Cẩn thận lũ chuột đấy, thưa lãnh chúa.” Edd U Sầu dẫn Jon xuống những bậc thang, trong tay cầm một chiếc đèn. “Chúng kêu eng éc rất kinh tởm nếu ngài giẫm phải chúng. Mẹ tôi thường kêu ré lên như vậy khi tôi còn nhỏ. Giờ nghĩ lại, tôi dám chắc bà ấy phải có một phần chuột trong người. Tóc nâu, mắt tròn nhỏ trong sáng như hai hạt thủy tinh, và rất thích pho mát. Có thể bà ấy còn có đuôi nữa, nhưng tôi chưa bao giờ để ý.”
Toàn bộ Hắc Thành được kết nối với nhau dưới đất bằng một mê cung đường hầm mà các anh em áo đen gọi là đường sâu đυ.c. Dưới lòng đất tối tăm và ảm đạm, vì thế đường sâu đυ.c ít được sử dụng vào mùa hè, nhưng vào mùa đông khi gió bắt đầu thổi mạnh và tuyết bắt đầu rơi thì đường hầm là cách nhanh nhất để di chuyển quanh lâu đài. Đám người phục vụ đã bắt đầu sử dụng chúng. Jon thấy những ngọn nến cháy trên vài hốc tường khi họ đi dọc đường hầm, tiếng bước chân của họ nghe như từ phía trước vọng lại.
Bowen Marsh đang đợi ở một ngã tư nơi bốn đường hầm gặp nhau. Đi cùng ông ta là Wick Cán Dao, cao và gầy như một cây thương. “Đây là những ghi chép từ ba tháng trước,” Marsh nói với Jon và đưa cho anh một tập giấy dày, “để so sánh với kho dự trữ hiện tại của chúng ta. Chúng ta sẽ bắt đầu với kho thóc nhé?”
Họ di chuyển trong bóng tối xám xịt lờ mờ dưới lòng đất. Mỗi gian nhà kho đều có cửa gỗ sồi đặc và được đóng bằng khóa móc sắt to như cái đĩa. “Có tình trạng ăn cắp vặt không?” Jon hỏi.
“Chưa thấy,” Bowen Marsh nói. “Tuy nhiên khi mùa đông tới, có thể ngài sẽ phải cắt cử lính canh chừng dưới này.”
Wick Cán Dao xâu chìa khóa thành chuỗi và đeo trên cổ. Với Jon trông chúng chẳng khác gì nhau, nhưng chẳng hiểu sao Wick vẫn có thể tìm được đúng chìa cho mỗi cánh cửa. Khi vào đến bên trong, anh ta sẽ lôi từ trong túi ra một viên phấn to bằng nắm đấm, vừa đánh dấu những thùng tô nô, bao tải, thùng tròn, vừa đếm chúng trong khi Marsh so sánh số liệu mới và cũ.
Trong kho thóc chứa yến mạch, lúa mỳ, lúa mạch và một đống thùng bột nghiền thô. Ở tầng thấp nhất, hành và tỏi được buộc thành từng dây đu đưa rủ xuống từ xà nhà, chất đầy trên giá là những bao cà rốt, củ cải vàng, củ cải đỏ và củ cải trắng. Một buồng kho chứa đầy những bánh pho mát to đến nỗi phải hai người mới nhấc lên được. Ở buồng tiếp theo, các thùng thịt bò muối, thịt lợn muối, thịt cừu muối và cá thu muối xếp chồng lên nhau cao tới 3 mét. Ba trăm bắp đùi lợn muối và ba nghìn chiếc xúc xích đen dài được treo từ trên xà nhà xuống ngay bên dưới nơi hun khói.
Trong tủ đựng gia vị có tiêu khô, đinh hương, quế, hạt mù tạc, ngò mùi, xô thơm, xô thơm bạc hà, mùi tây và từng tảng muối. Đây đó có những thùng táo, lê, hạt đậu khô, sung khô, những bao tải hồ đào, hạnh nhân, những tấm ván chất đầy cá hồi hun khói, những lọ đất sét nhét chặt cứng ô liu ngâm dầu và được đóng kín bằng sáp. Một buồng kho có thỏ rừng đốm, đùi hươu ngâm mật ong, cải bắp muối chua, củ cải đường muối chua, hành muối, trứng muối và cá trích muối.
Khi họ di chuyển từ hầm này sang hầm khác, con đường sâu đυ.c dường như mỗi lúc một lạnh hơn. Chẳng bao lâu sau, Jon đã thấy hơi thở của họ bốc khói dưới ánh đèn. “Chúng ta đang ở bên dưới Tường Thành.”
“Và sẽ nhanh chóng vào trong,” Marsh nói. “Thịt không bị hỏng khi để lạnh. Để dự trữ được lâu hơn, giữ trong phòng lạnh sẽ tốt hơn ướp muối.”
Cánh cửa tiếp theo được làm bằng sắt gỉ. Đằng sau là một nhịp cầu thang gỗ. Edd U Sầu dẫn đường với đèn xách trong tay. Lên hết cầu thang, họ thấy một đường hầm dài như đại sảnh của Winterfell, nhưng bề ngang chỉ bé như đường sâu đυ.c. Các bức tường đều làm bằng băng, bên trên là những chiếc móc sắt. Dưới mỗi cái móc là xác một con vật: hươu và nai sừng tấm lột da, từng tảng thịt bò, lợn nái được treo thả đung đưa từ trần nhà xuống, cừu và dê không đầu, thậm chí là ngựa và gấu. Mọi vật đều bị bao phủ bởi một lớp sương muối trắng toát.
Khi họ đếm, Jon tháo găng tay ở bàn tay trái và chạm vào chiếc đùi nai gần nhất. Anh cảm nhận được ngón tay mình dinh dính, và khi rút về, tay anh tróc một chút da. Đầu ngón tay của anh tê cứng. Ngươi hy vọng cái gì chứ? Cả một ngọn núi băng ở trên đầu ngươi, thậm chí Bowen Marsh cũng không thể biết chúng nặng chừng nào. Ngay cả như vậy, anh vẫn cảm thấy căn phòng lạnh hơn mức bình thường.
“Tình hình còn tệ hơn những gì tôi phỏng đoán, thưa lãnh chúa,” Marsh thông báo khi hoàn thành công việc. Giọng ông ta còn buồn thảm hơn cả Edd U Sầu.
Vậy mà Jon đã tưởng thịt thà trên thế giới tập trung cả về đây xung quanh họ. Mày chẳng biết gì, Jon Snow ạ. “Sao vậy? Tôi thấy như thế này là quá nhiều rồi.”
“Chúng ta đã trải qua một mùa hè dài. Những vụ mùa đều bội thu, các lãnh chúa cũng hào phóng. Chúng ta có đủ lương thực để trải qua một mùa đông kéo dài ba năm. Bốn năm sẽ phải tiết kiệm một chút. Tuy nhiên, giờ chúng ta phải nuôi cả đám người của nhà vua, người của hoàng hậu và dân du mục nữa… Chỉ riêng thị trấn Mole thôi cũng đã có hàng ngàn miệng ăn vô tích sự rồi, và họ vẫn còn tiếp tục đến thêm. Hôm qua ba người nữa xuất hiện trước cổng, còn hôm kia là mười hai người. Không thể tiếp tục thế này được. Để họ sống ở vùng Quà Tặng, cũng tốt thôi, nhưng giờ đã quá muộn để trồng trọt thêm. Chúng ta sẽ chỉ còn củ cải và cháo đậu để ăn trước khi năm nay kết thúc. Sau đó chúng ta sẽ phải uống máu ngựa.”
“Ngon đấy,” Edd U Sầu tuyên bố. “Không gì tuyệt hơn một cốc máu ngựa nóng trong một đêm lạnh giá. Tôi muốn cốc của tôi có một nhúm quế rắc bên trên.”
Vị Quản Gia không đếm xỉa đến lời của cậu ta. “Bệnh tật sẽ xảy ra,” ông tiếp tục, “lợi chảy máu và răng lung lay. Maester Aemon từng nói nước chanh và thịt tươi có thể chữa được bệnh đó, nhưng chúng ta đã hết chanh từ một năm trước rồi và không có đủ cỏ khô để nuôi gia súc lấy thịt tươi. Chúng ta phải gϊếŧ thịt hết, trừ một vài cặp làm giống. Đã quá muộn rồi. Trong những mùa đông trước, thực phẩm có thể được mang từ phương nam lên qua vương lộ, nhưng với tình trạng chiến tranh thế này… Bây giờ vẫn là mùa thu, tôi biết, nhưng theo tôi, chúng ta nên chia khẩu phần theo mùa đông ngay từ bây giờ, nếu ngài đồng ý.”
Các anh em hẳn sẽ thích điều đó. “Nếu đó là điều bắt buộc phải làm. Chúng ta sẽ giảm khẩu phần ăn của mỗi người chỉ còn ba phần tư.” Nếu bây giờ các anh em đã phàn nàn về ta thì đến khi phải ăn tuyết và quả đấu nghiền, họ sẽ còn nói những gì?
“Vậy cũng tốt, thưa lãnh chúa.” Nhưng qua giọng nói thì rõ ràng ông ta thấy cách đó cũng chẳng tốt hơn là bao.
Edd U Sầu nói, “Giờ thì tôi hiểu tại sao vua Stannis lại cho đám du mục đi qua Tường Thành rồi. Ông ấy muốn chúng ta ăn thịt họ.”
Jon mỉm cười. “Không đến mức đó đâu.”
“Ồ, thế thì tốt,” Edd nói. “Trông thịt họ có vẻ xơ và dai lắm, mà răng tôi lại không sắc như hồi còn trẻ nữa.”
“Nếu có đủ tiền, chúng ta có thể mua thức ăn từ phương nam và chuyển tới đây bằng thuyền,” vị quản gia nói.
Có thể, Jon nghĩ, nếu chúng ta có vàng và ai đó sẵn sàng bán đồ ăn cho chúng ta. Nhưng cả hai điều kiện đó đều thiếu. Niềm hy vọng lớn nhất của chúng ta có lẽ là Eyrie. Thung Lũng Arryn nổi tiếng phì nhiêu và không hề bị ảnh hưởng bởi chiến tranh. Jon tự hỏi không biết em gái phu nhân Catelyn sẽ cảm thấy như thế nào trước cậu con hoang của Ned Stark. Khi còn nhỏ, anh cảm giác bà ta lúc nào cũng khó chịu với anh.
“Chúng ta lúc nào cũng có thể đi săn, nếu cần,” Wick Cán Dao thêm vào. “Trong rừng vẫn còn nhiều con mồi lắm.”
“Cả dân du mục nữa, và những thế lực tối tăm hơn thế,” Marsh nói. “Tôi sẽ không cử thợ săn ra ngoài đó đâu. Không đâu.”
Đúng rồi. Ông sẽ đóng cổng thành mãi mãi và niêm phong chúng lại với đá và băng. Anh biết một nửa Hắc Thành đồng ý với ý kiến của vị quản gia. Trong khi nửa
còn lại chế giễu họ. “Niêm phong cổng thành lại và gắn chặt mông trên Tường Thành, đúng rồi, và lũ du mục sẽ trèo qua cầu Skulls hoặc là đi qua một cánh cổng nào đó mà các người tưởng đã được bịt từ 500 năm trước,” người lính già Dywen lớn giọng trong bữa tối hôm kia. “Chúng ta không có đủ người để canh hàng mấy trăm dặm Tường Thành. Tormund Giantsbutt và gã Khóc Lóc chết tiệt cũng biết điều đó. Mọi người đã bao giờ thấy một con vịt chân bị đóng băng trong hồ chưa? Với quạ cũng vậy thôi.” Hầu hết lính biệt kích ủng hộ Dywen, trong khi đám người phục vụ và thợ xây nghiêng về phía Bowen Marsh.
Nhưng đó là tình huống khó xử ở một thời điểm khác. Ở đây, và ngay lúc này, vấn đề là thực phẩm. “Chúng ta không thể để vua Stannis và người của ông ta chết đói, kể cả có muốn như thế đi chăng nữa,” Jon nói. “Nếu cần thiết, ông ta sẽ dùng vũ lực để cướp chỗ lương thực này. Chúng ta không có đủ người để ngăn họ lại. Dân du mục cũng phải được ăn chứ.”
“Nhưng bằng cách nào, thưa lãnh chúa?” Bowen Marsh hỏi.
Ước gì ta biết được câu trả lời. “Chúng ta sẽ tìm cách.”
Đến khi họ quay lên mặt đất, bóng chiều đã đổ dài. Mây kẻ sọc trên bầu trời trông như những lá cờ rách tả tơi màu trắng và xám. Sân ngoài kho vũ khí trống không, nhưng bên trong Jon thấy cận vệ của nhà vua đang đợi anh. Devan là một cậu bé gầy gò khoảng 12 tuổi, mắt và tóc đều màu nâu. Họ thấy cậu ta gần như đóng băng bên cạnh lò rèn, cậu không dám di chuyển vì Bóng Ma đang đứng đó ngửi lên ngửi xuống. “Nó không làm gì đâu,” Jon nói, nhưng thằng bé chùn bước lại khi nghe thấy giọng anh, và cử động đột ngột đó làm con sói tuyết nhe nanh. “Không được!” Jon quát. “Bóng Ma, để cậu bé yên. Tránh ra!” Con sói quay lại với đống xương bò, đứng im lặng trên bốn chân.
Devan trông tái mét như ma, mặt cậu ta ướt đẫm mồ hôi. “Thưa… thưa lãnh chúa. Nhà vua tr…triệu tập ngài.” Thằng bé mặc hai màu vàng và đen của Nhà Baratheon, với hình trái tim lửa của hoàng hậu trước ngực.
“Ý cậu là yêu cầu gặp mặt đúng không?” Edd U Sầu nói. “Nhà vua muốn gặp mặt tướng chỉ huy. Nếu là mình mình sẽ nói như vậy.”
“Thôi bỏ qua đi, Edd.” Jon không có tâm trạng cho những cuộc cãi vã lặt vặt như vậy. “Sir Richard và Ser Justin đã trở về,” Devan nói, “ngài có đến không, thưa lãnh chúa?”
Những lính biệt kích đi sai đường. Massey và Horpe cưỡi ngựa về phương nam, không phải phương bắc. Bất kể thứ gì họ tìm được đều chẳng phải là mối bận tâm của Đội Tuần Đêm, nhưng Jon cũng rất tò mò. “Nếu nhà vua bằng lòng.” Anh đi theo cậu
cận vệ trẻ tuổi băng qua khoảng sân. Bóng Ma chạy theo họ cho đến khi Jon nói, “Không. Mày ở lại đây!” Nhưng thay vào đó, con sói chạy đi.
Ở Tháp Vua, Jon bị tước mọi vũ khí và được đưa vào gặp nhà vua. Trong điện nóng nực và đông đúc. Stannis cùng các đội trưởng của ông ta đang tụ tập trước bản đồ phương bắc. Hai lính biệt kích đi sai đường cũng nằm trong số đó. Cả Sigorn cũng vậy. Magnar Trẻ vùng Thenn mặc một chiếc áo giáp dài bằng da khâu vảy cá bằng đồng. Giáp Xương ngồi gãi chỗ cái cùm ở cổ tay bằng một móng tay vàng khè nứt nẻ. Bộ râu màu nâu lởm chởm phủ kín hai bên má hóp và cái cằm tụt vào trong, vài sợi tóc bẩn thỉu lòa xòa xuống mắt hắn. “Cậu ta đến rồi,” hắn nói khi nhìn thấy Jon, “thằng nhóc quả cảm gϊếŧ chết Mance Rayder khi ông ta bị trói nhốt trong cũi.” Miếng ngọc lớn hình vuông bên trên chiếc cùm sắt của hắn phát ra ánh sáng đỏ lờ mờ. “Ngươi có thích viên ruby của ta không, Snow? Kỷ vật tình yêu từ Quý cô Đỏ đấy.”
Jon phớt lờ hắn và quỳ một gối. “Thưa đức vua,” cận vệ Devan thông báo, “thần dẫn Lãnh chúa Snow đến đây rồi.”
“Ta thấy rồi. Tướng chỉ huy, chắc ngươi đã biết hết các hiệp sĩ và đội trưởng của ta rồi chứ.”
“Đúng là thần có vinh dự đó.” Anh luôn cố gắng biết hết những người xung quanh nhà vua. Cả người của hoàng hậu, tất cả. Jon thấy ngạc nhiên khi chẳng có người của nhà vua nào ở xung quanh nhà vua, nhưng có vẻ đó là chuyện bình thường. Người của nhà vua đã phải gánh cơn thịnh nộ của Stannis ở Dragonstone, nếu câu chuyện Jon nghe được là sự thật.
“Có rượu đấy. Hoặc là nước sôi pha chanh.” “Cảm ơn, nhưng không cần đâu ạ.”
“Được thôi. Ta có một món quà cho ngươi, Lãnh chúa Snow.” Nhà vua vẫy một tay về phía Giáp Xương. “Hắn ta.”
Quý cô Melisandre mỉm cười. “Cậu nói cần thêm người đúng không, Lãnh chúa Snow. Ta tin là Lãnh chúa Xương Xẩu của chúng ta vẫn đủ điều kiện chứ.”
Jon kinh ngạc. “Thưa đức vua, chúng ta không thể tin con người này được. Nếu thần giữ hắn lại, chắc chắn ai đó sẽ cắt cổ hắn. Nếu thần cho hắn đi tuần, hắn sẽ lập tức quay về với dân du mục.”
“Không đâu. Ta đã chán ngấy lũ ngu đó rồi.” Giáp Xương gõ lên viên ruby trên cổ tay. “Cũng như mụ phù thủy đỏ của ngươi ấy, con hoang.”
Melisandre nói nhỏ nhẹ bằng giọng rất lạ. Viên ruby trên cổ ả rung lên khe khẽ, và Jon thấy viên ruby nhỏ hơn trên cổ tay Giáp Xương cũng liên tục nhấp nháy theo.
“Chỉ cần vẫn đeo viên ngọc đó thì hắn sẽ bị gắn chặt với ta, cả máu lẫn linh hồn,” nữ tu đỏ nói. “Người này sẽ trung thành với cậu. Ngọn lửa không nói dối đâu, Lãnh chúa Snow.”
Lửa có thể không nói dối, Jon nghĩ, nhưng cô thì có.
“Ta sẽ đi tuần cho ngươi, con hoang ạ,” Giáp Xương tuyên bố. “Ta sẽ đưa ra lời khuyên hoặc hát cho ngươi nghe, tùy theo ý ngươi. Thậm chí ta sẽ chiến đấu cho ngươi. Chỉ cần đừng bắt ta phải mặc áo choàng của ngươi.”
Ngươi không đáng được mặc nó, Jon nghĩ, nhưng anh không nói ra. Chẳng ích lợi gì khi cãi vã trước mặt nhà vua.
Vua Stannis nói, “Lãnh chúa Snow, kể cho ta về Mors Umber đi.”
Đội Tuần Đêm chẳng liên quan gì, Jon nghĩ thầm, nhưng một giọng nói khác trong anh như thì thầm, lời nói không phải là đao kiếm. “Là chú của Greatjon. Họ gọi ông ấy là Thức Ăn Quạ. Có lần một con quạ tưởng ông ấy là xác chết và mổ mất mắt ông. Ông ấy bắt được con quạ đó và cắn đứt đầu nó. Khi còn trẻ, ông ấy là một chiến binh đáng sợ. Các con trai ông hy sinh trên dòng Trident, vợ thì chết trên giường đẻ. Con gái duy nhất của ông ấy bị dân du mục bắt đi khoảng ba mươi năm trước.”
“Thảo nào mà ông ta muốn có cái đầu,” Harwood Fell nói.
“Lão Mors đó có đáng tin không?” Stannis hỏi.
Mors Umber đã quỳ gối rồi sao? “Thưa đức vua, người nên bắt ông ta đọc lời tuyên thệ trước cây đước.”
Godry Kẻ Gϊếŧ Người Khổng Lồ cười hô hố. “Ta quên mất là người phương bắc các ngươi thờ cây.”
“Thần thánh gì mà lại để chó đái vào người thế nhỉ?” Clayton Suggs, bạn chí thân của Farring hỏi.
Jon quyết định phớt lờ bọn chúng. “Thưa đức vua, thần muốn biết Nhà Umber đã tuyên bố ủng hộ ngài hay chưa?”
“Một nửa trong số họ, và chỉ khi ta đáp ứng được những điều kiện do Thức Ăn Quạ đưa ra,” Stannis tức tối nói. “Hắn muốn lấy đầu lâu của Mance Rayder làm cốc rượu, và muốn ta tha cho em trai hắn, kẻ đã về phương nam để gia nhập với Nhà Bolton. Tên hắn là Kẻ Gϊếŧ Điếm.”
Ser Godry tiếp tục lấy làm thích thú trước điều đó. “Ôi, xem tên của người phương bắc kìa! Gã này cắn đứt đầu ả điếm nào đó à?”
Jon điềm tĩnh nhìn ông ta. “Có thể nói như vậy. Năm mươi năm trước ở Oldtown có
một ả điếm định ăn cắp đồ của ông ta.” Nghe có vẻ kỳ cục, nhưng Hoarfrost Umber già từng tin rằng con trai út của mình có thiên hướng trở thành học sĩ. Mors thích tự kể về con quạ đã ăn mất mắt ông ta, trong khi câu chuyện của Hother chỉ là những lời xì xào bàn tán… có lẽ vì ả điếm mà ông ta mổ bụng là đàn ông. “Các lãnh chúa khác cũng tuyên bố theo Bolton rồi ư?”
Nữ tu đỏ lại đứng cạnh nhà vua. “Ta thấy một thị trấn nhung nhúc người với những bức tường và đường xá bằng gỗ. Cờ quạt bay phấp phới trên tường thành: một con nai sừng tấm, một cái rìu chiến, ba cây thông, rìu dài bắt chéo nhau bên dưới một chiếc vương miện, một cái đầu ngựa với đôi mắt bốc lửa.”
“Hornwood, Cerwyn, Tallhart, Ryswell, và Dustin,” Ser Clayton Suggs thêm chi tiết. “Một lũ phản bội, bợ đỡ Nhà Lannister.”
“Nhà Ryswell và Dustin có mối liên minh với Nhà Bolton qua con đường hôn nhân,” Jon nói. “Những nhà khác đã mất các lãnh chúa trong cuộc chiến. Giờ tôi không biết ai làm chủ những gia tộc đó. Tuy nhiên Thức Ăn Quạ không phải kẻ bợ đỡ. Đức vua sẽ được lợi rất nhiều nếu chấp nhận những yêu cầu của ông ta.”
Stannis nghiến răng. “Ông ta nói Nhà Umber sẽ không tương tàn lẫn nhau, vì bất cứ lý do gì.”
Jon không thấy có gì ngạc nhiên. “Nếu phải đánh nhau, hãy chờ xem cờ của Hother được cắm ở đâu và cho Mors đứng phía bên kia chiến tuyến.”
Kẻ Gϊếŧ Người Khổng Lồ không đồng ý. “Như vậy sẽ khiến cho nhà vua trông yếu thế. Tôi nghĩ chúng ta phải phô trương sức mạnh. Đốt trụi Last Hearth và ra chiến trường với đầu Thức Ăn Quạ bêu trên ngọn giáo. Đó sẽ là một bài học cho lãnh chúa nào tiếp theo định ủng hộ nửa vời.”
“Một kế hoạch hoàn hảo nếu những gì ngài muốn là sự chống đối của mọi người phương bắc. Một nửa còn hơn là không có gì. Nhà Umber không yêu quý gì Nhà Bolton. Nếu Kẻ Gϊếŧ Điếm theo phe Con Hoang thì chỉ có thể do Nhà Lannister đang giữ Greatjon làm con tin.”
“Đó chỉ là cái cớ, không phải lý do,” Ser Godry tuyên bố. “Nếu cháu trai của họ chết trong xiềng xích thì các ông chú càng được đất đai và tước vị lãnh chúa cho riêng mình chứ sao.”
“Greatjon có cả con trai lẫn con gái. Ở phương bắc, các con vẫn được quyền thừa kế trước các bác, các chú, thưa ser.”
“Trừ khi chúng chết. Người chết đứng cuối cùng trong danh sách thừa kế, ở đâu cũng vậy.”
“Cứ gợi ý như thế cho Mors Umber đi, Ser Godry, và ngài sẽ biết nhiều về cái chết hơn mong đợi đấy.”
“Ta từng gϊếŧ người khổng lồ đấy, nhóc ạ. Tại sao ta phải sợ một lão già phương bắc bọ chét đầy mình, với cái khiên vẽ hình người khổng lồ trên đó?”
“Người khổng lồ bỏ chạy. Còn Mors thì không.”
Tên hiệp sĩ to lớn đỏ mặt. “Trước mặt nhà vua mà miệng lưỡi ngươi bạo dạn đấy, nhóc. Sao ở dưới sân ngươi lại ca bài ca khác thế?”
“Thôi nào, Godry,” Ser Justin Massey nói. Đó là một hiệp sĩ chân tay linh hoạt, đậm người với nụ cười lúc nào cũng thường trực trên môi và mái tóc màu vàng nâu nhạt. Massey là một trong hai lính biệt kích đi sai đường. “Chúng tôi đều biết ngài có thanh kiếm to thế nào rồi. Ngài không cần khua nó trước mặt chúng tôi nữa đâu.”
“Thứ duy nhất đang khua khoắng ở đây là lưỡi ông đấy, Massey.”
“Im lặng,” Stannis quát. “Lãnh chúa Snow, nghe đây. Ta nấn ná lại ở đây chỉ vì hy vọng dân du mục có thể sẽ ngu ngốc tấn công Tường Thành một lần nữa. Nhưng giờ chúng không chịu tấn công, đã đến lúc ta phải giải quyết những kẻ thù khác.”
“Thần hiểu rồi.” Giọng Jon cảnh giác. Ông ta muốn gì ở ta? “Thần không yêu quý Lãnh chúa Bolton, cũng chẳng yêu quý con trai ông ta, nhưng Đội Tuần Đêm không thể đứng lên chống lại họ. Lời thề của chúng thần không cho phép…”
“Ta biết tất cả những lời tuyên thệ của các ngươi. Ngươi hãy thôi tỏ ra chính trực đi, Lãnh chúa Snow, ta có đủ sức mạnh mà không cần ngươi. Ta đã quyết định tiến quân về Dreadfort.” Khi nhìn thấy vẻ kinh ngạc trên mặt Jon, nhà vua mỉm cười. “Ngươi thấy ngạc nhiên đúng không? Tốt. Cái gì gây bất ngờ cho tên con hoang này thì cũng có thể làm ngạc nhiên một tên con hoang khác. Con Hoang Nhà Bolton đã đi về phương nam cùng với Hother Umber. Mors Umber và Arnolf Karstark đã khẳng định điều đó. Như vậy có nghĩa là chúng sẽ đánh Moat Cailin, mở đường cho lãnh chúa cha hắn quay về phương bắc. Tên con hoang chắc hẳn nghĩ ta quá bận rộn với đám dân du mục nên không để ý đến hắn. Tốt thôi. Thằng nhóc đã giơ cổ ra cho ta, thì ta sẽ phải chặt đứt nó. Roose Bolton có thể lấy lại được phương bắc, nhưng khi đó, hắn sẽ thấy lâu đài, vật nuôi, mùa màng của hắn đều đã thuộc về ta. Nếu ta bất ngờ tiến đánh Dreadfort…”
“Không được đâu,” Jon buột miệng.
Câu nói ấy chẳng khác nào anh vừa dùng gậy chọc vào một tổ ong vò vẽ. Một trong số người của hoàng hậu phá lên cười, một tên khác nhổ nước bọt, một tên lẩm bẩm chửi thề, và tất cả những người còn lại đều lên tiếng cùng một lúc. “Thằng nhóc này
máu làm bằng sữa à,” Ser Godry Gϊếŧ Người Khổng Lồ nói. Lãnh chúa Sweet đùng đùng nổi giận, “Lũ hèn nhát nhìn đâu cũng thấy bọn ngoài vòng pháp luật.”
Stannis giơ tay ra dấu im lặng. “Ngươi hãy giải thích đi.”
Phải bắt đầu từ đâu đây? Jon đi tới chỗ chiếc bản đồ. Nến được đặt vào các góc bản đồ để tấm giấy không cuộn tròn lại. Sáp nóng chảy xuống dọc theo Vịnh Hải Cẩu, chậm chạp như dòng sông băng. “Để tới Dreadfort, đức vua phải đi dọc vương lộ, qua Sông Cuối, rẽ về hướng đông nam và băng qua ngọn đồi Cô Độc.” Anh nói. “Đó là vùng đất của Nhà Umber, nơi họ hiểu rõ từng ngọn cây, từng hòn đá. Vương lộ chạy dọc vùng đất phía tây của họ và kéo dài hàng mấy trăm dặm. Mors sẽ đập tan đội quân của ngài thành từng mảnh, trừ khi ngài đồng ý với những điều khoản và lôi kéo được ông ta về phía mình.”
“Tốt. Vậy nếu ta đồng ý thì sao.”
“Thì ngài sẽ tới được Dreadfort,” Jon nói, “nhưng trừ khi đội quân của ngài bay nhanh hơn, nếu không tòa lâu đài sẽ thừa biết về cuộc hành quân của ngài. Ramsay Bolton sẽ dễ dàng cắt đường tháo lui của ngài và để ngài ở một nơi xa Tường Thành, không có thức ăn hay nơi trú ẩn, tứ phía đều là kẻ thù.”
“Chỉ khi nào hắn bỏ vây Moat Cailin.”
“Moat Cailin sẽ thất thủ trước khi ngài tới được Dreadfort. Một khi Lãnh chúa Roose hợp lực với Ramsay, quân số của họ sẽ gấp năm lần của ngài.”
“Anh trai ta vẫn thắng hết trận này đến trận khác, dù chênh lệch lợi thế rất lớn.”
“Snow, ngài cho rằng Moat Cailin sẽ thất thủ nhanh chóng,” Justin Massey phản đối, “nhưng người sắt là những chiến binh gan dạ, và ta còn nghe nói Moat chưa bị chiếm bao giờ.”
“Từ phương nam thôi. Một đội quân đồn trú nhỏ ở Moat Cailin có thể phá tan bất cứ đội quân nào tiến lên con đường đắp cao, nhưng điểm yếu là ở phía đông và bắc.” Jon quay lại nói với Stannis. “Thưa đức vua, đây là một đòn tấn công táo bạo, nhưng rủi ro…” Đội Tuần Đêm không tham gia những chuyện này. Đối với ta, Baratheon hay Bolton có khác gì nhau đâu. “Nếu Roose Bolton bắt được ngài dưới chân tường thành với sức mạnh chủ lực của ông ta thì đó sẽ là cái kết cho tất cả các ngài.”
“Mạo hiểm là một phần của chiến tranh,” Ser Richard Horpe nói. Ông ta là một hiệp sĩ gầy còm với khuôn mặt chằng chịt sẹo, trên chiếc áo chẽn chần bông có hình ba con bướm đêm mang họa tiết đầu lâu xương chéo trên cánh, nền gia huy màu tro và xám. “Mọi trận đánh đều có may rủi, Snow. Kể cả một người không làm gì thì vẫn có thể có rủi ro.”
“Rủi ro ở khắp nơi, Ser Richard. Nhưng rủi ro này… quá lớn, quá sớm và quá xa. Tôi biết Dreadfort. Đó là một tòa lâu đài kiên cố, tất cả xây bằng đá với tường dày và những tòa tháp vĩ đại. Tòa lâu đài đủ lương thực dự trữ cho mùa đông đang đến. Nhiều thế kỷ trước, Nhà Bolton đứng lên chống lại Vua phương Bắc, và Harlon Stark bao vây Dreadfort. Ông ấy phải bao vây mất hai năm tòa lâu đài mới cạn kiệt lương thực dự trữ. Nếu hy vọng chiếm tòa lâu đài, ngài cần có công cụ công thành, tháp bao vây, gỗ phá cổng thành…”
“Nếu cần thì dựng tháp bao vây,” Stannis nói. “Nếu cần gỗ công thành thì có thể chặt cây để làm. Arnolf Karstark viết thư nói ở Dreadfort chỉ còn không đến năm mươi người, một nửa trong số đó là người hầu rồi. Một tòa thành vững chãi mà không được canh giữ cẩn thận thì cũng trở nên mong manh.”
“Năm mươi người bên trong bằng năm trăm người bên ngoài.”
“Tùy thuộc những người đó là ai,” Richard Horpe nói. “Sẽ có những ông già và lũ nhóc non nớt, những người mà tên con hoang không định dùng cho chiến đấu. Người của chúng ta đều đã đổ máu và được thử thách trên dòng Xoáy Nước Đen, và họ được các hiệp sĩ chỉ huy.”
“Ngài đã thấy chúng ta chiến đấu với dân du mục thế nào rồi đấy.” Ser Justin hất một lọn tóc vàng ra phía sau. “Nhà Karstark đã thề sẽ tập trung lực lượng với chúng ta
ở Dreadfort, và chúng ta còn có cả dân du mục nữa. Ba trăm người trong độ tuổi chiến đấu. Lãnh chúa Harwood đã đếm khi họ đi qua cổng. Kể cả phụ nữ của họ cũng là những chiến binh.”
Stannis cau mặt nhìn anh ta. “Ta thì không muốn như vậy, ser. Ta không muốn có một lũ góa phụ than vãn sau lưng. Phụ nữ sẽ ở lại đây với người già, người bị thương và trẻ nhỏ. Họ sẽ là con tin để chồng và cha họ trung thành với chúng ta. Đàn ông du mục sẽ được dùng làm quân tiên phong. Magnar sẽ chỉ huy họ, cùng với các đội trưởng của riêng bọn họ. Tuy nhiên, đầu tiên chúng ta cần trang bị vũ khí cho họ đã.”
Ông ta muốn tước đoạt cả kho vũ khí của ta, Jon ngẫm nghĩ. Thực phẩm, quần áo, đất đai, lâu đài, giờ lại cả vũ khí nữa. Mỗi ngày ông ta lại kéo mình vào sâu hơn. Lời nói không phải là đao kiếm, nhưng kiếm là kiếm. “Thần có thể tìm được ba trăm cây giáo,” anh ngần ngại nói. “Mũ giáp nữa, nếu ngài chịu lấy những chiếc cũ, bẹp và gỉ sét.”
“Thế còn giáp thì sao?” Magnar hỏi. “Giáp vảy cá? Giáp xích?”
“Khi Donal Noye chết chúng ta không có người chế tạo vũ khí nữa.” Phần còn lại Jon không nói. Nếu trang bị khiên giáp cho dân du mục, họ sẽ trở nên nguy hiểm gấp đôi cho vương quốc này.
“Da thuộc là đủ rồi,” Ser Godry nói. “Một khi vào trận, những người sống sót có thể lấy đồ của người chết.”
Sẽ chẳng mấy người sống được lâu như vậy. Nếu Stannis cho đám dân du mục lên tiên phong, hầu hết sẽ nhanh chóng bỏ mạng. “Mors Umber có thể sẽ thỏa mãn khi được uống rượu trong đầu lâu của Mance Rayder, nhưng việc dân du mục băng qua vùng đất của ông ta thì không đâu. Đám cư dân tự do đã cướp bóc của Nhà Umber từ buổi Sơ Khai, khi họ băng qua Vịnh Hải Cẩu tìm vàng, cừu và phụ nữ. Một trong số những người bị mang đi là con gái Thức Ăn Quạ. Thưa đức vua, hãy để dân du mục lại đây. Đem họ đi chỉ khiến các chư hầu của cha thần quay lưng chống lại ngài thôi.”
“Đằng nào thì các chư hầu của cha ngươi cũng đâu có ủng hộ gì ta. Có lẽ họ cho ta là… ngươi từng gọi ta là gì ấy nhỉ, Lãnh chúa Snow? Một kẻ yêu sách thất bại nữa thôi à?” Stannis nhìn chăm chú vào tấm bản đồ. Trong một lúc lâu, âm thanh duy nhất phát ra chỉ là tiếng nghiến răng của nhà vua. “Các ngươi đi đi. Tất cả các ngươi. Lãnh chúa Snow ở lại.”
Cách giải tán cộc cằn của nhà vua khiến Justin Massey không vui vẻ cho lắm, nhưng ông ta không còn lựa chọn nào khác ngoài mỉm cười và cáo lui. Horpe theo ông ta ra ngoài sau khi nhìn Jon dò xét. Clayton Suggs uống cạn cốc rượu và lẩm bẩm câu gì đó với Harwood Fell khiến gã trẻ tuổi hơn phá lên cười. Anh nghe thấy từ thằng nhóc. Suggs là một hiệp sĩ tự do được thăng cấp, vừa mạnh mẽ vừa thô lỗ cục cằn. Người cuối cùng rời đi là Giáp Xương. Ở cửa, hắn cúi chào Jon với vẻ chế giễu rồi nhe một mồm đầy răng nâu khấp khểnh ra cười.
Tất cả các ngươi có vẻ không bao gồm Quý cô Melisandre. Cái bóng màu đỏ của nhà vua. Stannis gọi Devan mang thêm nước chanh lên. Khi cốc được rót đầy, nhà vua uống một hơi và nói, “Horpe và Massey tham vọng ngồi được lên chiếc ghế của cha ngươi. Massey còn muốn cả công chúa du mục nữa. Hắn từng là cận vệ của Robert, có lẽ vì thế hắn học được thói thèm da thịt đàn bà. Horpe sẽ lấy Val làm vợ nếu ta ra lệnh, nhưng thứ hắn thèm là được chiến đấu. Khi còn là cận vệ, hắn từng mơ về chiếc áo choàng trắng, nhưng Cersei Lannister nói xấu hắn và hắn bị Robert bỏ qua. Có thể đó là điều đúng đắn. Ser Richard quá đam mê chém gϊếŧ. Ngươi muốn ai lên làm Lãnh chúa của Winterfell, Snow? Gã hay cười hay gã gϊếŧ người?”
“Winterfell thuộc về Sansa, em gái thần,” Jon nói.
“Ta đã nghe tất cả những gì cần nghe về tiểu thư Nhà Lannister và những tuyên bố của cô ta.” Nhà vua gạt chiếc cốc sang một bên. “Ngươi có thể đem phương bắc về cho ta. Các chư hầu của cha ngươi sẽ ủng hộ con trai của Eddard Stark. Thậm chí cả vị Lãnh chúa Quá-Béo-Không-Ngồi-Được-Ngựa cũng vậy. Cảng White sẽ là nguồn cung cấp dự trữ và là một nơi an toàn để ta có thể rút lui về nếu cần. Vẫn chưa quá
muộn để sửa chữa tất cả những sai lầm của mình đâu, Snow. Hãy quỳ gối và thề với thanh đại kiếm con hoang đó, và đứng lên với vai trò Jon Stark, Lãnh chúa của Winterfell và Người Bảo Hộ Phương Bắc.”
Ông ta còn bắt mình nói điều đó bao nhiêu lần nữa? “Thần đã thề chỉ nâng kiếm cho Đội Tuần Đêm.”
Stannis tỏ vẻ khinh bỉ. “Cha ngươi cũng là một kẻ cứng đầu. Ông ta gọi đó là danh dự. Đúng, nhưng danh dự có cái giá của nó, và Lãnh chúa Eddard đã học được điều đó. Ta cũng nói luôn cho ngươi mừng, Horpe và Massey đều sẽ phải thất vọng thôi. Ta muốn tặng Winterfell cho Arnolf Karstark. Một người phương bắc tốt bụng.”
“Một người phương bắc.” Thà một người Nhà Karstark còn hơn là người Nhà Bolton hay Greyjoy, Jon tự nhủ, nhưng suy nghĩ đó cũng không an ủi anh được là bao. “Nhà Karstark bỏ rơi anh trai thần giữa một rừng kẻ thù.”
“Đó là sau khi anh trai ngươi chặt đầu Lãnh chúa Rickard. Arnolf ở cách đó mấy ngàn dặm. Và ông ta có dòng máu Stark trong người. Dòng máu của Winterfell.”
“Cũng như một nửa số gia tộc khác ở phương bắc thôi.” “Các gia tộc đó chưa tuyên bố ủng hộ ta.”
“Arnolf Karstark là một ông già lưng đã còng, ngay cả hồi còn trẻ ông ta cũng chưa bao giờ là một chiến binh giống như Lãnh chúa Rickard. Chỉ cần chiến dịch khắc khổ một chút cũng đủ gϊếŧ chết ông ta rồi.”
“Ông ta có người nối dõi,” Stannis đáp. “Hai con trai, sáu cháu trai, và một số con gái. Nếu Robert có các con trai ruột thịt mang dòng máu của mình thì rất nhiều kẻ tưởng đã chết nhưng vẫn còn sống sót.”
“Thức Ăn Quạ sẽ có lợi hơn cho người.”
“Dreadfort sẽ là minh chứng cho điều đó.”
“Vậy là ngài vẫn muốn thực hiện cuộc tấn công này?”
“Bỏ ngoài tai những lời tư vấn của Lãnh chúa Snow vĩ đại? Ừ, đúng thế. Horpe và Massey có thể quá tham vọng, nhưng họ nói không sai. Ta không thể ngồi im một chỗ trong khi ngôi sao của Roose Bolton sáng dần, còn của ta thì mỗi lúc một tàn lụi. Ta phải tấn công và cho phương bắc thấy ta vẫn là một kẻ đáng gờm.”
“Quý cô Melisandre không nhìn thấy người cá của Nhà Manderly trong số đám cờ hiệu trong ngọn lửa,” Jon nói. “Nếu ngài có được Cảng White và các hiệp sĩ của Lãnh chúa Wyman…”
“Nếu là một từ chỉ dành cho lũ ngốc. Chúng ta chẳng có tin tức gì từ Davos. Có thể
ông ta chẳng bao giờ đến được Cảng White. Arnolf Karstark viết thư nói rằng giông bão nổi lên rất mạnh trên biển hẹp. Cứ cho là như vậy. Ta không có thời gian để thương tiếc, cũng không có thời gian để chờ đợi và phụ thuộc vào ý thích nhất thời của lão già Quá-Béo đó. Ta phải coi như Cảng White là một thất bại của mình. Không có con trai của Lãnh chúa Winterfell bên cạnh, ta chỉ có thể hy vọng chiếm được phương bắc bằng vũ lực. Điều đó nghĩa là ta phải ăn cắp một tờ giấy trong cuốn sách của anh trai ta. Ta nghĩ Robert chắc chưa bao giờ đọc nó. Ta phải giáng cho kẻ thù một đòn chí mạng trước khi chúng kịp nhận ra chúng bị tấn công.”
Jon hiểu rằng lời nói của mình không có giá trị gì. Stannis sẽ chiếm được Dreadfort hoặc chết khi đang cố gắng thực thi việc đó. Đội Tuần Đêm không tham gia, một giọng nói vang lên, nhưng một giọng nói khác trả lời, Stannis chiến đấu vì vương quốc, còn người sắt chiến đấu để bắt nô ɭệ và cướp bóc. “Thưa đức vua, thần biết ngài có thể tìm thêm quân ở đâu. Hãy cho thần toàn bộ số dân du mục, và thần sẽ vui lòng chỉ cho người biết họ ở đâu và làm cách nào để có được họ.”
“Ta đã cho ngươi Giáp Xương rồi. Hãy biết hài lòng với hắn.” “Thần muốn có tất cả bọn họ.”
“Một số anh em trong Đội Tuần Đêm của ngươi nói với ta rằng ngươi cũng mang một nửa dòng máu du mục. Có thật không thế?”
“Với ngài họ chỉ là tấm khiên. Nhưng thần có thể sử dụng họ một cách hữu ích hơn trên Tường Thành. Hãy để thần sử dụng họ theo ý mình, và thần sẽ chỉ cho người phải tìm chiến thắng ở đâu… và cả binh lính nữa.”
Stannis xoa gáy. “Ngươi mặc cả chẳng khác gì bà già bán cá, Lãnh chúa Snow ạ. Có phải ngươi là con của Ned Stark với một mụ bán cá nào đó không? Bao nhiêu người?”
“Hai nghìn. Có thể là ba.”
“Ba nghìn? Họ là những người như thế nào?”
“Kiêu hãnh. Nhưng nghèo. Họ giãy nảy lên khi niềm kiêu hãnh bị tổn thương, nhưng đó là những chiến binh dữ dội.”
“Đây không phải trò bịp bợm của một tên con hoang đấy chứ? Ta có nên đổi 300 lấy 3000 chiến binh không? Có, ta đồng ý chứ. Ta đâu phải tên đại ngốc. Nếu ta để cho ngươi cả đứa con gái đó, ngươi có hứa sẽ để mắt kỹ lưỡng đến công chúa của chúng ta không?
Cô ấy không phải công chúa. “Xin theo ý ngài.”
“Ta có cần phải bắt ngươi thề trước một cái cây không?”
“Không.” Liệu đó có phải là một câu đùa? Với Stannis thì thật khó mà biết chắc được.
“Vậy thì xong. Giờ thì nói cho ta, những người đó ở đâu?”
“Ngài sẽ tìm thấy họ ở đây.” Jon xòe bàn tay bị bỏng trên tấm bản đồ, phía tây vương lộ và phía nam vùng Quà Tặng.
“Trên mấy ngọn núi đó à?” Stannis nghi hoặc. “Ta chẳng thấy có tòa lâu đài nào ở đó. Không đường xá, không thị trấn, không làng mạc.”
“Bản đồ không phải là thực địa, cha thần thường nói vậy. Con người đã sống trong những thung lũng cao và các đồng cỏ trên núi suốt hàng nghìn năm, được cai trị bởi các tộc trưởng. Ngài có thể gọi họ là các lãnh chúa nhỏ, tuy nhiên họ không gọi nhau như vậy. Nhà vô địch của các bộ tộc sẽ chiến đấu với một kiếm sĩ cầm song kiếm vĩ đại, trong khi dân thường ném đá và chiến đấu với nhau bằng gậy gộc làm từ gỗ tần bì núi. Đám dân hay gây gổ. Khi không đánh nhau, họ sẽ trông nom gia súc, câu cá trên Vịnh Đá, và tạo ra những giống ngựa khó cưỡi nhất từ trước đến giờ.”
“Và ngươi tin là họ sẽ chiến đấu vì ta?”
“Nếu ngài hỏi họ.”
“Tại sao ta phải cầu xin những gì thuộc về mình?”
“Thần nghĩ đó là hỏi, không phải cầu xin.” Jon co tay lại. “Gửi thông điệp sẽ chẳng mang lại kết quả gì. Người phải đích thân tới chỗ bọn họ. Ăn bánh mỳ và muối của họ, uống bia của họ, nghe họ thổi sáo, ca ngợi vẻ đẹp của con gái và lòng dũng cảm của con trai họ, rồi họ sẽ trao cho ngài các tay kiếm. Các bộ tộc trên núi chưa bao giờ được diện kiến một vị vua kể từ khi Torrhen Stark quỳ gối xin hàng. Việc ngài đến thăm sẽ là một niềm vinh dự lớn cho họ. Còn nếu ra lệnh cho họ chiến đấu, họ sẽ chỉ nhìn nhau và nói, ‘Người này là ai? Ông ta đâu phải vua của mình.’”
“Vừa rồi ngươi nhắc đến bao nhiêu bộ lạc?”
“24 bộ lạc lớn nhỏ. Đá Lửa, Wull, Norrey, Liddle… chỉ cần thuyết phục được Đá Lửa Già và Xô Đại thì tất cả sẽ theo ngài.”
“Xô Đại à?”
“Người Wull. Ông ta có cái bụng bự nhất vùng núi đó, và cũng có đông người nhất. Người Wull đánh cá trên Vịnh Băng và luôn dọa con cái họ rằng người sắt sẽ đến bắt chúng đi nếu chúng không biết cư xử cho phải phép. Tuy nhiên để đến với họ, ngài phải đi qua vùng đất của Norrey. Họ ở gần vùng Quà Tặng nhất và luôn là bạn tốt của Đội Tuần Đêm. Thần có thể chỉ dẫn cho ngài.”
“Có thể à?” Stannis không bỏ sót một lời nào. “Hay là sẽ?”
“Sẽ. Ngài sẽ cần đến những chỉ dẫn đó. Và một số bộ binh có đôi chân chắc khỏe nữa. Con đường lên trên đó chỉ rộng hơn đường dê đi một chút xíu thôi.”
“Đường dê đi?” Nhà vua nheo mắt. “Ta đang nói phải di chuyển ngay lập tức, và ngươi làm mất thời gian của ta với đường dê đi là sao?”
“Khi Rồng Trẻ chinh phạt xứ Dorne, ông ta từng dùng đường dê đi để tránh các tháp quán sát của Dorne tại Boneway.”
“Ta cũng biết câu chuyện đó, nhưng Daeron khoa trương về nó quá nhiều trong cuốn sách huy hoàng rỗng tuếch của ông ta. Những con thuyền đem lại chiến thắng cho cuộc chiến đó, không phải đường dê đi. Oakenfist đập tan Thị trấn Planky và đã tiến đến nửa dòng Greenblood trong khi lực lượng chính của Dorne lại tập trung trên Đèo Hoàng Tử.” Stannis gõ ngón tay xuống bản đồ. “Các lãnh chúa miền núi đó sẽ không cản trở đường đi của ta chứ?”
“Chỉ bằng tiệc tùng thôi. Ai cũng muốn tỏ ra hiếu khách hơn những người khác. Lãnh chúa cha thần nói ông ấy chưa bao giờ ăn khỏe bằng một nửa hồi đi thăm các bộ tộc đó.”
“Để đổi lấy ba nghìn người, có lẽ ta sẽ cố nghe tiếng tiêu và ăn vài bát cháo đặc,” nhà vua nói, tuy nhiên ngay cả lúc này, giọng ông vẫn gắt gỏng.
Jon quay sang phía Melisandre. “Thưa quý cô, xin hãy lưu ý một chút. Ảnh hưởng của các cựu thần ở vùng núi đó rất mạnh. Các bộ tộc sẽ không để cây đước của họ bị sỉ nhục đâu.”
Có vẻ điều đó khiến cô ta thích thú. “Đừng sợ, Jon Snow, ta sẽ không quấy rầy đám người hoang dã trên núi của cậu và các vị thần đen tối của họ đâu. Chỗ của ta là ở đây với cậu và các anh em dũng cảm của Đội Tuần Đêm.”
Đó là thứ cuối cùng Jon Snow muốn, nhưng anh chưa kịp phản đối thì nhà vua đã nói, “Ngươi muốn ta dẫn đám người lực lưỡng đó đi đâu, nếu không phải đến tấn công Dreadfort?”
Jon liếc nhìn xuống tấm bản đồ. “Deepwood Motte.” Anh trỏ bằng một ngón tay. “Nếu Bolton định chiến đấu với người sắt thì ngài cũng phải làm vậy. Deepwood là tòa lâu đài kiểu hào ngoài tường trong, nằm giữa rừng rậm và rất dễ trèo lên đánh úp bất ngờ. Một tòa lâu đài gỗ, được bảo vệ bởi con hào đất và hàng rào cọc gỗ. Tất nhiên việc hành quân sẽ chậm chạp hơn khi phải di chuyển trên núi, nhưng trên đó đội quân của ngài có thể di chuyển mà không ai biết, và sau đó xuất hiện bất thình lình trước cổng Deepwood.”
Stannis đưa tay xoa hàm. “Khi Balon Greyjoy nổi dậy lần thứ nhất, ta đã đánh thắng người sắt trên biển, khi chúng hung tợn nhất. Trên mặt đất, nếu bị đánh úp bất ngờ… đúng vậy. Ta đã chiến thắng dân du mục và vị Vua-Bên-Ngoài-Tường-Thành của chúng. Nếu ta có thể đập tan cả người sắt, dân phương bắc sẽ biết họ lại có một vị vua.”
Và ta sẽ có một nghìn dân du mục, Jon nghĩ, trong khi quân lương cho một nửa số đó ta cũng không có đủ.