hại ai cả. Đừng để cô ta thiêu thằng bé. Xin ngài hãy cứu lấy nó.”
“Chỉ có cô mới có thể làm điều đó, Gilly.” Và Jon chỉ cách cho cô gái.
Nếu là một phụ nữ khác, rất có thể cô đã la hét, chửi mắng, nguyền rủa anh tới bảy tầng địa ngục. Nếu là một phụ nữ khác, rất có thể cô đã căm phẫn nhảy xổ vào tát anh, đá anh, móc mắt anh bằng những móng tay sắc nhọn. Nếu là một phụ nữ khác, rất có thể cô đã công khai thách thức anh.
Nhưng Gilly chỉ lắc đầu. “Đừng. Xin ngài. Đừng.”
Con quạ nhại theo. “Đừng,” nó hét lên. “Nếu cô từ chối, thằng bé sẽ bị thiêu. Không phải ngày mai, không phải ngày kia… nhưng sẽ sớm thôi, bất cứ khi nào Melisandre muốn đánh thức một con rồng hoặc gọi gió, hoặc làm bất cứ bùa chú gì cần đến máu của một vị vua. Lúc đó Mance đã chỉ còn một nắm xương với tro, nên cô ta sẽ dâng con hắn cho ngọn lửa, và Stannis sẽ không từ chối cô ta. Nếu cô không đem thằng bé đi, cô ta sẽ thiêu nó.”
“Tôi sẽ đi,” Gilly nói. “Tôi sẽ mang nó đi, cả hai đứa, con trai Dalla và con trai tôi.” Nước mắt lăn dài trên hai má cô. Nếu chúng không phản chiếu long lanh trong ánh nến thì Jon chẳng bao giờ biết là cô gái đang khóc. Các bà vợ của Craster hẳn luôn dạy con gái mình phải khóc vào một chiếc gối. Hoặc là họ ra ngoài để khóc, tránh xa khỏi nắm đấm của Craster.
Bàn tay cầm kiếm của Jon nắm chặt lại. “Nếu đem cả hai đứa bé đi, người của hoàng hậu sẽ đuổi theo lôi cô trở lại. Thằng bé sẽ vẫn bị thiêu sống… cả cô lẫn nó.” Nếu ta an ủi cô ấy, cô ấy sẽ nghĩ rằng nước mắt có thể lay chuyển được ta. Cô ấy phải hiểu rằng ta sẽ không chịu đầu hàng. “Cô sẽ chỉ mang một đứa bé đi thôi. Và đó là con của Dalla.”
“Một người mẹ không thể bỏ con, nếu không sẽ bị nguyền rủa suốt đời. Không chỉ có thế. Chúng tôi đã cứu nó, Sam và tôi. Xin lãnh chúa, cầu xin ngài. Chúng tôi đã cứu nó khỏi chết rét.”
“Người ta nói chết cóng là một cách chết thảnh thơi. Nhưng lửa thì… cô có nhìn thấy cây nến không, Gilly?”
Cô nhìn ngọn lửa. “Có.”
“Chạm vào nó đi. Đặt tay lên ngọn lửa.”
Đôi mắt nâu to tròn của cô lúc này trông càng to hơn. Cô không cử động.
“Làm đi.” Phải gϊếŧ thằng nhóc trong ta. “Ngay bây giờ.” Cô gái run rẩy giơ tay ra hơ bên trên ngọn nến bập bùng. “Thấp xuống. Hãy cảm nhận nụ hôn của lửa.”
Gilly hạ thấp tay xuống. Một chút. Rồi một chút nữa. Khi ngọn lửa liếʍ vào da thịt cô, cô rụt tay lại và bắt đầu khóc.
“Chết trong lửa là cái chết tàn khốc. Dalla chết để cho con cô ấy cơ hội sống, nhưng cô là người nuôi nấng, yêu thương thằng bé. Cô đã cứu con mình khỏi chết rét. Giờ hãy cứu con cô ấy khỏi ngọn lửa.”
“Vậy thì họ sẽ thiêu con trai tôi. Nữ tu đỏ đó. Nếu cô ta không có được con của Dalla, cô ta sẽ thiêu sống con trai tôi.”
“Con cô không có dòng máu đế vương. Melisandre chẳng được lợi lộc gì khi ném nó vào lửa. Stannis muốn dân du mục chiến đấu cho ông ta, ông ta sẽ không thiêu người dân vô tội nào mà không có lý do chính đáng đâu. Con trai cô sẽ được an toàn. Tôi sẽ tìm một vυ" em cho thằng bé và nó sẽ được nuôi nấng trong Hắc Thành dưới sự bảo vệ của tôi. Thằng bé sẽ học cách cưỡi ngựa, đi săn, học chiến đấu với kiếm, cung và rìu. Tôi sẽ cho nó học đọc và viết nữa.” Sam sẽ thích điều đó. “Và khi thằng bé đủ lớn, nó sẽ biết được nó là ai. Nó sẽ được tự do đi tìm cô, nếu đó là điều nó muốn.
“Ngài sẽ biến nó thành một con quạ.” Cô gái lau nước mắt bằng mu bàn tay nhỏ xanh xao. “Tôi không đồng ý. Không đồng ý.”
Gϊếŧ thằng nhóc trong ta, Jon nghĩ. “Cô phải đồng ý. Nếu không tôi đảm bảo với cô, ngày họ thiêu sống con của Dalla, cô cũng sẽ phải chết.”
“Chết,” con quạ của Gấu Già thét lên. “Chết, chết, chết.”
Cô gái ngồi thụp xuống và thu mình lại, mắt đăm đăm nhìn vào ngọn nến, nước mắt lấp lánh trong mắt cô. Cuối cùng, Jon nói, “Cô đi được rồi. Đừng nói gì về chuyện này, nhưng hãy sẵn sàng để lên đường vào sáng mai trước khi trời sáng. Người của tôi sẽ đến tìm cô.”
Gilly đứng dậy rời đi, mặt xanh lét và không nói một lời nào, cũng không quay đầu lại nhìn anh. Jon nghe thấy tiếng bước chân cô khi cô đi qua kho vũ khí. Cô ấy gần như đang chạy.
Khi đến gần cánh cửa, Jon thấy Bóng Ma đang nằm dài bên dưới chiếc đe, mõm gặm một miếng xương bò. Con sói tuyết trắng vĩ đại ngẩng lên nhìn khi anh lại gần. “Đến giờ mày trở lại rồi.” Anh quay lại ghế và đọc lá thư của Maester Aemon một lần nữa.
Một lúc sau, Samwell Tarly xuất hiện với một chồng sách trong tay. Cậu ta vừa bước vào, con quạ của Mormont đã sà tới đòi ngô. Sam cố gắng chiều theo và đưa cho con quạ một ít ngô trong chiếc túi treo bên cửa. Con quạ mổ tới tấp vào tay Sam. Cậu kêu ré lên, con quạ bay đi và ngô rơi vung vãi. “Con vật chết tiệt có làm trầy da cậu không?” Jon hỏi.
Sam rón rén tháo găng tay ra. “Có. Tôi đang bị chảy máu.”
“Chúng ta đều phải đổ máu vì Đội Tuần Đêm. Lần sau nhớ đeo găng tay dày hơn nhé.” Jon dùng chân đẩy một chiếc ghế về phía Sam. “Cậu ngồi xuống và đọc cái này đi.” Anh đưa cho Sam cuộn da.
“Cái gì vậy?”
“Một tấm khiên bằng giấy.”
Sam chậm rãi đọc. “Một lá thư cho vua Tommen?”
“Ở Winterfell, Tommen từng tập kiếm với Bran em trai tôi bằng thanh kiếm gỗ,” Jon nhớ lại. “Cậu ấy độn nhiều tấm chắn đến nỗi trông hệt như một con ngỗng nhồi bông. Bran đánh cậu ấy ngã xuống đất.” Anh đến bên cửa sổ và mở toang cánh cửa. Không khí bên ngoài lạnh lẽo, và bầu trời đặc một màu xám ảm đạm. “Nhưng Bran đã chết, và Tommen, cậu nhóc mập lùn mặt đỏ như gấc đó đang ngồi trên ngai sắt với chiếc vương miện đặt trên những lọn tóc quăn vàng.”
Sam phản ứng khá lạ trước những lời đó, trong phút chốc tưởng như cậu định nói điều gì đó. Nhưng cuối cùng cậu chỉ nuốt nước bọt và quay lại đọc cuộn da. “Cậu vẫn chưa ký lá thư à?”
Jon lắc đầu. “Gấu Già đã cầu xin Ngai Sắt giúp đỡ cả ngàn lần. Họ cử đến cho chúng ta Janos Slynt. Thư từ sẽ chẳng khiến Nhà Lannister yêu quý chúng ta hơn. Và lại càng không, một khi họ biết chúng ta đang giúp đỡ Stannis.”
“Chỉ để họ giúp bảo vệ Tường Thành, chứ không phải tham gia vào cuộc tạo phản của họ. Trong này cũng có nói như vậy.”
“Lãnh chúa Tywin luôn rất đặc biệt.” Jon lấy lại lá thư. “Tại sao bây giờ ông ta phải giúp chúng ta, trong khi ông ta chưa bao giờ làm vậy?”
“Ông ấy sẽ không muốn người đời nói rằng Stannis tới đây bảo vệ cả vương quốc trong khi vua Tommen đang chơi đồ chơi. Và như thế Nhà Lannister sẽ bị người đời khinh miệt.”
“Thứ tôi muốn đem lại cho Nhà Lannister là chết chóc và hủy diệt, chứ không phải sự khinh miệt.” Jon đọc lá thư. “Đội Tuần Đêm không tham gia vào cuộc chiến giữa Bảy Phụ Quốc. Chúng ta nói lời tuyên thệ với vương quốc, và vương quốc này giờ
đây đang rơi vào tình thế vô cùng nguy hiểm. Stannis Baratheon giúp chúng tôi chống lại kẻ thù phía bên kia Tường Thành, dù chúng tôi không phải người của ông ấy.”
Sam vặn người trên ghế. “Đúng vậy, chúng ta không phải người của ông ấy mà, đúng không?”
“Tôi cho Stannis thức ăn, chỗ ở, Pháo Đài Đêm, và cả quyền cho dân du mục sống trong vùng Quà Tặng. Tất cả chỉ có vậy.”
“Lãnh chúa Tywin sẽ nói như vậy là quá nhiều.”
“Còn Stannis thì chê không đủ. Cậu cho một vị vua càng nhiều, ông ta lại càng đòi thêm. Chúng ta đang đi trên một cây cầu bằng băng với vực thẳm ở hai bên. Làm vừa lòng một vị vua đã khó. Làm vừa lòng cả hai gần như là không thể.”
“Đúng, nhưng… nếu Nhà Lannister thắng thế và Lãnh chúa Tywin cho rằng chúng ta phản bội nhà vua vì giúp đỡ Stannis, điều đó có thể đặt dấu chấm hết cho Tường Thành. Ông ta có Nhà Tyrell ở phía sau, với toàn bộ sức mạnh của Highgarden. Và ông ta cũng đánh thắng Stannis trong trận Xoáy Nước Đen.”
“Xoáy Nước Đen chỉ là một trận đánh. Robb thắng mọi trận mà vẫn mất đầu đấy thôi. Nếu Stannis có thể phát triển phương bắc…”
Sam lưỡng lự một lúc rồi nói, “Nhà Lannister cũng có những người phương bắc của riêng họ. Lãnh chúa Bolton và gã con hoang của ông ta.”
“Stannis có Nhà Karstark. Nếu ông ta thu phục được cả Cảng White thì…”
“Đó là nếu,” Sam nhấn mạnh. “Còn nếu không… thưa lãnh chúa, thì ngay cả một chiếc khiên bằng giấy vẫn tốt hơn không có gì.”
“Tôi cũng nghĩ vậy.” Cả anh và Aemon đều có chung suy nghĩ đó. Không hiểu sao anh lại hy vọng Sam Tarly có thể nhìn sự việc theo hướng khác. Tất cả chỉ có giấy và mực. Không còn cách nào khác, anh chộp lấy cây bút và ký. “Đem sáp niêm phong lại đây.” Trước khi mình đổi ý. Sam nhanh chóng tuân lệnh. Jon ấn con dấu của tướng chỉ huy xuống và đưa lá thư cho Sam. “Đem cái này đến cho Maester Aemon khi cậu rời đi, và bảo ông ấy hãy gửi một con chim tới Vương Đô.”
“Được.” Giọng Sam có vẻ nhẹ nhõm. “Thưa lãnh chúa, liệu tôi có thể hỏi… Tôi nhìn thấy Gilly rời khỏi đây. Hình như cô ấy đang khóc.”
“Val lại cử cô ấy đến cầu xin cho Mance,” Jon nói dối, và họ nói chuyện một lúc về Mance, Stannis và Melisandre vùng Asshai, cho đến khi con quạ ăn hết hạt ngô cuối cùng và hét lên, “Máu.”
“Tôi sẽ cho Gilly đi khỏi đây,” Jon nói. “Cô ấy và thằng bé. Chúng ta sẽ phải tìm
một vυ" nuôi khác cho đứa bé còn lại.”
“Sữa dê cũng được, nếu ngài cho phép. Nó tốt cho trẻ sơ sinh hơn sữa bò.” Nói chuyện về ngực với sữa làm cho Sam cảm thấy không thoải mái, và cậu bắt đầu huyên thuyên nói về lịch sử và cậu nhóc làm tướng chỉ huy đã qua đời cách đây hàng trăm năm. Jon cắt ngang lời cậu và nói, “Nói cho tôi cái gì hữu ích hơn đi. Về kẻ thù của chúng ta ấy.”
“Ngoại Nhân.” Sam liếʍ môi. “Chúng được nhắc đến trong các cuốn biên niên sử, dù không thường xuyên như tôi vẫn tưởng. Tất nhiên là chỉ trong các cuốn mà tôi tìm thấy và đọc được. Tôi biết vẫn còn nhiều cuốn khác tôi chưa đọc. Một số cuốn sách cũ đã rách tả tơi, các trang sách nát vụn ra khi tôi cố lật chúng. Còn những cuốn sách thật sự cổ… hoặc chúng đã mủn hết, hoặc bị chôn vùi ở đâu đó mà tôi chưa tìm thấy… ừm, hoặc là chưa bao giờ tồn tại những cuốn sách như vậy. Lịch sử cổ đại nhất mà chúng ta biết đến được viết sau khi người Andal đến Westeros. Tiền Nhân chỉ để lại cho chúng ta những ghi chép bằng chữ rune trên đá, vì thế mọi thứ chúng ta biết về Thời Đại Anh Hùng, Kỷ Nguyên Rạng Đông và Đêm Trường đều dựa trên những ghi chép của các vị tư tế sống sau những thời kỳ đó hàng ngàn năm. Có những archmaester ở Citadel nghi ngờ tất cả những điều đó. Lịch sử cổ đại có đầy những ông vua trị vì hàng trăm năm và các hiệp sĩ lang thang hàng nghìn năm trước khi thực sự trở thành hiệp sĩ. Ngài cũng biết những câu chuyện về Brandon Kiến Thiết, Symeon Mắt Sao, Vua Bóng Đêm… ngài là tướng chỉ huy thứ 998 của Đội Tuần Đêm, nhưng danh sách cổ nhất tôi tìm thấy chỉ ghi chép về 674 vị, điều đó có nghĩa là cuốn sách đó đã được viết…”
“Từ rất lâu rồi,” Jon xen vào. “Thế còn lũ Ngoại Nhân?”
“Tôi thấy có những đoạn nói về đá rồng. Những đứa trẻ rừng rậm từng cho Đội Tuần Đêm một trăm con dao bằng đá vỏ chai mỗi năm, trong suốt Thời Đại Anh Hùng. Ngoại Nhân đến khi trời lạnh, hầu hết các câu chuyện đều khẳng định điều đó. Hoặc là trời trở lạnh mỗi khi chúng đến. Đôi khi chúng xuất hiện trong các trận bão tuyết và tan đi khi trời quang trở lại. Chúng trốn chạy ánh nắng mặt trời và xuất hiện vào ban đêm… hoặc là bóng đêm sẽ bao trùm khi chúng xuất hiện. Một số câu chuyện mô tả chúng như những cái xác cưỡi trên xác các con vật. Gấu, sói tuyết, ma mυ"ŧ, ngựa… miễn là chúng đã chết. Tên gϊếŧ Paul Nhỏ cưỡi một con ngựa chết, nên rõ ràng chi tiết đó là đúng. Một số ghi chép nói về nhện băng khổng lồ nữa. Tôi không biết chúng là loài gì. Những người chết khi đánh nhau với Ngoại Nhân phải được thiêu xác, nếu không những xác chết sẽ sống dậy và làm nô ɭệ cho chúng.”
“Chúng ta đều biết về những chuyện này rồi. Câu hỏi là, làm sao để chống lại chúng?”
“Giáp của Ngoại Nhân chống được hầu hết các loại đao kiếm thông thường, theo những gì viết trong truyền thuyết cổ, và kiếm của bọn chúng lạnh đến nỗi có thể chém được thép. Tuy nhiên lửa sẽ làm chúng sợ và đá vỏ chai có thể tấn công được chúng. Tôi tìm thấy một cuốn sách trong thời đại Đêm Trường nói về vị anh hùng cuối cùng gϊếŧ Ngoại Nhân với một thanh kiếm bằng thép rồng. Như vậy chúng sẽ không chịu được thứ vũ khí này.”
“Thép rồng?” Jon chưa nghe đến nó bao giờ. “Thép Valyria à?” “Ban đầu tôi cũng nghĩ vậy.”
“Vậy tôi chỉ cần thuyết phục các lãnh chúa của Bảy Phụ Quốc cho chúng ta những thanh kiếm bằng thép Valyria của họ là xong à? Thế thì không khó.” Không khó hơn việc yêu cầu họ buông ra của cải và lâu đài. Anh phá lên cười chua chát. “Cậu có biết Ngoại Nhân là giống gì, chúng đến từ đâu, và chúng muốn gì không?”
“Vẫn chưa, thưa lãnh chúa, nhưng có lẽ tại tôi chưa chọn đúng sách để đọc. Có hàng trăm cuốn tôi chưa ngó đến. Hãy cho tôi thêm thời gian, tôi sẽ tìm ra những thông tin cần thiết.”
“Không còn thời gian nữa. Cậu phải thu dọn đồ đạc, Sam. Cậu sẽ đi cùng với Gilly.”
“Đi?” Sam há hốc miệng như thể cậu không hiểu từ đó có nghĩa là gì. “Tôi cũng đi? Đến Trạm Đông à, thưa lãnh chúa? Hay là… nơi tôi…”
“Oldtown.”
“Oldtown?” Sam nhắc lại, giọng the thé.
“Aemon nữa.”
“Aemon? Maester Aemon? Nhưng… ông ấy đã 102 tuổi rồi, thưa ngài, ông ấy không thể… ngài định cho tôi và ông ấy đi à? Ai sẽ chăm lũ quạ? Nếu có người ốm hay bị thương, ai sẽ…”
“Clydas. Cậu ấy đã ở cùng Aemon nhiều năm rồi.”
“Clydas chỉ là người giúp việc, và mắt anh ấy đang kém dần. Ngài sẽ cần một học sĩ. Maester Aemon yếu lắm, một chuyến đi biển… có thể… ông ấy già rồi, và…”
“Sẽ nguy hiểm cho mạng sống của ông ấy. Tôi hiểu điều đó chứ, Sam, nhưng còn nguy hiểm hơn khi ông ấy ở lại đây. Stannis biết Aemon là ai. Nếu nữ tu đỏ cần máu của một vị vua để làm phép…”
“Ồ.” Đôi má phúng phính của Sam trở nên trắng bệch.
“Dareon sẽ gia nhập với các cậu ở Trạm Đông. Tôi hy vọng những bài hát của cậu
ấy sẽ giúp chúng ta thu nạp được thêm vài người ở phương Nam. Thuyền Chim Két sẽ đưa các cậu đến Braavos. Từ đây, mọi người tự tìm phương tiện đến Oldtown. Nếu cậu vẫn muốn nhận con của Gilly làm con ngoài giá thú của mình thì hãy đưa cả cô ấy lẫn đứa trẻ về Horn Hill. Nếu không, Aemon sẽ tìm cho cô ấy một chân phục vụ ở Citadel.”
“C…on… con của tôi. Đúng rồi, mẹ và các chị tôi sẽ giúp Gilly chăm sóc đứa bé. Dareon có thể đưa cô ấy đến Oldtown mà, đâu cần đến lượt tôi. Tôi… dạo này chiều nào tôi cũng tập bắn cung với Ulmer, theo lệnh của ngài… chỉ trừ những lúc ở trong hầm sách thôi, nhưng ngài bảo tôi phải tìm hiểu về lũ Ngoại Nhân mà. Chiếc trường cung làm vai tôi đau nhức và phồng giộp cả tay lên.” Cậu xòe tay cho Jon xem. “Tuy nhiên tôi vẫn tập luyện chăm chỉ. Giờ tôi đã bắn trúng mục tiêu nhiều hơn, nhưng vẫn là cung thủ dở tệ nhất. Tôi thích những câu chuyện của Ulmer. Phải có ai đó viết chúng thành một cuốn sách.”
“Cậu viết đi. Ở Citadel họ có giấy và mực, có cả trường cung nữa. Tôi vẫn muốn cậu tiếp tục tập luyện. Sam, Đội Tuần Đêm có hàng trăm người có thể bắn cung, nhưng chỉ có một số ít người biết đọc và viết. Tôi muốn cậu trở thành học sĩ mới của tôi.”
“Thưa ngài, tôi… công việc của tôi là ở đây, những quyển sách…” “… sẽ vẫn ở đây khi cậu quay trở lại.”
Sam đặt một tay lên cổ họng. “Thưa ngài, ở Citadel… người ta sẽ bắt tôi mổ xác chết. Tôi sẽ không đeo chuỗi xích được đâu.”
“Cậu có thể. Cậu sẽ làm được. Maester Aemon đã già rồi và lại mù lòa. Sức lực đang rời bỏ ông ấy. Ai sẽ thay thế vị trí của ông khi ông qua đời? Maester Mullin ở Tháp Đêm giống một chiến binh hơn là học sĩ, còn Maester Harmune ở Trạm Đông thì say nhiều hơn tỉnh.”
“Nếu ngài hỏi xin một vài học sĩ của Citadel… ”
“Tôi vẫn định như vậy. Chúng ta cần người, bất kể đó là ai. Tuy nhiên, tìm người thay thế Aemon Targaryen không phải chuyện dễ.” Cuộc thương lượng không giống như dự liệu của anh chút nào. Anh biết sẽ rất khó để thuyết phục Gilly, nhưng lại cứ đinh ninh Sam sẽ vui vẻ đánh đổi sự nguy hiểm ở Tường Thành để có được sự ấm áp
ở Oldtown. “Tôi cứ tưởng điều này sẽ làm cậu vui cơ,” anh bối rối nói. “Ở Citadel có nhiều sách đến nỗi không ai có thể đọc hết được. Cậu sẽ phát huy tốt khả năng của mình ở đó, Sam. Tôi tin vậy.”
“Không. Tôi có thể đọc sách, nhưng… một học sĩ cần biết chữa bệnh và cứ nhìn thấy m-m-máu là tôi muốn ngất.” Tay cậu run run như để chứng minh điều đó. “Tôi là
Sam Sợ Hãi, không phải Sam Sát Nhân đâu.”
“Sợ Hãi? Cậu sợ hãi điều gì? Sợ bị các ông già khiển trách à? Sam, cậu đã nhìn thấy lũ xác sống tràn lêи đỉиɦ Nắm Đấm, một đội quân xác chết sống dậy với những bàn tay đen như than và đôi mắt xanh sáng rực. Chính cậu đã gϊếŧ chết một tên Ngoại Nhân.”
“Đó là do đ-đ-đ-đá rồng, không phải tôi.”
“Thôi đủ rồi,” Jon quát. Sau Gilly, anh không còn đủ kiên nhẫn với những nỗi sợ sệt của gã béo này nữa. “Cậu dùng đủ mọi sự dối trá, âm mưu và thủ đoạn để đưa tôi lên làm tướng chỉ huy. Giờ cậu phải tuân lệnh tôi. Cậu sẽ đến Citadel và rèn một chuỗi xích, và nếu cậu cần phải mổ xác thì cứ làm. Ít nhất ở Oldtown mấy cái xác sẽ không phản đối đâu.”
“Thưa ngài, nhưng ch-ch-cha tôi, Lãnh chúa Randyll, ông, ông, ông, ông ấy… cuộc sống của một học sĩ là cuộc sống của một nô ɭệ. Con trai của Nhà Tarly sẽ không bao giờ đeo xích. Một người đàn ông của Horn Hill không bao giờ quỳ gối trước các lãnh chúa nhỏ, Jon. Tôi không thể làm trái lệnh cha được.”
Gϊếŧ thằng nhóc trong ngươi đi, Jon nghĩ. Thằng nhóc trong ngươi, và cả thằng nhóc trong cậu ta. Gϊếŧ cả hai đi, đồ chết dẫm. “Cậu không có cha. Cậu chỉ có các anh em, chỉ có chúng tôi. Cuộc sống của cậu thuộc về Đội Tuần Đêm, vì thế hãy đi gói ghém quần áo vào bao tải cùng với bất cứ thứ gì cậu muốn mang đến Oldtown. Cậu sẽ lên đường một giờ trước khi trời sáng. Và đây là một mệnh lệnh nữa. Từ hôm nay trở đi, cậu không được tự gọi mình là hèn nhát. Trong năm qua, cậu đối mặt với nhiều thứ hơn trải nghiệm cả đời của biết bao người khác. Cậu sẽ đối mặt với Citadel, nhưng với vai trò là một anh em của Đội Tuần Đêm. Tôi không thể ra lệnh cho cậu phải dũng cảm, nhưng tôi có thể lệnh cho cậu che giấu nỗi sợ hãi. Cậu đã đọc lời tuyên thệ, Sam, cậu còn nhớ chứ?”
“Tôi… tôi sẽ cố.”
“Cậu không cố. Cậu sẽ tuân lệnh.”
“Tuân lệnh.” Con quạ của Mormont vỗ đôi cánh đen vĩ đại.
Sam có vẻ chùng xuống. “Tuân lệnh tướng chỉ huy. Thế… Maester Aemon có biết không?”
“Đây cũng là ý của ông ấy.” Jon mở cửa cho Sam. “Không tạm biệt ai hết. Càng ít người biết về việc này càng tốt. Một giờ trước khi trời sáng, bên nghĩa địa.”
Sam bỏ chạy khỏi anh giống như Gilly trước đó.
Jon cảm thấy mệt mỏi. Mình cần được ngủ. Anh đã thức hết nửa đêm nghiên cứu
các tấm bản đồ, viết thư và lập kế hoạch với Maester Aemon. Ngay cả sau khi đổ ập xuống chiếc giường nhỏ của mình, giấc ngủ vẫn không đến với anh dễ dàng. Anh biết hôm nay mình sẽ phải đối mặt với những gì. Jon trở mình liên tục trong khi đầu không thôi nghĩ về những lời cuối cùng của Maester Aemon. “Cho phép ta dành cho lãnh chúa một lời cố vấn cuối cùng,” vị học sĩ già nói, “đây cũng là lời cố vấn ta từng dành cho em trai mình khi chúng ta chia tay lần cuối. Cậu ấy 33 tuổi khi Đại Hội Đồng chọn cậu ấy lên ngồi trên Ngai Sắt. Một người đàn ông trưởng thành với con cái đề huề rồi, nhưng đôi khi vẫn chỉ như một cậu bé. Egg có những nét rất ngây thơ, sự ngọt ngào mà tất cả chúng ta đều yêu quý. Hãy gϊếŧ chết thằng nhóc bên trong cậu, ta nói với cậu ấy như vậy trong ngày ta lên thuyền tới Tường Thành. Chỉ một người đàn ông mới có thể cai trị. Một Aegon, chứ không phải Egg. Gϊếŧ chết thằng nhóc bên trong cậu và để người đàn ông được sinh ra.” Ông già sờ lên mặt Jon. “Giờ cậu chỉ bằng nửa tuổi Egg lúc đó, và ta sợ rằng gánh nặng của cậu còn khắc nghiệt hơn nhiều. Cậu sẽ chẳng mấy khi được vui vẻ với vị trí chỉ huy của mình, nhưng ta tin cậu có sức mạnh để làm những việc cần làm. Hãy gϊếŧ thằng nhóc trong cậu đi, Jon Snow. Mùa đông đang đến với chúng ta rồi. Gϊếŧ thằng nhóc để người đàn ông được sinh ra.”
Jon mặc áo choàng và bước ra ngoài. Ngày nào anh cũng đi mấy vòng quanh Hắc Thành, thăm các anh em đang đứng gác và nghe họ báo cáo đầu tiên, xem Ulmer luyện tập trong bãi tập bắn cung, nói chuyện với người của nhà vua và người của hoàng hậu, đi dạo trên đỉnh Tường Thành phủ băng để nhìn về phía khu rừng. Bóng Ma chạy theo anh, một cái bóng trắng toát không khi nào rời bước.
Kedge Mắt Trắng đang canh gác trên Tường Thành khi Jon trèo lên. Kedge đã trải qua hơn 40 ngày lễ đặt tên, và trong đó có 30 năm ở Tường Thành. Mắt trái của ông đã mù, mắt phải tèm nhèm. Ở trong rừng, một mình với chiếc rìu và con ngựa nhỏ, ông vẫn là một người lính cừ khôi chẳng kém ai trong Đội Tuần Đêm, nhưng ông chưa bao giờ có mối quan hệ tốt với những anh em khác. “Một ngày yên bình nhỉ,” ông nói với Jon. “Không có gì để báo cáo, trừ các lính biệt kích đi sai đường.”
“Lính biệt kích đi sai đường là sao?” Jon hỏi.
Kedge nhăn nhở cười. “Hai hiệp sĩ. Họ cưỡi ngựa đi cách đây một tiếng, nhưng lại đi về phía nam dọc theo vương lộ. Khi Dywen thấy họ bỏ đi, anh ta nói hai gã ngốc người miền nam đó đang đi nhầm đường.”
“Tôi hiểu rồi,” Jon nói.
Anh tự mình tới chỗ Dywen tìm hiểu sự việc khi người lính già đang ngồi ăn một bát cháo yến mạch trong doanh trại. “Vâng thưa lãnh chúa, tôi nhìn thấy họ. Đó là Horpe và Massey. Họ nói Stannis cử họ đi, nhưng không chịu nói đi đâu, làm gì hay khi nào sẽ quay lại.”
Ser Richard Horpe và Ser Justin Massey đều là người của hoàng hậu và có vị trí cao trong hội đồng của nhà vua. Nếu Stannis muốn do thám thì chỉ cần hai kỵ sĩ bình thường là đủ, Jon Snow nghĩ, còn các hiệp sĩ phù hợp với vị trí sứ giả hoặc người truyền tin hơn. Cotter Pyke đã nhắn tin từ Trạm Đông rằng Lãnh chúa Củ Hành và Salladhor Saan đã lên thuyền tới Cảng White để thương lượng với Lãnh chúa Manderly. Có lẽ Stannis muốn cử thêm sứ giả đi. Nhà vua chưa bao giờ biết kiên nhẫn.
Nhưng chuyện các lính biệt kích đi sai đường có trở lại hay không lại là chuyện khác. Tuy là hiệp sĩ thật, nhưng họ không biết gì về phương bắc. Sẽ có rất nhiều tai mắt trên vương lộ, và không phải ai cũng thân thiện. Tuy nhiên đó không phải là việc của Jon. Stannis có những bí mật của ông ta. Ta cũng có những bí mật của mình, chỉ các vị thần mới biết.
Bóng Ma ngủ dưới chân giường anh đêm hôm đó, và lần này anh không mơ thấy mình là sói nữa. Nhưng ngay cả như vậy anh vẫn ngủ rất chập chờn, anh trở mình liên tục suốt mấy tiếng trước khi chìm vào cơn ác mộng. Trong giấc mơ Gilly đang khóc và cầu xin anh để cho hai đứa bé được yên, nhưng anh giật hai đứa trẻ khỏi tay cô ta và chặt đứt đầu chúng, sau đó tráo vị trí hai cái đầu và bảo cô ta khâu lại.
Khi tỉnh dậy, anh thấy Edd Tollett đang đứng lù lù bên cạnh trong căn phòng ngủ tối tăm của anh. “Thưa lãnh chúa? Đến giờ rồi ạ. Giờ của sói. Ngài dặn phải đánh thức ngài dậy.”
“Đem nước nóng cho tôi với.” Jon ném chăn sang một bên.
Edd quay lại khi anh mặc quần áo xong và ấn một chiếc cốc nóng vào tay anh. Jon cứ nghĩ đó là một cốc rượu nóng nên rất ngạc nhiên khi phát hiện ra đó là một bát súp loãng có mùi tỏi tây và cà rốt, nhưng dường như chẳng có chút tỏi tây hay cà rốt nào trong đó. Trong các giấc mơ sói mùi hương luôn rõ rệt hơn, anh nghĩ, và thức ăn cũng có vị đậm hơn. Bóng Ma còn có sức sống hơn mình. Anh để chiếc cốc không lên bệ lò sưởi.
Người canh cửa cho anh sáng nay là Kegs. “Tôi muốn nói chuyện với Bedwyck và Janos Slynt,” Jon nói với anh ta. “Khi trời sáng hãy triệu tập cả hai người họ đến đây.”
Bên ngoài tối đen và tĩnh lặng. Lạnh, nhưng không quá sức chịu đựng của con người. Chưa đến lúc. Không khí sẽ ấm hơn khi mặt trời lên. Nếu các vị thần tốt bụng, băng trên Tường Thành có thể chảy ra. Khi họ tới nghĩa địa, đoàn người đã xếp vào đội hình. Jon đã giao cho Jack Bulwer Đen quyền chỉ huy đội hộ tống, bao gồm một tá lính biệt kích cưỡi ngựa và hai chiếc xe ngựa. Một chiếc xe chất đầy các thùng, rương, bao tải đựng đồ dự trữ cần thiết cho chuyến đi. Chiếc xe thứ hai có mái cứng
bằng da thuộc để chắn gió. Maester Aemon ngồi ở sau xe, trông ông nhỏ bé như một đứa trẻ trong tấm da gấu vĩ đại. Sam và Gilly đang đứng gần đó. Mắt cô đỏ rực và sưng húp, nhưng thằng bé đang nằm trong tay cô và được quấn chăn ấm áp. Tuy nhiên đó là con cô ấy hay con của Dalla thì anh không dám chắc. Anh mới chỉ nhìn hai đứa bé ở cạnh nhau vài lần. Con của Gilly lớn hơn, con Dalla khỏe hơn, nhưng tuổi và kích thước của chúng tương đương nhau nên những người không tiếp xúc nhiều sẽ khó lòng phân biệt được hai đứa trẻ.
“Lãnh chúa Snow,” Maester Aemon gọi với ra, “Ta để lại một cuốn sách cho cậu trong phòng ngủ. Bản trích yếu về Biển Ngọc Bích. Nó được viết bởi nhà thám hiểm người Volantis tên là Colloquo Votar, người đã du hành về phía đông và tới mọi vùng đất quanh Biển Ngọc Bích. Có một đoạn chắc chắn cậu sẽ thích. Ta đã bảo Clydas đánh dấu lại rồi.”
“Chắc chắn là tôi sẽ đọc.”
Maester Aemon lau mũi. “Tri thức là vũ khí, Jon. Hãy trang bị vũ khí cho mình trước khi ra trận.”
“Tôi nhớ rồi.” Jon cảm thấy có gì đó ướt và lạnh trên mặt. Khi ngước mắt lên, anh thấy tuyết bắt đầu rơi. Một điềm xấu. Anh quay lại nói với Jack Bulwer Đen. “Lên đường vui vẻ nhé, nhưng đừng có mạo hiểm một cách ngu ngốc. Cậu có một ông già và một đứa bé đang bú mẹ đi cùng đấy. Hãy để ý giữ ấm cho họ và đừng để họ bị đói.”
“Ngài cũng làm thế nhé, lãnh chúa.” Gilly không vội vàng leo lên xe. “Ngài cũng phải làm thế với đứa bé còn lại. Tìm một vυ" nuôi khác, như ngài nói. Ngài đã hứa với tôi rồi. Thằng bé… con của Dalla… hoàng tử nhỏ, ý tôi là… ngài phải tìm cho nó một vυ" nuôi tốt để nó lớn lên cao lớn và khỏe mạnh.”
“Tôi hứa.”
“Đừng đặt tên cho nó. Đừng đặt tên cho đến khi nó được hơn 2 tuổi. Nếu đặt tên khi đứa trẻ vẫn còn đang bú thì sẽ không mang lại may mắn đâu. Các anh em quạ đen có thể không biết, nhưng đó là sự thật đấy.”
“Xin tuân lệnh tiểu thư.”
“Đừng gọi tôi như thế. Tôi là một người mẹ, không phải tiểu thư. Tôi là vợ, là con gái Craster, và là một người mẹ.” Cô đưa đứa bé cho Edd U Sầu khi trèo vào trong xe và chui vào trong đống lông thú. Khi Edd trao đứa bé lại cho Gilly, cô bắt đầu cho nó bú. Sam thấy vậy liền đỏ mặt quay đi và vội leo lên lưng con ngựa cái của cậu. “Đi thôi,” Jack Bulwer Đen ra lệnh khi quất roi. Chiếc xe từ từ lăn bánh.
Sam nán lại một lúc. “Ừm,” cậu nói, “tạm biệt.”
“Tạm biệt cậu, Sam,” Edd U Sầu nói. “Tôi không nghĩ thuyền của cậu sẽ chìm đâu. Thuyền chỉ chìm khi nào tôi ở trên đó thôi.”
Jon nhớ lại. “Lần đầu tôi nhìn thấy Gilly là khi cô ấy đang đứng nép vào tường của pháo đài Craster, cô gái tóc đen gầy gò với cái bụng to đùng đang cố tránh Bóng Ma càng xa càng tốt. Con sói xuất hiện giữa bầy thỏ của cô ấy, và tôi đoán Gilly sợ rằng nó sẽ xé xác cô ấy và ngấu nghiến đứa bé… nhưng cô ấy không cần phải sợ hãi trước con sói đó, đúng không nào?”
“Cô ấy dũng cảm hơn những gì cô ấy tưởng,” Sam nói.
“Cậu cũng vậy, Sam. Chúc cậu một chuyến đi nhanh chóng, an toàn. Hãy bảo vệ cô ấy, Aemon và đứa trẻ nhé.” Tuyết lạnh tan thành từng giọt trên mặt anh khiến anh nhớ lại ngày tạm biệt Robb ở Winterfell, không hề biết rằng đó là lần cuối họ gặp nhau. “Và đội mũ lên đi, tuyết đang tan trên tóc cậu đấy.”
Khi đoàn người chỉ còn là một chấm nhỏ ở đằng xa, bầu trời phía đông đã chuyển từ đen sang xám và tuyết bắt đầu rơi dày hơn. “Khổng Lồ đang đợi tướng chỉ huy đấy ạ,” Edd U Sầu nhắc anh. “Cả Janos Slynt nữa.”
“Được rồi.” Jon Snow liếc nhìn lên Tường Thành, bức tường cao vυ"t như một vách băng. Dài gần 350 dặm và cao hơn 200 mét. Sức mạnh của Tường Thành nằm ở chiều cao; nhưng chiều dài của nó lại là điểm yếu. Jon nhớ cha anh từng nói như vậy. Sức mạnh của một bức tường thành chính bằng sức mạnh của những người đứng đằng sau nó. Người của Đội Tuần Đêm rất dũng cảm, nhưng họ có quá ít người cho những nhiệm vụ trước mắt.
Khổng Lồ đang đợi anh trong kho vũ khí. Tên thật của ông ta là Bedwyck. Với chiều cao chỉ hơn mét rưỡi một chút, ông là người đàn ông nhỏ bé nhất trong Đội Tuần Đêm. Jon vào thẳng vấn đề. “Chúng ta cần thêm người trên Tường Thành. Các lâu đài trạm sẽ là nơi lính tuần tra của chúng ta tránh rét, tìm thức ăn nóng và thay ngựa. Tôi sẽ cho một đội quân đồn trú đóng ở Icemark và giao quyền chỉ huy cho ông.”
Khổng Lồ đút ngón tay út vào lỗ tai như để lấy bớt ráy tai ra. “Chỉ huy? Tôi ấy à? Tôi chỉ là thằng con bất trị của một chủ trại nhỏ, bị đưa đến Tường Thành vì tội trộm cắp, ngài biết điều đó chứ?”
“Ông đã làm lính biệt kích hơn một chục năm nay rồi. Ông sống sót trên đỉnh Nắm Đấm Của Tiền Nhân và trong pháo đài của Craster, sau đó quay về kể lại câu chuyện. Những người trẻ đều phải ngước nhìn ông.”
Người đàn ông nhỏ bé phá lên cười. “Chỉ có mấy thằng lùn mới phải ngước nhìn tôi thôi. Tôi không biết đọc, thưa lãnh chúa. Vào một ngày đẹp trời tôi có thể tự viết tên mình.”
“Tôi đã gửi thư đến Oldtown xin thêm học sĩ. Ông sẽ có hai con quạ để gửi thư khi cần kíp. Khi không cấp bách lắm thì hãy cho kỵ sĩ mang thư. Đến khi chúng ta có nhiều học sĩ và nhiều quạ hơn, tôi muốn thiết lập một dãy tháp canh trên đỉnh Tường Thành.”
“Thế có bao nhiêu thằng ngốc tội nghiệp sẽ bị tôi chỉ huy đây?”
“Hai mươi người, trong Đội Tuần Đêm” Jon nói, “và mười người của Stannis.” Những kẻ quá già, quá non nớt hoặc bị thương. “Họ không phải là người giỏi nhất của ông ấy, và cũng sẽ không gia nhập đội áo đen, nhưng sẽ nghe lệnh. Hãy tận dụng họ. Bốn người trong đội quân tôi cử đi với ông sẽ là lính của nhà vua, những người tới đây cùng Lãnh chúa Slynt. Để ý đám người đó một chút và cùng những người khác canh đám trèo tường.”
“Chúng tôi có thể canh, thưa lãnh chúa, nhưng nếu bọn trèo tường quá đông thì 30 người sẽ không đủ để đẩy bọn chúng xuống.”
Ba trăm có khi còn chẳng đủ. Tuy nhiên Jon không nói ra điều đó. Đúng là những kẻ trèo tường rất dễ bị thương khi trèo lên. Đá, thương và hắc ín sôi có thể được đổ như mưa từ trên xuống, và tất cả những gì chúng có thể làm là bám thật chắc vào đá. Đôi khi chính bức tường dường như cũng hất bọn chúng xuống, như con chó giũ bọ chét ra khỏi lông của nó. Jon từng tận mắt chứng kiến một mảng băng lớn vỡ ra dưới chân Jarl, người tình của Val, và khiến hắn ngã xuống chết.
Tuy nhiên, nếu bọn trèo tường lên được đến đỉnh Tường Thành mà không ai biết, mọi thứ sẽ thay đổi. Nếu có đủ thời gian, chúng có thể đào lỗ đứng ở trên đó, tự dựng trụ của bọn chúng và thả dây thừng, thang dây xuống cho hàng ngàn tên khác trèo lên theo. Đó là cách Raymun Râu Đỏ đã làm, Raymun từng là Vua-Bên-Ngoài-Tường-Thành từ thời ông nội của ông nội anh. Jack Musgood từng là tướng chỉ huy trong những ngày đó. Ông được gọi là Jack Vui Vẻ trước khi Râu Đỏ tràn xuống từ phương bắc; và được gọi là Jack Buồn Ngủ mãi mãi trở về sau. Đội quân của Raymun tan rã thảm hại ở Hồ Dài, bị bao vây bởi Lãnh chúa Willam vùng Winterfell, Người Khổng Lồ Say Rượu Harmond Umber. Râu Đỏ bị Artos Không Mủi Lòng, anh trai Lãnh chúa Willam gϊếŧ chết. Đội Tuần Đêm đến quá muộn nên không kịp đánh nhau với bọn du mục, nhưng vẫn kịp để chôn chúng, nhiệm vụ mà Artos Stark giao cho họ trong cơn giận dữ và đau khổ trước cái xác không đầu của em trai.
Jon không muốn bị người đời nhớ đến với cái tên Jon Snow Buồn Ngủ. “Ba mươi người vẫn còn hơn là không có ai,” anh nói với Khổng Lồ.
“Đúng vậy,” người đàn ông nhỏ thó trả lời. “Sẽ chỉ có Icemark thôi, hay lãnh chúa định mở rộng ra với các pháo đài khác nữa?”
“Tôi định cho quân đóng ở tất cả các điểm trong thời gian tới,” Jon nói, “nhưng hiện giờ sẽ tiến hành ở Icemark và Greyguard trước.”
“Vậy ngài đã quyết định ai sẽ chỉ huy ở Greyguard chưa?”
“Janos Slynt,” Jon nói. Xin các vị thần hãy rủ lòng thương. “Một người không phải tự dưng được chỉ huy đội áo choàng vàng nếu không có chút khả năng nào. Slynt là con nhà hàng thịt. Ông ta từng là đội trưởng Cổng Sắt khi Manly Stokeworth chết, và Jon Arryn nâng đỡ ông ta, đặt trách nhiệm bảo vệ Vương Đô vào tay ông ta. Lãnh chúa Janos không thể ngốc như vẻ bề ngoài được.” Và mình muốn ông ta tránh Alliser Thorne càng xa càng tốt.
“Cũng có thể,” Khổng Lồ nói, “nhưng nếu là tôi, tôi sẽ cho ông ta xuống bếp giúp Hobb Ba Ngón thái củ cải.”
Nếu làm thế, ta sẽ chẳng bao giờ dám ăn một miếng củ cải nào nữa.
Cả nửa buổi sáng trôi qua, Lãnh chúa Janos mới xuất hiện theo mệnh lệnh. Jon đang lau thanh Móng Dài. Nhiều người sẽ giao nhiệm vụ đó cho cận vệ hoặc người giúp việc, nhưng Lãnh chúa Eddard đã dạy các con trai ông phải tự chăm sóc cho vũ khí của mình. Khi Kegs và Edd U Sầu tới cùng với Slynt, Jon cảm ơn họ và bảo Lãnh chúa Janos ngồi xuống.
Ông ta làm theo, mặc dù tỏ ra khó chịu, tay khoanh trước ngực, mặt mũi cau có, và làm ngơ trước lưỡi kiếm đã tuốt ra khỏi vỏ trong tay vị tướng chỉ huy của mình. Jon trượt tấm vải dầu trên thanh kiếm to bản, quan sát nắng sớm phản chiếu trên lưỡi kiếm thành những đường gợn sóng lăn tăn và tưởng tượng nó sẽ xén ngọt qua thịt, mỡ và gân để cắt lìa cái đầu xấu xí của Slynt ra khỏi cổ dễ dàng như thế nào. Mọi tội lỗi của một người đàn ông đều được xóa sạch khi anh ta gia nhập đội áo đen, và tất cả các mối liên minh nữa, tuy nhiên anh thấy khó có thể coi Janos Slynt như một người anh em trong hội. Giữa chúng ta có nợ máu. Chính người đàn ông này đã giúp chặt đầu cha ta và từng cố hết sức để gϊếŧ ta.
“Lãnh chúa Janos.” Jon tra kiếm vào vỏ. “Tôi sẽ trao cho ngài quyền chỉ huy ở Greyguard.”
Slynt giật mình ngạc nhiên. “Greyguard… Greyguard là nơi cậu trèo lên Tường Thành với đám bạn du mục của mình ấy hả…”
“Đúng. Tôi công nhận pháo đài đó đang trong tình trạng tồi tệ. Nhưng ngài sẽ làm hết sức để hồi phục nó. Hãy bắt đầu bằng việc dọn dẹp lại khu rừng. Hãy lấy đá từ
những chỗ bị sập để vá vào những chỗ vẫn còn đứng đuợc.” Công việc sẽ khó khăn và nặng nhọc, anh định nói thêm như vậy. Ngài sẽ phải ngủ trên đá, không còn hơi sức đâu mà cằn nhằn hay ủ mưu. Ngài sẽ nhanh chóng quên mất thế nào là ấm áp, nhưng có thể ngài sẽ nhớ lại thế nào là một người đàn ông. “Ngài sẽ có 30 người. 10 người ở đây, 10 người đến từ Tháp Đêm, và 10 người của vua Stannis cho mượn.”
Mặt Slynt chuyển sang màu mận khô. Chiếc hàm mọng thịt của ông ta bắt đầu rung rung. “Ngươi tưởng ta không biết ngươi đang làm gì à? Janos Slynt không dễ bị lừa như thế đâu. Ta được giao nhiệm vụ bảo vệ Vương Đô khi ngươi vẫn còn đang quấn tã. Cứ giữ lấy đống đổ nát của ngươi đi, đồ con hoang.”
Ta đang cho ông một cơ hội đấy, lãnh chúa. Quá nhiều so với những gì ông cho cha ta. “Ngài hiểu lầm tôi rồi, lãnh chúa,” Jon nói. “Đó là mệnh lệnh, không phải câu hỏi. Greyguard cách đây 240 dặm. Hãy gói ghém tư trang và vũ khí, nói lời tạm biệt mọi người và sẵn sàng lên đường vào sáng sớm hôm sau.”
“Không.” Lãnh chúa Janos lảo đảo đứng lên khiến chiếc ghế đổ về phía sau. “Ta sẽ không ngoan ngoãn đến đó để chết trong lạnh lẽo. Con hoang của một tên phản bội không có quyền ra lệnh cho Janos Slynt! Ta không đơn độc đâu, ta cảnh cáo ngươi. Ở đây, và ở Vương Đô nữa. Ta từng là Lãnh chúa của Harrenhal! Hãy đưa cái đống đổ nát đó của ngươi cho mấy thằng ngốc đui mù đã bầu chọn cho ngươi ấy. Ta sẽ không đi đâu. Ngươi nghe chưa, nhóc? Ta sẽ không đến đó!”
“Ông phải đi.”
Slynt không thèm đáp lại mà đá chiếc ghế sang một bên và bỏ đi. Hắn vẫn nghĩ ta là một cậu bé, Jon nghĩ, một thằng nhóc non nớt và sợ hãi trước những lời dọa nạt. Anh chỉ có thể hy vọng một giấc ngủ sẽ khiến Lãnh chúa Janos bình tâm trở lại.
Nhưng sáng sớm hôm sau, hy vọng của anh vẫn chỉ là điều hão huyền.
Jon thấy Slynt đang ăn sáng trong sảnh chung. Ser Alliser Thorne đang ở cùng ông ta, cùng với vài người bạn chí cốt. Họ đang cười đùa về chuyện gì đó khi Jon bước xuống bậc thang cùng Emmett, Edd U Sầu, đằng sau họ là Mully, Ngựa, Jack Crabb Đỏ, Rusty Flowers và Owen Vụng Về. Hobb Ba Ngón đang múc cháo từ nồi ra. Người của hoàng hậu, người của nhà vua và các anh em áo đen đang ngồi ở các bàn khác nhau, một số đang cúi lom khom bên những tô cháo, những người khác đang ăn bánh mỳ nướng với thịt muối. Jon thấy Pyp và Grenn đang ngồi ở một bàn, Bowen Marsh ngồi ở một bàn khác. Không khí toàn mùi khói và mỡ, tiếng dao muỗng chạm vào nhau leng keng vọng lên trần nhà mái vòm.
Tất cả mọi âm thanh im bặt. “Lãnh chúa Janos,” Jon nói. “Tôi cho ông một cơ hội cuối cùng. Bỏ muỗng xuống và ra chuồng ngựa. Tôi đã cho ngựa của ông thắng yên
và buộc dây cương. Quãng đường đến Greyguard dài và khó khăn lắm đấy.”
“Thế thì ngươi phải lên đường sớm đi, nhóc.” Slynt cười phá lên, làm cháo nhỏ xuống ngực. “Ta nghĩ Greyguard là một chỗ tốt cho những kẻ như ngươi. Tránh xa những con người tử tế và ngoan đạo. Ngươi mang phần thú tính nhiều hơn, đồ con hoang.”
“Ông từ chối mệnh lệnh của ta sao?”
“Ngươi có thể dùng cái mệnh lệnh đó chùi đít, đồ con hoang ạ,” Slynt nói, hàm ông ta rung lên.
Alliser Thorne cười mỉm, đôi mắt đen của ông ta nhìn chăm chú vào Jon. Ở một bàn khác, Godry Kẻ Gϊếŧ Người Khổng Lồ bắt đầu cười.
“Được thôi.” Jon gật đầu với Emmett. “Hãy đưa Lãnh chúa Janos lên Tường Thành…”
…Và tống hắn vào ngục băng, anh định nói như vậy. Một hay mười ngày bị nhốt trong ngục băng sẽ khiến hắn run rẩy và phát sốt mà xin được thả ra, Jon dám chắc. Nhưng khi được thả ra, hắn và Thorne sẽ tiếp tục lập mưu.
…Và trói hắn lên ngựa, anh định nói vậy. Nếu Slynt không muốn đến Greyguard theo lệnh thì hắn sẽ chỉ làm lấy lệ. Khi đó việc hắn bỏ trốn chỉ còn là vấn đề thời gian. Và hắn sẽ đem theo bao nhiêu người đào ngũ?
“…Và treo cổ hắn.” Jon kết thúc.
Mặt Janos Slynt trở nên trắng bệch. Chiếc thìa rơi khỏi tay hắn. Edd và Emmett đi dọc căn phòng, tiếng bước chân của họ vang vọng trên nền đá. Miệng Bowen Marsh há ra rồi ngậm lại nhưng không thốt được lời nào. Ser Alliser Thorne đặt tay lên chuôi kiếm. Làm đi, Jon nghĩ. Móng Dài đang lủng lẳng sau lưng anh. Rút kiếm ra đi. Cho ta một cái cớ để làm điều tương tự.
Một nửa số người trong sảnh đứng lên. Các hiệp sĩ và kỵ binh cấp cao từ phương nam, những người trung thành với Stannis hoặc nữ tu đỏ hoặc cả hai, và các anh em thề nguyện trong Đội Tuần Đêm. Một số người đã chọn Jon làm tướng chỉ huy của họ. Những người khác bầu cho Bowen Marsh, Ser Denys Mallister, Cotter Pyke… và một số bầu cho Janos Slynt. Hàng trăm người, theo trí nhớ của ta. Jon tự hỏi có bao nhiêu người trong số đó đang ở trong sảnh vào lúc này. Trong chốc lát, cả thế giới như đang thăng bằng trên lưỡi kiếm.
Alliser Thorne bỏ tay ra khỏi kiếm và tránh sang một bên để Edd Tollett đi qua.
Edd U Sầu giữ một cánh tay Slynt, Emmett giữ tay kia. Hai người họ cùng nhau lôi hắn đứng dậy khỏi ghế. “Không,” Lãnh chúa Janos phản kháng, cháo văng ra từ
miệng hắn. “Không, thả ta ra. Hắn chỉ là một thằng nhóc, một thằng con hoang. Cha hắn là tên phản bội. Hắn có dấu vết của loài thú vật, là con sói của hắn… Thả ta ra! Ngươi sẽ hối hận vì dám động vào Janos Slynt. Ta có bạn bè ở Vương Đô, ta cảnh cáo các ngươi…” Hắn vẫn tiếp tục phản kháng khi bị họ nửa dẫn, nửa kéo lên những bậc cầu thang.
Jon theo họ ra ngoài. Đằng sau anh, căn sảnh trống không. Trong l*иg, Slynt giật tay ra trong vài giây và cố phản kháng, nhưng Emmett giữ lấy cổ hắn và ném lại vào bên trong cho đến khi hắn chịu dừng lại. Lúc này, toàn bộ Hắc Thành đã đổ ra ngoài để chứng kiến. Ngay cả Val cũng xuất hiện bên cửa sổ, mái tóc dài vàng óng được tết lại vắt sang một bên vai. Stannis đứng trên bậc thang dẫn lên Tháp Vua, xung quanh là các hiệp sĩ hộ tống.
“Nếu thằng nhóc tưởng có thể dọa được ta thì nó nhầm rồi,” họ nghe thấy Lãnh chúa Janos nói. “Hắn sẽ không dám treo cổ ta đâu. Janos Slynt có bạn bè, những người bạn rất quan trọng, các ngươi sẽ thấy…” Gió thổi át hết phần còn lại trong câu nói của hắn.
Thế này không đúng, Jon nghĩ. “Dừng lại.”
Emmett quay lưng và nhíu mày. “Thưa lãnh chúa?”
“Ta sẽ không treo cổ hắn,” Jon nói. “Đưa hắn lại đây.”
“Cầu xin Thất Diện Thần bảo vệ chúng ta,” anh nghe thấy Bowen Marsh kêu lên.
Nụ cười của Lãnh chúa Janos Slynt có tất cả sự ngọt ngào của món bơ ôi. Cho đến khi Jon nói, “Edd, đưa cho tôi cái thớt,” và lôi thanh Móng Dài ra.
Cho đến khi một cái thớt chặt đầu phù hợp được đem đến, Lãnh chúa Janos đã lui vào bên trong chiếc l*иg kéo, nhưng Emmett vào theo và kéo hắn ra. “Không,” Slynt hét lên khi Emmett vừa đẩy vừa kéo hắn đi dọc khoảnh sân. “Bỏ ta ra… ngươi không thể… khi Tywin Lannister nghe tin này, tất cả các ngươi sẽ hối hận…”
Emmett đá vào khoeo chân hắn. Edd U Sầu đặt một chân lên lưng hắn để giữ hắn quỳ trong khi Emmett đẩy chiếc thớt vào bên dưới đầu hắn. “Nếu ngươi chịu nằm im thì mọi thứ sẽ rất nhanh gọn,” Jon Snow hứa hẹn. “Còn nếu cử động để tránh nhát chém, ngươi sẽ vẫn chết, nhưng sẽ khó coi hơn nhiều. Hãy giơ cổ ra, thưa lãnh chúa.” Ánh nắng nhàn nhạt của buổi sớm chiếu dọc lên lưỡi kiếm khi Jon nắm chặt chuôi thanh đại kiếm bằng cả hai tay và giơ lên cao. “Nếu ngươi có lời cuối nào muốn nói thì giờ là lúc đấy,” Jon nói và chờ đợi một câu chửi rủa cuối cùng.
Janos Slynt xoay đầu để liếc nhìn anh. “Xin lãnh chúa. Xin ngài tha mạng. Tôi sẽ… Tôi sẽ đi, tôi sẽ…”
Không, Jon nghĩ. Ngươi đã tự đóng cánh cửa đó rồi. Và thanh Móng Dài giáng xuống. “Tôi lấy đôi giày của hắn được không?” Owen Vụng Về hỏi khi đầu Janos Slynt lăn lông lốc trên mặt đất đầy bùn. “Chúng hầu như còn mới nguyên. Lại còn được viền lông nữa.”
Jon liếc nhìn Stannis. Trong một khoảnh khắc ánh mắt họ chạm nhau. Sau đó nhà vua gật đầu và quay vào trong tháp.