Chương 21: Jon

Ngọn nến của anh đã chảy thành một vũng sáp, nhưng những tia nắng đầu tiên của buổi sớm đang chiếu qua khe cửa sổ chớp. Một lần nữa Jon lại ngủ quên khi làm việc. Những chồng sách cao vυ"t phủ kín mặt bàn. Anh tự mang chúng lên đây sau khi dành cả nửa đêm lục lọi căn hầm bụi bặm dưới ánh đèn. Sam nói đúng, đống sách rất cần được phân loại, lên danh sách và sắp xếp theo trật tự, nhưng đó không phải là nhiệm vụ dành cho đám phục vụ, đọc không được mà viết cũng không thông. Việc này cần phải chờ Sam.

Nếu cậu ấy có thể trở về. Jon rất lo cho Sam và Maester Aemon. Cotter Pyke viết thư từ Trạm Đông thông báo rằng thuyền Quạ Bão phát hiện thấy xác một chiếc galê dọc bờ biển Skagos. Tuy nhiên đó là thuyền Chim Cắt, một trong số thuyền được Stannis Baratheon thuê về hay thuyền buôn nào đó đi ngang qua thì các thủy thủ thuyền Quạ Bão không phân biệt được. Ta muốn đưa Gilly và đứa bé đến chỗ an toàn. Nhưng có phải ta đã đưa họ đến địa ngục không?

Bữa ăn từ đêm qua đã đông cứng lại bên khuỷu tay anh, hầu như không được động đến. Edd U Sầu đổ đầy khay ăn của anh đến mức sắp tràn cả ra ngoài, với hy vọng món hầm ba loại thịt “nổi tiếng” của Hobb Ba Ngón sẽ giúp mẩu bánh mỳ ôi cũ rích mềm ra. Các anh em vẫn nói đùa ba loại thịt đó là thịt cừu, thịt cừu và thịt cừu, nhưng “ba loại” đó có vẻ là cà rốt, hành tây và củ cải thì đúng hơn. Một lớp mỡ đông đóng váng lấp lánh trên phần còn lại của bát súp.

Bowen Marsh vẫn giục anh chuyển vào phòng cũ của Gấu Già trong Tháp Vua sau khi Stannis chuyển đi, nhưng Jon từ chối. Chuyển vào phòng cũ của nhà vua dễ khiến người khác hiểu rằng anh không muốn nhà vua quay lại.

Không khí ảm đạm hoang tàn bao trùm Hắc Thành kể từ khi Stannis hành quân về phương nam, cứ như thể đám dân tự do và các anh em áo đen đều đang nín thở chờ xem điều gì sắp xảy ra. Sân và sảnh ăn hầu như lúc nào cũng trống không, Tháp Chỉ Huy cũng chỉ là lớp vỏ rỗng tuếch, sảnh chung cũ giờ là một đống gỗ cháy đen, và Tháp Hardin trông như thể một cơn gió thổi qua cũng có thể làm nó đổ sập. Âm thanh cuộc sống duy nhất mà Jon nghe được là tiếng leng keng khe khẽ của đao kiếm từ khoảnh sân bên ngoài kho vũ khí vọng lại. Emmett Sắt đang hò hét nhắc Hop-Robin nâng khiên cao lên. Tất cả chúng ta đều nên làm như vậy.

Jon tắm rửa, mặc quần áo và rời kho vũ khí, dừng lại ở sân ngoài một chút để nói vài lời động viên Hop-Robin và Emmett hoàn thành nhiệm vụ. Ty đề nghị đi theo làm tùy tùng cho anh, nhưng giống như mọi khi, Jon từ chối. Anh đã có đủ người xung quanh; và nếu phải đổ máu thì thêm vài ba người cũng chẳng làm nên điều gì khác

biệt. Anh đã đem theo Móng Dài, và còn có Bóng Ma theo sát phía sau.

Khi anh đến chuồng ngựa thì Edd U Sầu đã thắng yên cương sẵn sàng và đang đứng đợi anh. Dãy xe ngựa xếp hàng dưới sự điều khiển của Bowen Marsh. Lãnh chúa Quản Gia đang cưỡi ngựa đi xuống cuối hàng, chỉ trỏ, quát tháo om sòm, hai má ông đỏ ửng lên vì lạnh. Khi nhìn thấy Jon, chúng lại càng đỏ tợn. “Tướng chỉ huy. Ngài vẫn định làm…”

“…việc điên rồ này?” Jon kết thúc hộ. “Ôi, ngài không định nói từ đó đấy chứ, lãnh chúa. Đúng, ta vẫn định làm đấy. Chúng ta đã đồng ý việc này rồi. Trạm Đông đang cần thêm người. Tháp Đêm cần thêm người. Ta tin là cả Greyguard và Icemark cũng vậy, trong khi chúng ta vẫn còn mười bốn lâu đài khác bỏ không, cả đoạn Tường Thành dài không được trông coi bảo vệ.”

Marsh bĩu môi. “Tướng chỉ huy Mormont…”

“…đã chết. Và không phải dưới tay bọn du mục, mà dưới tay chính các anh em thề nguyện với mình, những người được ông tin tưởng. Cả ngài và ta đều không thể biết ông ấy sẽ làm gì nếu ở vào vị trí của ta.” Jon quay ngựa. “Nói chuyện thế đủ rồi. Đi thôi.”

Edd U Sầu đã nghe được toàn bộ câu chuyện. Khi Bowen Marsh lên ngựa đi, anh ta hất hàm theo và nói, “Một quả lựu với vô số hạt bên trong. Nó có thể làm người ta hóc mà chết. Tôi thà ăn củ cải còn hơn. Tôi nghĩ củ cải không thể làm hại ai hết.”

Những lúc thế này Jon nhớ Maester Aemon nhất. Clydas chăm lũ quạ rất tốt, nhưng kiến thức cũng như kinh nghiệm của anh ta chẳng bằng một phần mười của Aemon Targaryen, và trí khôn lại càng chẳng thể sánh bằng. Bowen là người tốt, theo cách riêng của ông, nhưng vết thương để lại trên người ông ở cầu Skulls đã khiến ông khó tính hơn, và bài ca duy nhất của ông lúc này là điệp khúc niêm phong cổng thành quen thuộc. Othell Yarwyck vừa lãnh đạm, vừa thiếu sáng tạo lại lầm lì, và đội ngũ Lính Biệt Kích Tinh Nhuệ thì dường như hy sinh cũng nhanh chóng như khi được sắc phong. Đội Tuần Đêm đã mất quá nhiều người giỏi, Jon nghĩ, trong khi đoàn xe ngựa bắt đầu chuyển bánh. Gấu Già, Qhorin Cụt Tay, Donal Noye, Jarmen Buckwell, và chú của ta…

Tuyết bắt đầu rơi lác đác khi đoàn người tiến về phương nam dọc theo vương lộ, một hàng dài xe ngựa đi qua những cánh đồng, dòng suối và triền đồi xanh mướt, với một tá lính giáo cùng chừng đó cung thủ đi theo hộ tống. Vài chuyến đi gần đây họ đã thấy sự xấu xí của thị trấn Mole, một chút xô đẩy, một vài lời chửi bới, những cái nhìn sưng sỉa. Bowen Marsh cảm thấy tốt nhất không nên mạo hiểm, và đây là lần đầu tiên ông và Jon đồng ý với nhau.

Lãnh chúa Quản Gia dẫn đường. Jon cưỡi ngựa đi phía sau một đoạn, Edd Tollett U Sầu đi bên cạnh. Nửa dặm về phía nam của Hắc Thành, Edd thúc ngựa lên đi cạnh Jon và nói, “Thưa lãnh chúa? Nhìn phía kia kìa. Gã say rượu khổng lồ trên đồi.”

Gã say rượu khổng lồ là một cây tần bì đã bị gió thổi nghiêng sang một bên trong suốt nhiều thế kỷ. Và giờ nó có một khuôn mặt. Một cái miệng uy nghiêm, một cái cành gãy làm mũi, hai mắt được khắc sâu vào cành cây và nhìn đăm đăm về phía bắc, hướng theo vương lộ về phía tòa lâu đài và Tường Thành.

Cuối cùng dân du mục vẫn đem theo vị thần của họ. Jon không ngạc nhiên. Con người không dễ gì từ bỏ vị thần của mình. Toàn bộ đám rước lộng lẫy mà Melisandre bố trí bên ngoài Tường Thành đột nhiên trở nên rỗng tuếch như một vở kịch. “Trông có vẻ giống cậu đấy, Edd,” anh nói, cố gắng tạo không khí vui vẻ.

“Vâng, thưa lãnh chúa. Tôi không có lá mọc ra từ mũi, nhưng nếu không… Quý cô Melisandre sẽ không hài lòng.”

“Cô ta sẽ không thấy đâu. Chỉ cần chú ý không để ai nói với cô ta là được.” “Nhưng cô ta nhìn thấy mọi thứ trong ngọn lửa.” “Khói và tro tàn.”

“Và người chết cháy nữa. Dễ là tôi lắm. Với lá cây mọc ra từ mũi. Tôi luôn sợ mình sẽ bị thiêu, nhưng tôi cũng hy vọng mình sẽ được chết trước tiên.”

Jon liếc nhìn lại khuôn mặt và tự hỏi ai đã khắc nó. Anh đã cắt cử lính gác xung quanh thị trấn Mole, vừa để các anh em quạ đen tránh xa phụ nữ du mục, vừa canh không cho dân du mục chạy về phương nam đột kích bất ngờ. Rõ ràng người khắc lên cây tần bì đã thoát ra ngoài trót lọt bất chấp lính gác của anh. Và nếu một người có thể vượt qua hàng rào bảo vệ thì những người khác cũng vậy. Mình có thể tăng gấp đôi lính gác một lần nữa, anh nghĩ chua chát. Tốn gấp đôi quân số, mà lẽ ra có thể dùng những người đó để đi tuần Tường Thành.

Chiếc xe ngựa tiếp tục chậm chạp đi về phía nam qua bãi bùn đông cứng và gió tuyết giá lạnh. Tiến lên thêm một dặm, họ gặp một khuôn mặt thứ hai được khắc vào cây hạt dẻ mọc bên cạnh một dòng suối đóng băng, nơi đôi mắt của nó có thể quan sát cây cầu ván cũ bắc qua dòng suối. “Nhiều rắc rối gấp đôi,” Edd U Sầu thông báo.

Cây hạt dẻ khẳng khiu trụi lá, nhưng những cành nâu của nó không hoàn toàn trơ trụi. Một con quạ đang đậu trên một cành thấp vươn ra bờ suối, lông nó xù lên để chống lại lạnh giá. Khi nhìn thấy Jon, nó xòe cánh và thét lên. Khi anh giơ nắm tay lên và huýt sáo, con chim đen vĩ đại vừa đập cánh đậu xuống vừa kêu, “Ngô, ngô, ngô.”

“Ngô dành cho dân du mục,” Jon bảo con vật. “Không có cho mày đâu.” Anh tự

hỏi liệu họ có thực sự phải ăn đến cả quạ trước khi mùa đông đến hay không.

Các anh em trên xe ngựa hẳn đã nhìn thấy khuôn mặt này rồi, Jon dám chắc như vậy. Không ai nói một lời, nhưng điều đó hiện lên rõ ràng trong mắt họ. Jon từng nghe Mance Rayder nói rằng những kẻ quỳ gối hầu hết là một lũ cừu. “Một con chó có thể lùa cả đàn cừu,” vị Vua-Bên-Ngoài-Tường-Thành từng nói vậy, “nhưng cư dân tự do, một số người là mèo bóng đêm, một số khác là đá tảng. Loại thứ nhất lảng vảng nơi nào chúng thích và sẽ xé lũ chó của ngươi ra từng mảnh. Loại thứ hai sẽ đứng yên một chỗ, trừ khi ngươi đá họ đi.” Dù là mèo ma hay đá tảng họ cũng không dễ gì từ bỏ vị thần đã thờ phụng cả đời để quay sang thờ một vị mà họ chưa hề biết đến.

Ngay phía bắc thị trấn Mole họ lại gặp một người canh gác thứ ba được tạc vào một cây sồi khổng lồ, vật đánh dấu địa hạt của ngôi làng, đôi mắt trũng sâu nhìn thẳng ra vương lộ. Đó không phải là một khuôn mặt dễ gần, Jon Snow nghĩ. Những khuôn mặt mà Tiền Nhân và lũ trẻ rừng rậm khắc vào cây đước trong những thời đại trước thường trông nghiêm nghị hoặc là hung tợn, nhưng cây sồi vĩ đại này trông đặc biệt giận dữ, như thể nó sắp sửa nhổ rễ lên khỏi mặt đất và gào thét đuổi theo họ đến nơi. Những vết rạch trên thân cây cũng mới như vết thương của những người khắc nó.

Thị trấn Mole luôn lớn hơn vẻ ngoài của nó; phần lớn thị trấn nằm chìm dưới mặt đất, tránh xa gió tuyết lạnh lẽo. Điều đó lúc này lại càng đúng hơn bao giờ hết. Trên đường tới Hắc Thành, Magnar vùng Thenn đã thiêu rụi cả ngôi làng trống khi hắn đi qua, giờ đây những gì còn lại trên mặt đất chỉ là đống xà cột và đá cũ cháy đen… nhưng sâu bên dưới lòng đất đóng băng, những đường hầm và hầm chứa vẫn còn, và đó cũng là nơi cư dân tự do trú ẩn, họ tụ tập lại với nhau trong bóng tối như những con chuột chũi, đúng như cái tên của chính ngôi làng.

Chiếc xe ngựa dừng lại trong một khoảng sân hình trăng lưỡi liềm phía trước nơi từng là xưởng rèn của ngôi làng. Gần đó, một đám trẻ em mặt đỏ lựng đang xây pháo đài tuyết, nhưng chúng tản ra khi nhác thấy các anh em áo đen và chui tọt vào những chiếc hố. Một lúc sau, một số người lớn bắt đầu chui lên khỏi mặt đất. Mùi hôi thối bay lên cùng với họ, mùi của những cơ thể lâu ngày không tắm và quần áo bẩn lâu ngày không giặt, mùi của phân và nướ© ŧıểυ. Jon thấy một trong số người của anh chun mũi và nói gì đó với người bên cạnh. Có lẽ là một lời đùa cợt nào đó về mùi của tự do, anh đoán vậy. Các anh em đã giễu cợt quá nhiều trước mùi hôi thối của thị trấn Mole mông muội này.

Lũ lợn ngu ngốc, Jon nghĩ. Cư dân tự do cũng chẳng khác gì người của Đội Tuần Đêm; một số người sạch sẽ, một số người bẩn thỉu, nhưng hầu hết là lúc bẩn lúc sạch. Mùi hôi thối khó chịu này là mùi của một nghìn người chen chúc nhau trong những căn hầm và đường ngách mà sức chứa cùng lắm chỉ một trăm người.

Dân du mục đã làm thế này một lần. Không nói lời nào, họ lẳng lặng xếp hàng đằng sau đoàn xe ngựa. Cứ mỗi đàn ông lại có ba phụ nữ và ba trẻ em – tất cả đều xanh xao gầy gò, tay bám chặt vào váy mẹ. Jon thấy rất ít trẻ sơ sinh. Anh nhận ra hầu như trẻ sơ sinh đều chết trong cuộc hành quân, và kể cả chúng có sống sót sau trận chiến thì cũng lại chết trong hàng rào của nhà vua.

Các chiến binh sống dai hơn. Ba trăm người đàn ông ở độ tuổi chiến đấu, Justin Massey thông báo như vậy trước hội đồng. Lãnh chúa Harwood Fell đã đếm. Ngoài ra còn có các nữ chiến binh. Năm mươi, sáu mươi, có thể lên đến hàng trăm. Jon biết con số Fell đếm được bao gồm cả những nguời bị thương. Anh đã thấy một số người trong số họ − những người chống nạng, mất cánh tay, mất bàn tay, mất một mắt, mất nửa khuôn mặt, mất cả hai chân và được khiêng bởi hai người bạn. Ai ai cũng gầy gò, mặt mày xanh mướt. Những kẻ tàn phế, anh nghĩ. Xác sống không phải là những xác chết biết đi duy nhất.

Tuy nhiên, không phải chiến binh nào cũng tàn phế. Sáu người Thenn trong bộ giáp vảy đồng đứng tụ tập quanh một chiếc cầu thang, mặt mày ủ rũ đứng nhìn và không có vẻ gì muốn tham gia với những người khác. Giữa xưởng rèn cổ đổ nát của ngôi làng, Jon nhác thấy cái đầu hói vĩ đại của một người đàn ông mà anh nhận ra là Halleck, em trai của Harma Đầu Chó. Tuy nhiên đàn lợn của Harma đã không còn. Chắc chắn là chúng đã bị chén sạch. Hai người mặc áo lông là người Hornfoot, những kẻ chân trần trên tuyết, vừa gầy khẳng khiu lại vừa hoang dã. Đâu đó vẫn có những con sói giữa bầy cừu.

Val từng nhắc anh điều đó trong lần cuối anh đến thăm cô. “Dân du mục và những kẻ quỳ gối thực ra giống nhau cả thôi, Jon Snow ạ. Đàn ông là đàn ông, và phụ nữ là phụ nữ, dù họ sinh ra ở phía bên nào của Tường Thành. Cả người tốt lẫn kẻ xấu xấu, cả anh hùng lẫn kẻ bất lương, những người danh giá, dối gian, hèn nhát, hung bạo… cũng giống như các anh, chúng tôi có rất nhiều những kẻ như vậy.”

Cô ấy nói không sai. Thủ thuật ở đây là phân biệt hai thứ đó với nhau, một bên cừu và một bên dê.

Các anh em áo đen bắt đầu đưa thức ăn ra. Họ đem theo những miếng thịt bò muối, cá thu khô, đậu khô, củ cải, cà rốt, những bao tải lúa mạch và bột mỳ, trứng ngâm, các thùng đựng hành và táo. “Cô có thể chọn táo hoặc hành,” Jon nghe thấy Hal Lông Lá nói với một phụ nữ, “nhưng không được lấy cả hai, cô phải chọn.”

Người phụ nữ dường như không hiểu. “Mỗi loại tôi cần hai quả. Một cho tôi và một cho con trai. Nó bị ốm, nhưng táo sẽ làm nó khá hơn.”

Hal lắc đầu. “Thằng bé phải tự lấy quả táo của mình. Hoặc là củ hành. Không được

lấy cả hai. Cô cũng vậy. Giờ thì chọn đi, hành hay táo? Chọn nhanh lên chút, còn nhiều người đằng sau lắm.”

“Táo,” người phụ nữ nói, và anh đưa quả táo cho cô ta, một quả táo khô cũ rích, nhỏ xíu và quắt queo.

“Tiến lên đi cô kia,” một người đàn ông đứng cách đó ba người quát to. “Ở ngoài này lạnh quá.”

Người phụ nữ chẳng mảy may để ý đến tiếng quát của ông ta. “Một quả táo nữa đi,” cô ta năn nỉ Hal. “Cho con trai tôi. Xin anh. Quả này bé quá.”

Hal nhìn Jon. Anh lắc đầu. Họ sẽ nhanh chóng phát hết chỗ táo. Nếu cho hai quả, những người khác cũng sẽ đòi như vậy, và những người sau sẽ chẳng được gì.

“Tránh ra đi,” một bé gái đứng phía sau người phụ nữ nói, sau đó đẩy lưng cô ta. Người phụ nữ lảo đảo, đánh rơi quả táo và ngã xuống đất. Những thức ăn khác cũng bay khỏi tay cô ta. Đậu rơi vung vãi, một củ cải lăn vào vũng bùn, một bao bột bung ra, bột mỳ quý giá vương vãi trên nền tuyết.

Những giọng nói giận dữ vang lên, bằng tiếng phổ thông và Ngôn Ngữ Cổ. Tình trạng xô đẩy lại tiếp tục ở một chiếc xe ngựa khác. “Ít quá,” một ông già làu bàu. “Lũ quạ khốn kiếp các ngươi đang bỏ chúng ta chết đói.” Người phụ nữ bị đẩy ngã đang lê gối quờ quạng bò theo chỗ đồ ăn. Jon thấy thép trần sáng lóe lên cách đó vài thước. Các cung thủ của anh lắp tên và kéo dây cung.

Anh quay lại trên yên ngựa. “Rory. Bắt chúng im lặng đi.” Rory đưa chiếc tù và vĩ đại lên môi và thổi AAAAhoooooooooooooooooooooooooooooooooo.

Tiếng huyên náo và xô đẩy tắt lụi. Mọi người quay đầu. Một đứa trẻ bắt đầu khóc. Con quạ của Mormont đi lạch bạch trên vai Jon, từ bên trái sang bên phải, vừa lúc lắc cái đầu vừa lẩm bẩm, “Snow, snow, snow.”

Jon chờ cho đến khi âm thanh cuối cùng tắt hẳn, sau đó mới thúc ngựa tiến lên nơi tất cả mọi người đều có thể nhìn thấy anh. “Chúng ta đã cố hết sức dùng lương thực dự trữ để nuôi các ngươi. Táo, hành, củ cải, cà rốt… chúng ta còn một mùa đông dài trước mắt, và kho lương thực của chúng ta không phải là vô hạn.”

“Quạ của ngươi ăn đủ rồi đấy.” Halleck chen lên phía trước.

Bây giờ thôi. “Chúng ta phải trấn thủ Tường Thành. Tường Thành bảo vệ cả vương quốc… và cả các ngươi lúc này. Các ngươi biết về những kẻ thù mà chúng ta phải đối mặt. Các ngươi biết chuyện gì sẽ xảy đến với chúng ta. Một số người trong các ngươi

đã đối mặt với chúng rồi. Xác sống và bóng trắng, những xác chết với đôi mắt xanh lè và đôi tay đen kịt. Ta cũng đã từng thấy chúng, chiến đấu với chúng và gϊếŧ chết một tên. Chúng gϊếŧ các ngươi, và sau đó lại dùng chính những xác chết đó chống lại các ngươi. Người khổng lồ còn không có cơ hội chiến thắng chúng, và người Thenn, các bộ tộc bên dòng sông băng, người Hornfoot hay dân du mục cũng vậy… Trong khi ngày đang mỗi lúc một ngắn đi và đêm mỗi lúc một dài hơn, bọn chúng thì ngày càng mạnh. Các ngươi bỏ nhà để đi về phương nam, hàng trăm, hàng ngàn người… Tại sao? Không phải chỉ để trốn tránh bọn chúng sao? Để được an toàn. Thế thì, Tường Thành sẽ là nơi các ngươi được an toàn. Chúng ta sẽ là những người bảo vệ các ngươi, những con quạ đen mà các ngươi căm ghét.”

“An toàn và chết đói,” người lên tiếng là một phụ nữ mập lùn với khuôn mặt dạn dày sương gió, nhìn dáng vẻ ngoài thì có vẻ cô ta là một nữ chiến binh.

“Cô cần thêm thức ăn à?” Jon hỏi. “Thức ăn để dành cho các chiến binh. Hãy giúp chúng ta giữ Tường Thành, và các ngươi sẽ được ăn thỏa thích như bất cứ con quạ nào.” Hoặc là chết đói giống họ, khi thức ăn cạn kiệt.

Không khí im lặng bao trùm. Dân du mục nhìn nhau cảnh giác. “Ăn,” con quạ lẩm bẩm. “Ngô, ngô.”

“Chiến đấu cho ngươi à?” Giọng người này đậm chất phương ngữ. Sigorn, Magnar Trẻ vùng Thenn, cố bập bẹ nói tiếng phổ thông. “Ai thèm chiến đấu cho ngươi. Phải gϊếŧ ngươi mới đúng. Gϊếŧ tất cả các ngươi.”

Con quạ đập cánh. “Gϊếŧ, gϊếŧ.”

Cha của Sigorn, Magnar già đã bị cầu thang sập lên người và tiêu đời khi tấn công Hắc Thành. Ta cũng sẽ cảm thấy như vậy nếu ai đó bắt ta thỏa hiệp với Nhà Lannister, Jon tự nhủ. “Cha ngươi cố gϊếŧ tất cả chúng ta,” anh nhắc Sigorn. “Magnar là người đàn ông dũng cảm, nhưng ông ta đã thất bại. Và nếu ông ta thành công… thì ai sẽ là người giữ Tường Thành?” Anh quay lưng về phía người Thenn. “Tường thành Winterfell cũng chắc chắn, nhưng giờ Winterfell đã là một đống đổ nát và cháy rụi. Tường Thành sẽ chỉ mạnh khi có một đội quân bảo vệ đủ mạnh thôi.”

Một ông già đeo một củ cải lủng lẳng trước ngực nói, “Ngươi gϊếŧ chúng ta, ngươi bỏ đói chúng ta, giờ ngươi lại muốn chúng ta làm nô ɭệ.”

Một gã lùn mặt đỏ hét lên tán thành. “Ta thà không mặc gì còn hơn là phải khoác cái thứ giẻ rách đen sì đó trên vai.”

Một trong các nữ chiến binh phá lên cười. “Ngay cả vợ anh cũng chẳng muốn nhìn thấy anh trong tình trạng không quần áo, Butts ạ.”

Hơn một chục người nhao nhao lên nói cùng một lúc. Người Thenn hò hét bằng Ngôn Ngữ Cổ. Một cậu bé bắt đầu khóc. Jon Snow chờ đến khi tất cả lắng xuống, sau đó mới quay về phía Hal nói, “Hal, cậu nói gì với người phụ nữ này vậy?”

Hal trông có vẻ bối rối. “Ý ngài là về thức ăn ấy à? Quả táo hay củ hành? Tôi chỉ nói có vậy. Họ phải chọn.”

“Các ngươi phải chọn,” Jon Snow nhắc lại. “Tất cả mọi người. Không ai bắt các ngươi phải nói lời tuyên thệ, và ta cũng không quan tâm các ngươi thờ vị thần nào. Ta thờ các cựu thần phương Bắc, nhưng các ngươi có thể thờ vị thần đỏ, hoặc Thất Diện Thần, hoặc bất kỳ vị thần nào nghe thấy lời cầu nguyện của các ngươi. Cái chúng ta cần là giáo mác. Cung. Và tai mắt trấn thủ dọc Tường Thành.

“Ta sẽ nhận tất cả các cậu bé trên 12 tuổi biết dùng giáo và kéo dây cung. Ta nhận cả những người già, bị thương, què quặt, thậm chí những người không còn khả năng chiến đấu. Sẽ có những nhiệm vụ khác phù hợp dành cho họ. Dán lông cho mũi tên, vắt sữa dê, kiếm củi, dọn phân chuồng ngựa… có vô số việc để làm. À đúng rồi, ta chấp nhận cả phụ nữ nữa. Ta không cần các cô trinh nữ e thẹn chờ người bảo vệ, mà là các nữ chiến binh.”

“Cả con gái nữa à?” Một bé gái hỏi. Trông cô bé sàn sàn tuổi Arya ngày xưa, trong lần cuối cùng Jon gặp em gái mình.

“Từ 16 tuổi trở lên.”

“Nhưng ngài đang nói các cậu bé từ 12 tuổi trở lên.”

Ở Bảy Phụ Quốc, các cậu bé 12 tuổi thường làm tiểu đồng hoặc cận vệ; nhiều người đã được huấn luyện dùng vũ khí trước đó vài năm. Các bé gái ở tuổi 12 vẫn là trẻ con. Tuy nhiên đây là dân du mục. “Thế cũng được. Trai gái từ 12 tuổi. Nhưng chỉ những người biết nghe lời thôi. Điều này áp dụng cho tất cả mọi người. Ta sẽ không bao giờ yêu cầu các ngươi quỳ gối trước ta, nhưng ta sẽ lập ra các đội trưởng và nhóm trưởng quản lý giờ giấc của các ngươi, chẳng hạn ngủ lúc nào, ăn chỗ nào, uống khi nào, mặc gì, khi nào phải tuốt kiếm và giương cung. Người của Đội Tuần Đêm phục vụ cả đời. Ta sẽ không đòi hỏi điều đó ở các ngươi, nhưng một khi còn ở Tường Thành, các ngươi sẽ chịu sự chỉ huy của ta. Nếu không tuân theo mệnh lệnh, các ngươi sẽ mất đầu. Thử hỏi các anh em xem ta có dám làm không. Họ chứng kiến cả đấy.”

“Mất đầu.” Con quạ của Gấu Già thét lên “Mất đầu, mất đầu, mất đầu.”

“Lựa chọn là ở các ngươi,” Jon Snow nói với họ. “Những người muốn giúp đỡ ta giữ Tường Thành, hãy trở về Hắc Thành cùng ta và ta sẽ cho các ngươi quân trang, thực phẩm. Tất cả những người còn lại sẽ được củ cải, hành tây và bò trở lại hang hốc của mình.”

Bé gái đó là người đầu tiên tiến lên. “Tôi có thể chiến đấu. Mẹ tôi từng là nữ chiến binh.” Jon gật đầu. Cô bé thậm chí còn chưa đến 12 tuổi, anh nghĩ khi cô đang len qua hai ông già, nhưng anh không muốn từ chối người duy nhất chịu nghe lời triệu tập của anh.

Hai thanh niên mới lớn đi theo cô, hai cậu bé không quá 14 tuổi. Tiếp theo là một người đàn ông mặt sẹo mất một mắt. “Tôi đã nhìn thấy chúng, bọn xác sống. Dẫu sao quạ đen cũng còn tốt hơn.” Tiếp theo là một nữ chiến binh cao lớn, một ông già chống nạng, một cậu bé mặt tròn xoe bị teo một tay, một phụ nữ trẻ với mái tóc đỏ khiến Jon nhớ về Ygritte.

Và tiếp nữa là Halleck. “Ta không thích ngươi chút nào, quạ đen ạ,” hắn làu bàu, “nhưng ta cũng chưa bao giờ thích Mance, chị ta cũng vậy. Thế mà chúng ta vẫn chiến đấu cho hắn. Vậy thì tại sao chúng ta không thể chiến đấu cho ngươi?”

Kể từ đó chiếc đập vô hình như được phá bỏ. Halleck là kẻ khá tiếng tăm. Mance nói quả không sai. “Cư dân tự do không phục tùng những dòng họ hay những con thú vải khâu trên áo,” Vị Vua-Bên-Ngoài-Tường-Thành từng nói với anh. “Họ không nhảy nhót vì tiền, không quan tâm ngươi tự phong mình là gì, thứ bậc chức vụ đó có ý nghĩa ra sao, và tổ tiên của ngươi là ai. Họ chỉ phục tùng sức mạnh. Họ phục tùng người đàn ông mạnh mẽ.”

Các anh em họ của Halleck đi theo hắn, sau đó là một trong những người cầm cờ hiệu cho Harma, rồi những kẻ đã chiến dấu cùng cô ta, và đến những người đã nghe kể chuyện về lòng can đảm của họ. Những cậu bé non tơ, những ông già râu bạc, những chiến binh trong độ tuổi sung sức nhất, những người bị thương què quặt, khá nhiều nữ chiến binh, và thậm chí cả ba người Hornfoot.

Nhưng tuyệt đối không có người Thenn. Magnar quay lưng và biến mất vào đường hầm, đội quân tay sai giáp đồng của hắn theo sát đằng sau gót.

Đến khi quả táo héo cuối cùng được phát hết thì đoàn xe ngựa đã chật cứng với dân du mục, và họ có thêm 63 người so với đoàn người lên đường từ Hắc Thành sớm hôm đó. “Ngài sẽ làm gì với họ?” Bowen Marsh hỏi Jon khi họ quay ngựa trở lại vương lộ.

“Huấn luyện, trang bị vũ khí cho họ, và chia nhỏ họ ra. Đưa họ đến những nơi cần người. Trạm Đông, Tháp Đêm, Icemark, Greyguard. Ta muốn mở thêm ba chốt phòng thủ nữa.”

Lãnh chúa Quản Gia ngoái nhìn phía sau. “Cả phụ nữ nữa à? Các anh em của chúng ta không quen có phụ nữ trong nhóm, thưa ngài. Họ đã nói lời thề… thể nào đánh nhau, hãʍ Ꮒϊếp cũng sẽ xảy ra…”

“Những phụ nữ đó có dao và biết sử dụng chúng đấy.”

“Vậy thì chuyện gì sẽ xảy ra trong lần đầu tiên một trong các nữ chiến binh đó cắt cổ một người anh em của ngài?”

“Chúng ta sẽ mất một người,” Jon nói, “nhưng chúng ta vừa có 63 người mới. Ngài giỏi đếm mà. Nếu tôi nói sai thì ngài sửa lại nhé, nhưng tôi tính chúng ta vẫn còn lại 62 người.”

Marsh không vừa lòng. “Ngài vừa mới thêm 63 miệng ăn thật… nhưng bao nhiêu người trong số đó có thể chiến đấu, và họ chiến đấu cho bên nào? Nếu dưới cổng thành là lũ Ngoại Nhân, nhiều khả năng họ sẽ đứng về phía chúng ta, tôi dám đám bảo… nhưng nếu đó là Tormund Giantsbane hay Khóc Lóc tới với mười nghìn tên gϊếŧ người thì sao?”

“Lúc đó chúng ta sẽ biết. Hãy hy vọng chuyện đó không bao giờ xảy ra.”