Con sói trắng chạy như bay qua cánh rừng đen thẳm bên dưới một vách núi xám cao vυ"t. Mặt trăng cũng chạy theo nó, trôi bồng bềnh qua những cành cây khẳng khiu trụi lá trên đầu và bầu trời đầy sao.
“Snow,” mặt trăng thì thầm. Con sói không trả lời. Tuyết kêu lạo xạo bên dưới móng nó. Gió nhẹ thổi qua những thân cây.
Xa xa, con sói nghe thấy cả tiếng bầy đàn của mình đang hú gọi lẫn nhau. Chúng cũng đang đi săn. Một cơn mưa dữ dội trút xuống lưng người anh em màu đen của nó khi đang xé thịt một con dê, chùi máu ở bên mép khi chiếc sừng dài của con dê làm nó bị thương. Ở một nơi khác, em gái nhỏ của nó ngẩng đầu và hát với mặt trăng, hàng trăm con sói xám nhỏ bỏ cuộc đi săn để hòa giọng với con sói cái. Những quả đồi nơi trước đây chúng ở ấm hơn và thức ăn cũng phong phú hơn. Nhiều đêm đàn của em gái nó ngấu nghiến thịt cừu, bò và ngựa, những con mồi của loài người. Và thỉnh thoảng, chúng ăn cả thịt người nữa.
“Snow,” mặt trăng lại gọi xuống lần nữa và cười khúc khích. Con sói trắng theo dấu đoàn người bên dưới vách đá đóng băng. Vị máu vẫn còn vương trong miệng nó, và tai nó vang lên bài ca của hàng trăm anh em sói trong đàn. Trước kia bọn họ từng có sáu con, năm con non còn chưa mở mắt nằm trong đống tuyết bên xác mẹ chúng, miệng mυ"ŧ sữa từ những đầṳ ѵú của con mẹ đã chết cứng đờ, trong khi chỉ có nó lẻ loi một mình. Giờ họ chỉ còn có bốn… con sói trắng không cảm nhận được sự tồn tại của con còn lại nữa.
“Snow,” mặt trăng nhắc đi nhắc lại.
Con sói trắng bỏ đoàn và chạy về phía hang động tối đen nơi mặt trời luôn khuất bóng, hơi thở của nó phả ra khói trắng trong không gian. Những đêm không trăng, vách đá tối đen như mực, thứ bóng tối đặc quánh bao trùm cả thế giới mênh mông, nhưng khi trăng lên, ánh trăng sáng lấp lánh màu xám bạc trông như một dòng sông băng. Lông con sói dày và bông xù, nhưng chẳng bộ lông nào có thể giúp xua đi cái ớn lạnh khi gió thổi trên mặt băng vi vυ"t. Gió cũng ngày một lạnh hơn, con sói cảm nhận được sự thay đổi đó. Đó là nơi em trai nó từng ở, người anh em màu xám có mùi của mùa hè.
“Snow.” Một trụ băng rớt xuống từ trên cành cây. Con sói trắng quay đầu và nhe nanh. “Snow!” Lông nó dựng lên phẫn nộ, hình ảnh cánh rừng tan dần xung quanh. “Snow, snow, snow!” Nó nghe thấy tiếng đập cánh. Một con quạ bay trong không gian xám xịt.
Con quạ đậu lên ngực Jon Snow với một tiếng thuỵch và tiếng móng cào sột soạt.
“SNOW!” nó hét vào mặt anh.
“Tao nghe thấy rồi.” Căn phòng tối lờ mờ, tấm ván anh nằm cứng ngắc. Ánh sáng màu xám len lỏi vào qua những khe cửa chớp, hứa hẹn một ngày lạnh lẽo và ảm đạm nữa. “Đây là cách mày vẫn đánh thức Mormont sao? Nhấc đám lông của mày ra khỏi mặt tao mau.” Jon rút một tay ra khỏi chăn và đẩy con quạ xuống. Đó là một con chim lớn, già nua, trơ tráo, lôi thôi lếch thếch và hoàn toàn không biết sợ là gì. “Snow,” nó gọi và đập cánh vào cột giường. “Snow, snow.” Jon vơ lấy một cái gối và ném, nhưng con chim đập cánh bay lên không trung. Chiếc gối đập vào tường và bung ra, những thứ nhồi bên trong bay tung tóe khắp mọi nơi. Đúng lúc đó, Edd Tollett U Sầu ở cửa ló đầu vào. “Thưa ngài,” anh ta nói, chẳng mảy may đếm xỉa gì đến đám lông vũ vương vãi tứ tung, “tôi đem đồ ăn sáng lên cho ngài nhé?”
“Ngô,” con quạ hét lên. “Ngô, ngô.”
“Món quạ nướng đi,” Jon gợi ý. “Và nửa panh bia nữa.” Anh vẫn cảm thấy lạ lẫm khi có người phục vụ mang đồ ăn đến cho mình; cách đây không lâu, anh là người mang đồ ăn sáng đến cho tướng chỉ huy Mormont.
“Ba bắp ngô và một con quạ nướng,” Edd U Sầu nói. “Được ạ, thưa tướng chỉ huy, chỉ có điều Hobb đã chuẩn bị trứng luộc, xúc xích đen và táo hầm mận khô. Món táo hầm mận rất xuất sắc, nhưng trừ mận khô ra. Tôi cũng không ăn mận khô. Có một lần Hobb băm chúng lẫn với hạt dẻ, cà rốt và giấu vào trong một con gà mái. Đừng tin tưởng một đầu bếp nào. Họ sẽ bắt ngài ăn mận khô khi ngài ít lường tới nhất.”
“Để sau đi.” Bữa sáng có thể ăn lúc nào cũng được, Stannis thì không. “Đêm qua ngoài rào chắn có vấn đề gì không?”
“Ngài đã cắt cử mấy lớp lính gác nên không có vấn đề gì cả.”
“Tốt.” Hàng ngàn dân du mục đang bị nhốt trong Tường Thành, họ là những tù binh mà Stannis Baratheon bắt được khi các hiệp sĩ của ông ta đập tan đội quân chắp vá của Mance Rayder. Rất nhiều tù binh là phụ nữ, và một số lính canh đã lén bắt họ về ủ ấm giường mỗi đêm. Người của nhà vua, người của hoàng hậu, tất cả đều như nhau, một số anh em áo đen cũng tham gia trò đó. Đàn ông dù thế nào vẫn là đàn ông, và họ là những phụ nữ duy nhất trong vòng mấy ngàn dặm xung quanh.
“Hai tên du mục nữa đến đầu hàng,” Edd tiếp tục. “Một người mẹ với đứa con gái bám đằng sau váy. Cô ta còn một đứa con trai bọc kín trong da lông thú nữa, nhưng thằng bé đã chết.”
“Chết,” con quạ nói. Đó là một trong những từ yêu thích của nó. “Chết, chết, chết.”
Đêm nào cũng có dân du mục dạt đến Tường Thành, những kẻ chết đói và gần như đông cứng vì giá lạnh, họ bỏ chạy khỏi cuộc chiến dưới chân Tường Thành để rồi bò trở lại khi nhận ra chẳng có nơi nào an toàn để đi. “Đã tra khảo người mẹ chưa?” Jon hỏi. Stannis Baratheon đập tan đội quân của Mance Rayder và bắt Vua-Bên-Ngoài-Tường-Thành làm tù binh… nhưng đám dân du mục vẫn còn ở ngoài đó, Khóc Lóc, Tormund Giantsbane và hàng nghìn tên nữa.
“Rồi ạ, thưa ngài,” Edd nói, “nhưng tất cả những gì cô ta biết chỉ là cô ta đã bỏ chạy trong trận chiến và sau đó ẩn nấp trong rừng. Chúng tôi cho cô ta ăn cháo no nê, đưa vào ở trong bãi rào và hỏa táng đứa bé.”
Việc đốt xác lũ trẻ không còn là mối bận tâm của Jon Snow, mà những đứa còn sống mới là vấn đề. Cần hai vị vua để đánh thức những con rồng. Cha trước sau đó đến con, như vậy cả hai đều sẽ chết khi đang là vua. Người của hoàng hậu đã rỉ tai nhau tin đó khi Maester Aemon rửa vết thương cho họ. Jon đã cố chỉ coi đó là những lời nói nhảm trong lúc sốt cao, nhưng Aemon phản đối. “Dòng máu đế vương có quyền năng riêng của nó,” vị học sĩ già cảnh báo, “và những người tốt hơn Stannis từng làm những việc xấu xa hơn cả thế này.” Nhà vua có thể nghiêm khắc và không khoan nhượng, đúng, nhưng một đứa trẻ còn đang bú mẹ thì sao? Chỉ có quái vật mới ném một đứa trẻ còn sống khỏe mạnh vào ngọn lửa.
Jon tiểu vào chiếc bình tiểu trong bóng tối, trong khi con quạ của Gấu Già lầm bầm ca thán. Những giấc mơ sói gần đây trở nên sống động hơn, và anh vẫn nhớ như in khi tỉnh dậy. Bóng Ma biết Gió Xám đã chết. Robb đã chết ở Song Thành vì bị phản bội bởi chính những người anh tưởng là bè bạn. Con sói cũng chết cùng anh. Bran và Rickon cũng đã bị chặt đầu theo mệnh lệnh của Theon Greyjoy, kẻ từng được cha anh bảo hộ… Nhưng nếu giấc mơ là thật thì hai con sói tuyết của họ đã trốn thoát. Ở Vương Miện Nữ Hoàng, một con đã lao ra từ bóng tối và cứu mạng Jon. Mùa Hè, chắc hẳn đó là Mùa Hè. Bộ lông của nó có màu xám, còn của Lông Xù có màu đen. Anh tự hỏi liệu phần nào ý thức của hai em trai anh vẫn sống trong những con sói hay không?
Anh đổ nước từ chiếc bình bên cạnh giường vào chậu, rửa mặt, rửa tay, mặc một bộ quần áo đen bằng len, buộc dây chiếc áo choàng da màu đen và xỏ chân vào đôi bốt mòn vẹt. Con quạ của Mormont quan sát anh bằng đôi mắt đen lanh lợi, sau đó vỗ cánh bay tới cửa sổ. “Mày tưởng tao là nô ɭệ của mày hả?” Khi Jon mở cửa sổ với những khung kính hình thoi màu vàng, không khí lạnh buổi sớm tạt thẳng vào mặt. Anh hít một hơi để xua hết cảm giác ngái ngủ trong khi con quạ bay ra ngoài. Con vật đó khôn ngoan đến độ phiền phức. Nó từng là bạn đồng hành của Gấu Già trong suốt nhiều năm, vậy mà điều đó cũng không thể ngăn con vật ăn mặt Mormont khi ông chết.
Bên ngoài phòng ngủ của anh là một nhịp cầu thang dẫn xuống căn phòng lớn kê chiếc bàn gỗ thông khắc và một tá ghế bằng gỗ sồi và da. Vì Stannis ở Tháp Vua và Tháp Tướng Chỉ Huy đã bị cháy trụi nên Jon tự sắp xếp cho mình một số căn phòng khiêm tốn nhất của Donal Noye đằng sau xưởng rèn vũ khí. Trong thời gian tới, chắc chắn anh sẽ cần một nơi rộng rãi hơn, nhưng trước mắt, trong khi anh đang làm quen với chức chỉ huy thì nơi này cũng tạm ổn.
Bản khế ước đức vua trao cho anh ký đang nằm trên bàn, bên dưới chiếc cốc bạc từng thuộc về Donal Noye. Người thợ rèn một tay để lại một số vật dụng cá nhân: chiếc cốc, sáu xu lẻ và một xu đồng, một chiếc trâm gài khảm men bị gãy móc cài, một chiếc áo chẽn mốc bằng vải thêu kim tuyến mang hình con hươu đực của Storm’s End. Kho báu của ông là đống công cụ cùng những thanh kiếm và dao găm rèn được. Ông đã sống cả cuộc đời trong lò rèn. Jon để chiếc cốc sang bên cạnh và đọc tấm giấy da một lần nữa. Nếu đóng dấu lên đây, người đời sẽ mãi mãi nhớ đến ta như một tướng chỉ huy trao Tường Thành vào tay kẻ khác, anh nghĩ, nhưng nếu ta không đồng ý…
Stannis Baratheon đang chứng minh bản thân là một vị khách hay cáu giận và không ngồi yên được phút nào. Ông ta cũng từng cưỡi ngựa trên vương lộ như người của hoàng hậu và băng qua những dãy nhà tồi tàn trống huếch của thị trấn Mole, kiểm tra những pháo đài đổ nát ở Cổng Nữ Hoàng và Oakenshield. Đêm nào ông cũng đi dạo trên đỉnh Tường Thành với quý cô Melisandre, và mỗi ngày ông đều tới thăm khu rào chắn, chọn ra các tù binh để nữ tu đỏ tra hỏi. Ông ta không bao giờ chịu ngồi yên một chỗ. Hẳn sẽ là một buổi sáng không mấy dễ chịu, Jon lo ngại.
Từ kho vũ khí có tiếng khiên và kiếm va vào nhau leng keng. Các cậu bé mới được tuyển vào đang tự trang bị giáp và vũ khí. Anh nghe thấy tiếng Emmett Sắt thúc giục họ khẩn trương. Cotter Pyke không vui vẻ gì khi để mất một tay kiếm như vậy, nhưng người lính biệt kích trẻ đặc biệt có khả năng huấn luyện quân. Anh ta thích chiến đấu, và anh ta sẽ dạy lũ nhóc yêu thích đánh nhau. Hoặc là anh hy vọng như vậy.
Chiếc áo choàng của Jon đang treo trên một cái móc cạnh cửa, đai đeo kiếm treo ở một cái móc khác. Anh mặc cả hai lên người và đi về phía kho vũ khí, thấy tấm thảm nơi Bóng Ma nằm ngủ đã trống không. Hai lính gác đứng phía trong cửa, trên người mặc áo choàng đen và mũ sắt nửa đầu, giáo cầm trên tay. “Ngài có cần tùy tùng không?” Garse hỏi.
“Ta nghĩ ta có thể tự tìm đường đến Tháp Vua.” Jon không thích lính canh đi theo anh khắp mọi nơi. Nó khiến anh có cảm giác như mình là con vịt mẹ dẫn một đàn vịt con lóc nhóc theo sau.
Các cậu bé của Emmett Sắt đều đang ở trong sân, tiếng kiếm cùn chém vào khiên và
chém vào nhau loảng xoảng. Jon dừng lại xem một lúc trong khi Ngựa đẩy Hop-Robin lùi về sát tận miệng giếng. Ngựa có thiên hướng trở thành một chiến binh giỏi, Jon nghĩ. Anh ta vốn đã khỏe mạnh và ngày càng khỏe mạnh hơn, trực giác của anh ta cũng rất tốt. Hop-Robin lại là chuyện khác. Bị khoèo chân đã đủ tồi tệ, anh ta lại còn sợ bị đánh. Chúng ta có thể để anh ta làm người phục vụ. Cuộc chiến đột ngột kết thúc, với Hop-Robin nằm trên sàn.
“Đánh tốt lắm,” Jon nói với Ngựa, “nhưng cậu để khiên quá thấp khi tấn công, cần phải sửa đi, nếu không sơ hở đó có thể gϊếŧ chết cậu đấy.”
“Vâng, thưa lãnh chúa. Lần sau tôi sẽ chú ý cầm khiên cao hơn.” Ngựa kéo Hop-Robin đứng dậy, cậu bé nhỏ hơn vụng về cúi chào.
Một vài hiệp sĩ của Stannis đang tập kiếm ở đầu bên kia của khoảnh sân. Jon để ý thấy người của nhà vua đứng một góc và người của hoàng hậu một góc, nhưng không nhiều. Thời tiết quá lạnh giá đối với hầu hết bọn họ. Khi anh đi qua, một giọng ồm ồm vang lên phía sau. “NHÓC! CẬU ĐÂY RỒI! NHÓC!”
Nhóc không phải là từ tệ nhất Jon được nghe kể từ khi được chọn làm tướng chỉ huy. Anh vờ như không nghe thấy.
“Snow,” giọng nói tiếp tục, “Tướng Chỉ Huy.” Lần này anh dừng lại. “Có chuyện gì vậy ser?”
Vị hiệp sĩ cao hơn anh 15 phân. “Một người đàn ông mang kiếm thép Valyria cần sử dụng nó thường xuyên hơn, thay vì chỉ để gãi mông như vậy.”
Jon đã nhìn thấy người này quanh lâu đài − một hiệp sĩ khá tiếng tăm, theo những gì ông ta tự nói về mình. Trong trận đấu bên dưới Tường Thành, Ser Godry Farring đã gϊếŧ chết một tên khổng lồ khi hắn đang tháo chạy, đánh hắn từ phía sau trên lưng ngựa và đâm ngọn giáo vào lưng hắn, sau đó xuống ngựa và chặt cái đầu nhỏ xíu tội nghiệp của hắn ra khỏi cổ. Người của hoàng hậu gọi ông ta là Godry Kẻ Gϊếŧ Người Khổng Lồ.
Jon nhớ đến hình ảnh Ygritte đang khóc. Ta là người khổng lồ cuối cùng. “Ta dùng Móng Dài khi nào cần thiết, thưa ser.”
“Nhưng giỏi đến đâu?” Ser Godry rút kiếm ra. “Cho chúng ta xem nào. Ta hứa sẽ không làm cậu đau đâu, anh bạn trẻ ạ.”
Tốt bụng quá nhỉ. “Lúc khác đi, ser. Ta e là có nhiều việc đang cần ta giải quyết.”
“Ta thấy cậu đang sợ hãi.” Ser Godry cười nhăn nhở với đám bạn. “Cậu ta sợ,” ông ta nhắc lại lần nữa, cho những ai còn chưa nghe rõ.
“Xin phép ser.” Jon quay lưng bỏ đi.
Hắc Thành dường như lạnh lẽo và hoang vắng hơn trong ánh nắng nhợt nhạt của bình minh. Lãnh địa của ta, Jon Snow buồn rầu nghĩ, một pháo đài đổ nát hoang tàn. Tháp Chỉ Huy chỉ còn lớp vỏ, Sảnh Chung là một đống gỗ cháy đen, còn tháp Hardin dường như chỉ cần một cơn gió thổi qua cũng có thể đổ sập… tuy nhiên suốt bao năm nay trông chúng vẫn như vậy. Đằng sau chúng là bức Tường Thành: đồ sộ, gớm ghiếc và lạnh lẽo. Trên Tường Thành đám thợ đang hối hả dựng những bậc thang mới quanh co để nối vào phần còn lại của chiếc thang hỏng. Họ làm việc từ sáng đến tối. Không có thang, họ chỉ có thể dùng ròng rọc để lêи đỉиɦ Tường Thành. Và như vậy sẽ vô cùng bất tiện nếu bọn du mục tấn công lần nữa.
Trên đỉnh Tháp Vua, lá cờ chiến màu vàng vĩ đại của Nhà Baratheon bay lật phật nghe như tiếng roi quất vào không khí. Cách đây không lâu, Jon Snow còn lảng vảng trên đó cùng Sa - tanh và Dick Follard Điếc, với cây cung trong tay, họ bắn vào đám người Thenn và dân du mục. Hai người của hoàng hậu đang đứng run rẩy trên cầu thang, họ dúi tay vào nách và dựng giáo lên cánh cửa. “Mấy đôi găng tay vải đó chẳng có tác dụng gì đâu,” Jon bảo họ. “Ngày mai hãy đến gặp Bowen Marsh, ông ta sẽ cho mỗi người một đôi găng tay da viền lông thú.”
“Vâng, thưa lãnh chúa, cảm ơn ngài,” tên lính canh già hơn nói.
“Đấy là nếu tay chúng tôi chưa bị đông cứng lại,” tên lính trẻ hơn nói, hơi thở bốc thành khói xám trong không khí. “Tôi cứ tưởng vùng March của Dorne đã lạnh lắm rồi. Đúng là tôi chẳng biết gì cả.”
Không sao, Jon Snow nghĩ, ta cũng vậy mà.
Nửa đường trèo lên những bậc thang xoắn ốc, anh chạm mặt Samwell Tarly đang đi xuống. “Cậu vừa từ chỗ nhà vua xuống à?” Jon hỏi.
“Maester Aemon bảo tôi đưa một lá thư.”
“Vậy à.” Một số lãnh chúa tin tưởng vào ngài học sĩ của mình và để cho họ đọc lá thư rồi truyền đạt lại, nhưng Stannis luôn muốn tự mình mở niêm phong. “Stannis phản ứng thế nào?”
“Trông mặt thì không thấy vui vẻ gì.” Sam hạ giọng thành tiếng thì thầm. “Tôi không có quyền nói về chuyện này.”
“Vậy thì thôi.” Jon tự hỏi lần này chư hầu nào của cha anh từ chối lời kêu gọi của vua Stannis. Lần trước anh nhận được tin ngay lập tức khi Karhold tuyên bố thần phục. “Cậu làm quen với cây cung dài đến đâu rồi?”
“Tôi vừa tìm thấy một cuốn sách rất hay về thuật bắn cung.” Sam nhíu mày. “Nhưng
làm thật khó hơn đọc nhiều. Tay tôi rộp hết cả lên rồi.”
“Cố gắng lên. Chúng ta có thể cần tay cung của cậu trên Tường Thành nếu một đêm nào đó bọn Ngoại Nhân xuất hiện.”
“Ôi, hy vọng chuyện đó sẽ không xảy ra.”
Thêm nhiều lính gác nữa đứng trước cửa phòng của nhà vua. “Không được mang vũ khí khi vào gặp nhà vua, thưa lãnh chúa,” tên đội trưởng nói. “Tôi sẽ giữ thanh kiếm đó. Cả dao nữa.” Jon biết phản kháng cũng chẳng được tích sự gì. Anh giao vũ khí cho họ.
Trong căn phòng, không khí ấm áp hơn. Quý cô Melisandre đang ngồi gần lò sưởi, viên ruby trên cổ cô ta sáng lấp lánh trên làn da trắng nhợt. Ygritte đã phải nhận nụ hôn của lửa; nữ tu đỏ là lửa, và tóc của cô ta cũng là lửa và máu. Stannis đứng sau chiếc bàn đẽo sơ sài nơi Gấu Già vẫn hay ngồi dùng bữa. Phủ kín chiếc bàn là một tấm bản đồ phương bắc được vẽ trên tấm giấy da rách rưới. Một cây nến mỡ chặn lên một đầu tấm bản đồ, một chiếc găng tay da chặn phía bên kia.
Nhà vua mặc quần ống túm lông cừu và áo chẽn bông chần, nhưng chẳng hiểu sao trông ông vẫn cứng ngắc như thể đang mặc cả bộ áo giáp trên người. Da ông xám ngoét như da thuộc, bộ râu được cắt ngắn đến nỗi trông như vẽ vào. Mái tóc đen của ông chỉ còn lại một vành mỏng chạy từ hai thái dương ra sau đầu. Trong tay ông là một tấm giấy da với dấu niêm phong bằng mực xanh đậm đã bị bẻ gãy.
Jon quỳ một gối. Nhà vua nhíu mày nhìn anh và bóp tấm giấy da loạt soạt với vẻ giận dữ. “Đứng dậy đi. Nói ta nghe Lyanna Mormont là ai?”
“Một trong các con gái của phu nhân Maege, thưa đức vua. Đứa bé nhất. Cô bé được đặt tên theo tên em gái của cha thần.”
“Để được cha ngươi nâng đỡ và yêu quý đúng không. Ta biết cái trò đó mà. Con bé đáng ghét đó bao nhiêu tuổi rồi?”
Jon phải suy nghĩ một lúc. “Mười. Hoặc là gần 10 tuổi. Thần xin phép hỏi cô bé đã làm gì mạo phạm đến ngài vậy?”
Stannis đọc lá thư. “Đảo Gấu không chấp nhận một vị vua nào trừ Vua Phương Bắc là STARK. Một con bé 10 tuổi, theo những gì ngươi nói, và cô ta dám mắng vị vua đích thực của mình như vậy.” Bộ râu ngắn ngủn trông như một vệt tối trên đôi má hóp của ông. “Đừng để những tin tức này lan ra ngoài, Lãnh chúa Snow. Karhold là của ta, mọi người chỉ cần biết vậy là được. Ta sẽ không để các anh em buôn chuyện về một con bé dám phỉ nhổ vào mặt ta.”
“Xin tuân lệnh ngài.” Jon biết Maege Mormont đã cưỡi ngựa về phương nam cùng
Robb. Con gái cả của bà cũng gia nhập đội quân của Sói Trẻ. Tuy nhiên, ngay cả khi hai người họ đều đã qua đời, phu nhân Maege vẫn còn những người con gái khác, một số người đã có con cái. Không biết họ có gia nhập đội quân của Robb hay không? Chắc chắn phu nhân Maege phải để ít nhất một đứa con lớn ở lại làm người quản thành. Anh không hiểu tại sao Lyanna lại viết thư cho Stannis, và tự hỏi câu trả lời của cô bé liệu có khác đi không nếu bức thư gửi đi được đóng dấu hình sói tuyết chứ không phải con hươu đội vương miện, và được ký bởi Jon Stark, Lãnh chúa của Winterfell. Nhưng dù sao cũng đã quá muộn rồi. Ngươi đã đưa ra quyết định.
“Chúng ta gửi đi hơn hai mươi con quạ,” nhà vua phàn nàn, “vậy mà câu trả lời chỉ là sự im lặng và phản đối. Mỗi bề tôi trung thành có trách nhiệm phải tỏ lòng thành kính với nhà vua. Vậy mà người của cha ngươi lại đồng loạt quay lưng lại với ta, trừ Nhà Karstark. Chẳng nhẽ cả phương bắc chỉ có mỗi Arnolf Karstark là có danh dự thôi sao?”
Arnolf Karstark là chú của Lãnh chúa Rickard quá cố. Ông ta được phong làm người quản thành Karhold sau khi cháu và các con trai ông đi về miền nam với Robb, ông là người đầu tiên hồi đáp lời kêu gọi thần phục của vua Stannis bằng cách gửi quạ tuyên bố lòng trung thành với nhà vua. Nhà Karstark không có lựa chọn nào khác, Jon suýt thốt lên như vậy. Rickard Karstark đã phản bội sói tuyết và tay cũng vấy máu của sư tử. Hươu đực là niềm hy vọng duy nhất của Karhold. “Trong thời buổi nhiễu nhương thế này, ngay cả những người có thanh danh cao ngút cũng chẳng biết nên đi theo ai. Ngài không phải là vị vua duy nhất trên vương quốc này kêu gọi thần phục.”
Quý cô Melisandre khıêυ khí©h. “Hãy nói ta nghe, Lãnh chúa Snow… khi lũ du mục tấn công Tường Thành của cậu thì các vị vua khác ở đâu?”
“Cách xa hàng ngàn dặm và không hề biết chúng ta đang cần gì,” Jon trả lời. “Tôi chưa bao giờ quên điều đó, thưa quý cô. Và tôi sẽ không bao giờ quên. Nhưng các chư hầu của cha tôi còn có vợ con cần phải bảo vệ, và dân đen sẽ phải chết nếu họ chọn nhầm đường. Đức vua đòi hỏi ở họ quá nhiều. Hãy cho họ thời gian, và họ sẽ cho ngài câu trả lời.”
“Những câu trả lời như thế này đúng không?” Stannis vo lá thư của Lyanna lại trong tay.
“Ngay cả những người phương bắc cũng sợ cơn giận dữ của Tywin Lannister. Nhà Bolton cũng là kẻ thù đáng gờm. Không phải ngẫu nhiên mà cờ của họ có hình người bị lột da. Người phương bắc hành quân cùng Robb, đổ máu và hy sinh vì anh ấy. Họ nếm trải đắng cay, chết chóc, và giờ ngài đến đề nghị họ nếm chúng một lần nữa. Ngài có trách họ nếu họ trốn tránh không? Xin đức vua thứ lỗi, nhưng một số người sẽ chỉ coi ngài là một kẻ yêu sách thất bại nữa mà thôi.”
“Nếu nhà vua thất bại, cả vương quốc của ngài cũng sẽ sụp đổ theo,” quý cô Melisandre nói. “Hãy nhớ lấy điều đó, Lãnh chúa Snow. Người đang đứng trước mặt cậu là vị vua thực thụ duy nhất của Westeros.”
Mặt Jon không biến sắc. “Vâng, thưa quý cô.”
Stannis khịt mũi. “Ngươi nói như thể mỗi lời của ngươi đều đáng giá một đồng rồng vàng vậy. Ta tự hỏi ngươi có bao nhiêu vàng thế?”
“Vàng?” Đó có phải là những con rồng mà nữ tu đỏ muốn đánh thức không? Rồng làm bằng vàng ấy à? “Chúng thần thu thuế bằng hiện vật thưa bệ hạ. Đội Tuần Đêm giàu củ cải nhưng nghèo tiền bạc.”
“Có vẻ Salladhor Saan sẽ không thích củ cải đâu. Ta muốn có vàng hoặc bạc.”
“Thế thì ngài phải đến Cảng White. Thành phố đó không thể so với Oldtown hay Vương Đô, nhưng đó vẫn là một bến cảng giàu có nhộn nhịp. Lãnh chúa Manderly là người giàu nhất trong số các chư hầu của cha thần.”
“Lãnh chúa Béo-Quá-Không-Cưỡi-Được-Ngựa đó hả?” Bức thư mà Lãnh chúa Wyman Manderly gửi lại từ Cảng White đã cho thấy tuổi tác và sự yếu đuối của ông, thậm chí nhiều hơn thế nữa. Stannis cũng đã yêu cầu Jon không được nói về điều đó.
“Có thể ông ta muốn có một người vợ du mục chăng,” quý cô Melisandre nói. “Ông già béo đó đã lấy vợ chưa, Lãnh chúa Snow?”
“Vợ ông ấy đã chết lâu rồi. Lãnh chúa Wyman có hai người con trai trưởng thành, và một cháu nội con của người con cả. Và đúng là ông ta quá béo đến nỗi không cưỡi nổi ngựa, ít nhất là 190 cân. Val sẽ không bao giờ chịu lấy ông ta.”
“Ngươi có thể cố đưa ra câu trả lời khiến ta hài lòng một lần được không, Lãnh chúa Snow?” Nhà vua gầm gừ.
“Thần chỉ hy vọng sự thật sẽ khiến ngài hài lòng, thưa đức vua. Người của ngài có thể gọi Val là công chúa, nhưng với dân du mục cô ta chỉ là em gái người vợ quá cố của nhà vua. Nếu bị ép phải lấy một người cô ta không mong muốn, nhiều khả năng cô ta sẽ cắt cổ ông ấy trong đêm tân hôn. Ngay cả khi cô ta chấp nhận người chồng đó thì cũng không có nghĩa là đám du mục sẽ đi theo ông ta, hoặc theo ngài. Người duy nhất có thể khiến họ đi theo ngài là Mance Rayder.”
“Ta biết chứ,” Stannis buồn rầu. “Ta đã dành nhiều giờ đồng hồ nói chuyện với hắn. Hắn biết rất nhiều về kẻ thù thực sự của chúng ta, và ta cũng đảm bảo với ngươi là có vẻ gì đó rất xảo trá trong con người hắn. Tuy nhiên, ngay cả khi từ bỏ tước vị của mình thì hắn vẫn là một tên phản bội. Để một tên phản bội sống nghĩa là khuyến khích những kẻ khác phá vỡ lời thề. Không thể được. Luật pháp không làm bằng sắt,
nhưng cũng không phải là bánh pudding. Mance Rayder đáng tội chết theo mọi luật pháp của Bảy Phụ Quốc.”
“Luật pháp kết thúc ở Tường Thành, thưa đức vua. Ngài có thể tận dụng Mance.”
“Ta vẫn định như vậy. Ta sẽ thiêu hắn, và người phương bắc sẽ thấy ta xử lý những kẻ lật lọng và tạo phản như thế nào. Ta có những người khác dẫn dắt đám dân du mục. Ta còn có con trai của Rayder nữa, đừng quên điều đó. Một khi người cha chết, con ông ta sẽ trở thành Vua-Bên-Ngoài-Tường-Thành.”
“Ngài nhầm rồi.” Anh chẳng biết gì cả, Jon Snow, Ygritte vẫn thường nói như vậy. Nhưng anh đã học được nhiều điều. “Đứa bé không còn là hoàng tử, cũng như Val không phải là công chúa. Một người không thể trở thành Vua-Bên-Ngoài-Tường-Thành chỉ vì cha nó là vua.”
“Tốt,” Stannis nói, “vì ta sẽ không chấp nhận một vị vua nào khác trên khắp Westeros. Ngươi đã ký tờ khế ước chưa?”
“Chưa, thưa ngài.” Giờ đã đến lúc rồi. Jon nắm bàn tay bị bỏng lại rồi mở chúng ra. “Ngài đòi hỏi nhiều quá.”
“Đòi hỏi ư? Ta mời ngươi làm lãnh chúa Winterfell và người bảo hộ phương bắc. Ta yêu cầu những tòa lâu đài.”
“Chúng thần đã nhượng lại cho ngài Pháo Đài Đêm.”
“Một đống đổ nát toàn chuột. Quả là một món quà keo kiệt mà tặng xong ngươi cũng chẳng mất gì. Chính Yarwyck người của ngươi nói sẽ phải mất nửa năm tòa lâu đài mới có thể ở được.”
“Những pháo đài khác cũng chẳng khá khẩm hơn.”
“Ta biết. Nhưng không vấn đề gì. Đó là tất cả những gì chúng ta có. Có tổng cộng mười chín pháo đài dọc theo Tường Thành, và ngươi chỉ có quân đóng tại ba trong số đó. Ta muốn có quân đồn trú đóng trong mọi pháo đài trước khi sang năm mới.”
“Thần không phản đối chuyện đó, thưa đức vua, nhưng nghe nói ngài muốn tặng những tòa lâu đài đó cho các hiệp sĩ và lãnh chúa để họ làm lãnh địa và trở thành chư hầu của bệ hạ.”
“Vua cần phải hào phóng với những người đi theo mình. Lãnh chúa Eddard không dạy dỗ cậu con hoang của ông ta điều gì sao? Rất nhiều hiệp sĩ và lãnh chúa của ta đã bỏ lại những vùng đất màu mỡ và lâu đài vững chãi ở phương nam. Chẳng nhẽ lòng trung thành của họ không được ban thưởng gì sao?”
“Nếu ngài muốn đánh mất toàn bộ số chư hầu của cha thần thì không còn cách nào
chắc chắn hơn việc trao các lâu đài phương bắc cho các lãnh chúa phương nam.”
“Làm sao ta có thể mất những gì ta không có? Ta vốn định tặng Winterfell cho một người phương bắc, ngươi vẫn nhớ chứ. Một người con của Eddard Stark. Nhưng hắn lại ném trả lòng tốt đó vào mặt ta.” Stannis Baratheon khi giận dữ trông giống hệt một con chó ngao đang gặm một khúc xương, nhai nát nó thành từng mảnh.
“Theo luật thì Winterfell phải thuộc về em gái Sansa của thần.”
“Ý ngươi là phu nhân Lannister ấy hả? Ngươi háo hức muốn được thấy quỷ lùn ngồi chễm chệ lên chiếc ghế của cha ngươi lắm rồi, đúng không? Ta hứa với ngươi, điều đó sẽ không bao giờ xảy ra một khi ta còn sống, Lãnh chúa Snow.”
Jon biết không nên nói thêm về vấn đề này nữa. “Đức vua, một số người nói ngài định tặng đất đai và lâu đài cho Giáp Xương và Magnar vùng Thenn đúng không?”
“Ai đã bảo thế?”
Khắp Hắc Thành đang đồn đại câu chuyện đó. “Thần nghe chuyện này từ Gilly, nếu ngài muốn biết.”
“Gilly là ai?”
“Cô ả vυ" nuôi ấy,” quý cô Melisandre nói. “Đức vua đã cho cô ta tự do trong lâu đài.”
“Nhưng không phải để đưa chuyện. Thứ hữu ích ở cô ta là vυ" chứ không phải lưỡi. Cô ta sẽ phải cho nhiều sữa hơn và ít mồm đi.”
“Hắc Thành không cần những cái miệng vô tích sự,” Jon đồng ý. “Thần chuẩn bị cho Gilly đi về phương nam trên con thuyền khởi hành từ Trạm Đông.”
Melisandre chạm tay vào viên ruby trên cổ. “Gilly đang cho con Dalla và con cô ta bú. Cậu tách hoàng tử nhỏ khỏi người anh em của mình như vậy có hơi độc ác quá không.”
Cẩn thận, lúc này phải thật cẩn thận. “Thứ duy nhất hai đứa trẻ chung nhau là sữa mẹ. Con trai Gilly lớn và khỏe mạnh hơn. Thằng nhóc đá, cấu và xô hoàng tử nhỏ khỏi vυ" mẹ. Craster là cha nó, một người đàn ông tham lam độc ác, và quả thật thằng nhóc kế thừa dòng máu đó.”
Nhà vua bối rối. “Ta tưởng vυ" nuôi là con gái của lão Craster đó chứ?”
“Vừa là vợ, vừa là con gái, thưa đức vua. Craster lấy luôn các con gái làm vợ. Và con trai của Gilly là thành quả của sự kết hợp đó.”
“Cô ta mang thai đứa con của chính cha mình sao?” Stannis kinh ngạc. “Thế thì chúng ta phải tống khứ cô ta đi ngay lập tức. Ta sẽ không cho phép những thứ kinh
tởm như vậy tồn tại ở đây. Đây không phải là Vương Đô.”
“Thần có thể tìm một vυ" nuôi khác. Nếu trong đám người du mục không có ai thích hợp, thần sẽ cho người tìm ở các bộ tộc trên núi. Trong thời gian đó, thằng bé sẽ được uống sữa dê, hy vọng đức vua hài lòng.”
“Tội nghiệp hoàng tử… nhưng thà như vậy còn hơn dùng sữa của một con điếm.” Stannis nhịp ngón tay xuống tấm bản đồ. “Quay lại vấn đề các pháo đài…”
“Thưa đức vua,” Jon nói với vẻ lịch sự bình thản, “Thần đã cho lính của ngài thức ăn, chỗ ở, dù thức ăn cho mùa đông đang khan hiếm. Thần còn cho quần áo để họ không chết rét.”
Stannis tỏ ra không hài lòng. “Đúng, ngươi đã chia sẻ cháo và thịt lợn muối, ngươi ném cho chúng ta vài mảnh giẻ rách đen để giữ ấm. Đống giẻ rách mà lẽ ra lũ du mục sẽ lột khỏi xác các ngươi nếu chúng ta không đến đây.”
Jon bỏ ngoài tai những lời đó. “Thần cung cấp cỏ cho ngựa của ngài, và khi cầu thang xây xong, thần còn cho ngài mượn thợ xây để khôi phục lại Pháo Đài Đêm. Thậm chí thần còn đồng ý để ngài sắp xếp cho đám dân du mục ở vùng Quà Tặng, nơi vĩnh viễn thuộc về Đội Tuần Đêm.”
“Ngươi cho ta những vùng đất trống trải hoang tàn, nhưng lại từ chối trao những tòa lâu đài mà ta yêu cầu để thưởng cho các lãnh chúa và chư hầu của ta.”
“Đội Tuần Đêm xây nên những tòa lâu đài đó…” “Để rồi chính Đội Tuần Đêm bỏ hoang chúng.”
“…để bảo vệ Tường Thành,” Jon cứng đầu nói, “không giống như thành quách của các lãnh chúa phương nam. Tường đá của các pháo đài ở đây đều được trát bằng xương máu của các anh em đã hy sinh trong quá khứ. Thần không thể dâng nó cho bệ hạ.”
“Không thể hay không chịu?” Gân cổ nhà vua nổi lên sắc như những lưỡi dao. “Ta đã hứa trao họ cho ngươi.”
“Thần có họ rồi, thưa đức vua.”
“Snow. Còn cái tên nào nghe quái gở hơn được nữa không?” Stannis chạm tay vào chuôi kiếm. “Ngươi nghĩ mình là ai?”
“Là người canh gác tường thành. Là thanh kiếm trong bóng đêm.”
“Đừng lảm nhảm những lời vớ vẩn đó trước mặt ta.” Stannis rút thanh kiếm ông ta gọi là Sứ Giả Ánh Sáng ra. “Đây mới là thanh kiếm trong bóng đêm của ngươi.” Lửa cháy gợn sóng trên lưỡi kiếm, lúc đỏ, lúc vàng, lúc cam, và phản chiếu đủ màu sắc
rực rỡ và sáng chói lên mặt nhà vua. “Ngay cả một thằng nhóc cũng nhìn ra điều đó. Ngươi bị mù chắc?”
“Không, thưa đức vua. Thần đồng ý các tòa lâu đài đó cần phải được trang bị quân đồn trú…”
“Thằng nhóc chỉ huy đã đồng ý. Thật may mắn làm sao.” “…nhưng bằng người của Đội Tuần Đêm.” “Ngươi không có đủ người.”
“Vậy thì đức vua hãy cho thần thêm người. Thần sẽ cắt cử chỉ huy ở mọi pháo đài bỏ hoang, họ đều là những chỉ huy lão luyện, hiểu quá rõ về Tường Thành và vùng đất bên ngoài, cũng như biết cách tốt nhất để chống chọi với mùa đông đang đến. Để đền đáp tất cả những gì chúng thần đã làm cho đức vua, hãy cho thần người để trang bị quân đồn trú. Kỵ binh hạng nặng, cung thủ, lính mới. Thần sẽ chấp nhận cả những người bị thương và ốm yếu nữa.”
Stannis nhìn anh chằm chằm với vẻ hoài nghi, sau đó phá ra một tràng cười. “Ngươi dũng cảm đấy, Snow, ta khá khen cho ngươi, nhưng hẳn là ngươi bị điên rồi nếu nghĩ người của ta sẽ chịu mặc áo choàng đen.”
“Họ muốn mặc áo choàng màu gì thì mặc, chỉ cần họ tuân theo lệnh chỉ huy của thần giống như tuân lệnh đức vua là được.”
Nhà vua đáp với vẻ thản nhiên. “Ta có các hiệp sĩ và lãnh chúa dưới trướng, người của các gia tộc quyền quý cổ xưa và danh giá. Đời nào họ chấp nhận phục vụ một lũ nông dân, trộm cắp và gϊếŧ người cơ chứ.”
Còn cả con hoang nữa chứ, đức vua quên sao? “Bản thân quân sư của ngài cũng là một tên buôn lậu.”
“Đã từng thôi. Ta đã chặt các đầu ngón tay hắn vì tội đó. Mọi người nói ngươi là Tướng chỉ huy thứ 998 của Đội Tuần Đêm, Lãnh chúa Snow ạ. Ngươi nghĩ người thứ 999 sẽ nói gì về những tòa lâu đài? Hình ảnh cái đầu ngươi cắm trên ngọn giáo có thể sẽ khiến hắn biết điều hơn.” Nhà vua đặt thanh kiếm sáng rực của mình xuống tấm bản đồ, dọc theo Tường Thành, lưỡi thép sáng lên như ánh mặt trời chiếu trên mặt nước. “Ta chỉ miễn cưỡng chấp nhận ngươi làm tướng chỉ huy thôi. Ngươi cần nhớ lấy điều đó.”
“Thần là tướng chỉ huy vì các anh em đã chọn thần.” Có những buổi sáng Jon Snow không dám tự tin vào bản thân mình, khi anh thức dậy và nghĩ chắc hẳn đây là một giấc mơ điên rồ nào đó. Nó giống như mặc một bộ quần áo mới, Sam đã nói như vậy. Ban đầu cảm giác sẽ lạ lẫm, nhưng khi đã mặc một thời gian ta sẽ dần cảm thấy thoải
mái hơn.
“Alliser Thorne phàn nàn rất nhiều về việc ngươi được chọn, ta dám chắc ông ta có những mối bất bình.” Tấm bản đồ nằm giữa họ như một bãi chiến trường và hứng lấy những màu sắc rực rỡ tỏa ra từ thanh kiếm. “Người đếm kết quả là một ông già mù và thằng bạn béo của ngươi, người của ông ta. Và Slynt gọi ngươi là tên phản bội.”
Và còn ai xứng đáng với cái danh đó hơn Slynt nữa? “Một kẻ phản bội sẽ nói những điều ngài muốn nghe và sau đó phụ lòng tin của ngài. Hẳn đức vua biết rõ thần được chọn một cách công bằng. Cha thần luôn nói ngài là một người đàn ông chính trực.” Chính trực nhưng tàn nhẫn, đó mới chính xác là những lời của Lãnh chúa Eddard, nhưng Jon nghĩ nói ra điều đó không phải là lựa chọn khôn ngoan.
“Lãnh chúa Eddard không phải bạn ta, nhưng ông ta cũng không phải là không có lý. Nếu còn sống ông ta chắc chắn sẽ cho ta những tòa lâu đài này.”
Không đời nào. “Thần không dám bàn về những việc cha thần có thể sẽ làm nếu còn sống. Thần đã đọc lời tuyên thệ, thưa đức vua. Tường Thành là của thần.”
“Bây giờ thôi. Để xem ngươi giữ nó như thế nào.” Stannis chỉ tay vào mặt anh. “Giữ lấy cái đống đổ nát này, nếu chúng có ý nghĩa với ngươi nhiều đến vậy. Tuy nhiên, ta hứa với ngươi nếu từ giờ đến cuối năm mà còn nơi nào trống, ta sẽ lấy chúng mà không cần biết ngươi có đồng ý hay không. Và nếu có ai đó phải ngã xuống trước mặt kẻ thù thì tiếp theo sẽ là cái đầu của ngươi. Giờ thì hãy ra khỏi đây.”
Quý cô Melisandre đứng dậy bên cạnh lò sưởi. “Thưa đức vua. Thần sẽ đưa Lãnh chúa Snow về phòng.”
“Tại sao? Hắn tự biết đường về chứ.” Stannis phẩy tay cho cả hai lui. “Cứ làm gì các người thích. Devan, đem thức ăn lên đây. Trứng luộc và nước chanh.”
So với căn phòng ấm áp của nhà vua thì khu cầu thang xoắn ốc bên ngoài lạnh đến thấu xương. “Gió đang nổi lên rồi, quý cô,” viên đội trưởng nói với Melisandre khi anh đưa vũ khí lại cho Jon. “Có thể quý cô sẽ cần một chiếc áo khoác ấm hơn đấy.”
“Ta có niềm tin sưởi ấm rồi.” Nữ tu đỏ cùng Jon bước xuống cầu thang. “Nhà vua đang càng ngày càng thích cậu.”
“Tôi biết chứ. Ông ấy mới chỉ dọa chặt đầu tôi có hai lần thôi.”
Melisandre cười phá lên. “Cậu nên sợ sự im lặng của nhà vua, chứ đừng sợ những lời ông ấy nói.” Khi họ bước xuống sân, gió luồn vào áo choàng của Jon và khiến nó đập lật phật vào người ả. Nữ tu đỏ gạt lớp len đen sang một bên và luồn tay ả qua tay anh. “Có thể cậu không sai về vua du mục. Ta sẽ cầu nguyện Thần Ánh Sáng cho ta một lời khuyên. Khi quan sát ngọn lửa, ta có thể nhìn qua đất đá và tìm ra sự thật ẩn
sâu trong linh hồn con người. Ta có thể nói chuyện với các vị vua đã chết từ lâu và những đứa trẻ thậm chí còn chưa ra đời, nhìn năm tháng qua đi trong ánh lửa bập bùng và nhìn thấu cả những ngày tận cùng của thế giới.”
“Lửa của cô không bao giờ sai sao?”
“Không bao giờ… dù những thầy tu như chúng ta đôi khi vẫn… uhm, nhầm lẫn giữa những gì phải đến và những khả năng có thể xảy ra.”
Jon cảm nhận được sức nóng từ ả, dù là qua lớp áo len và da thuộc. Cảnh hai người khoác tay nhau đang thu hút những ánh mắt tò mò. Rồi tối nay họ sẽ rỉ tai nhau trong doanh trại cho mà xem. “Nếu cô thực sự có thể nhìn thấy tương lai trong ngọn lửa thì hãy nói xem lần tới bọn du mục tấn công là khi nào?” Anh rút tay ra khỏi cánh tay ả.
“R’hllor gửi cho ta bất kỳ hình ảnh nào ngài muốn, nhưng ta sẽ cố tìm Tormund trong ngọn lửa,” đôi môi đỏ chót của Melisandre cong lên thành một nụ cười. “Ta cũng nhìn thấy cậu trong lửa, Jon Snow.”
“Đó có phải là một lời đe dọa không, thưa quý cô? Cô cũng định đốt tôi sao?”
“Cậu hiểu lầm ý ta rồi.” Ả ném cho anh một cái nhìn thấu tận tâm can. “Cảm giác như ta đang làm cậu khó chịu, Lãnh chúa Snow.”
Jon không phản đối. “Tường Thành không phải chỗ dành cho phụ nữ.”
“Cậu sai rồi. Ta đã mơ về Tường Thành của cậu, Jon Snow. Những con người vĩ đại xây dựng nên nó, những bùa chú mạnh nhất được khóa bên dưới lớp băng của Tường Thành. Chúng ta đi lại bên dưới một trong những tấm bản lề của thế giới.” Melisandre ngẩng đầu nhìn lên bức tường, hơi thở tạo thành một đám mây ẩm trong không khí. “Nơi này là của ta cũng như của cậu, và cậu sẽ sớm cần ta hơn bao giờ hết. Đừng từ chối tình bạn của ta, Jon. Ta đã nhìn thấy cậu trong cơn bão, cậu bị vây chặt giữa kẻ thù từ tứ phía. Cậu có quá nhiều kẻ thù. Ta có nên kể tên họ ra không nhỉ?”
“Tôi tự biết tên bọn họ.”
“Đừng có chắc chắn quá như thế.” Viên ruby trên cổ Melisandre ánh lên màu đỏ. “Đây không phải loại kẻ thù chỉ biết chửi rủa vào mặt để cậu sợ, mà là những kẻ mỉm cười khi có mặt cậu và mài dao khi cậu quay lưng. Tốt nhất cậu hãy luôn giữ con sói bên mình. Băng giá, ta đã nhìn thấy băng giá và những con dao trong bóng tối. Máu đỏ đông cứng lại, và những lưỡi kiếm trần. Lạnh lẽo lắm.”
“Ở Tường Thành lúc nào cũng lạnh.”
“Cậu nghĩ thế à?”
“Tôi biết điều đó, thưa quý cô.”
“Thế thì cậu chẳng biết gì cả, Jon Snow ạ,” ả thì thầm.