Chiếc thuyền Bà Đỡ Vui Vẻ tiến vào Cảng White lúc chiều tà khi thủy triều lên, cánh buồm vá víu bay lật phật theo từng đợt gió.
Đó là một con thuyền cog cũ kỹ, mà ngay cả khi nó chưa cũ thì cũng chẳng ai khen nó đẹp. Hình chạm ở mũi thuyền là một người phụ nữ đang cười, tay nắm cổ chân một đứa trẻ, nhưng hai má người phụ nữ và mông đứa bé đều lỗ chỗ những lỗ mọt. Không biết bao nhiêu lớp sơn màu nâu xỉn được sơn đi sơn lại trên thân thuyền; những cánh buồm xám rách tả tơi. Đó là con thuyền mà chẳng ai thèm nhìn đến lần thứ hai, trừ khi họ không hiểu tại sao nó vẫn còn nổi được. Bà Đỡ Vui Vẻ khá có tiếng ở Cảng White. Trong suốt nhiều năm, con thuyền vẫn buôn bán nhỏ giữa nơi này và Sisterton.
Khi mới ra khơi cùng Salla và hạm đội của ông ta, Davos Seaworth không thể tưởng tượng được ông sẽ cập bến kiểu này. Hồi đó tất cả đều đơn giản hơn. Những con quạ không mang về cho vua Stannis lòng trung thành của Cảng White, vì thế nhà vua phải cử sứ giả đi gặp trực tiếp Lãnh chúa Manderly. Để phô trương sức mạnh, Davos sẽ đến cùng con thuyền ga-lê Valyria của Salla, đằng sau là toàn bộ hạm đội xứ Lys. Tất cả thân thuyền đều được trang trí kẻ sọc: đen và vàng, hồng và xanh da trời, xanh lá và trắng, tía và vàng. Người Lys thích màu sắc sặc sỡ, và Salladhor Saan là kẻ hoa hòe hoa sói hơn cả. Salladhor Lộng Lẫy, Davos thầm nghĩ, nhưng những cơn bão đã đặt dấu chấm hết cho tất cả.
Thay vào đó, ông lẻn vào thành phố giống như vẫn thường làm cách đây hai mươi năm. Trước khi ông chắc chắn về mọi việc ở đây, tốt nhất cứ đóng vai một thủy thủ bình thường thay vì lãnh chúa.
Các bức tường thành bằng đá quét vôi trắng bao quanh Cảng White hiện ra trước mặt họ trên bờ biển phía đông, nơi dòng Bạch Đao đổ ra vịnh. Một số hàng phòng thủ của thành phố đã được tu sửa kể từ lần cuối Davos ở đây sáu năm về trước. Con đê chắn sóng phân chia cảng trong và cảng ngoài được gia cố bằng một bức tường đá cao chín mét và dài gần một dặm. Cứ cách một trăm thước lại có một tòa tháp. Có khói bay lên từ Bức Tường Hải Cẩu, nơi trước kia chỉ là một đống đổ nát hoang tàn. Điều đó có thể tốt hoặc xấu, tùy thuộc vào việc Lãnh chúa Wyman chọn bên nào.
Davos luôn thích thành phố này, kể từ lần đầu ông đến đây với vai trò một cậu nhóc giúp việc trên thuyền Đá Cuội Mèo. Dù nhỏ hơn so với Oldtown hay Vương Đô, nhưng thành phố này sạch sẽ và trật tự với những con đường trải sỏi rộng và thẳng tắp, nên rất dễ tìm đường. Nhà cửa cũng được xây bằng đá quét vôi, với những mái nhà dốc lợp ngói đen xám. Roro Uhoris, chủ nhân già gàn dở của thuyền Mèo Đá
Cuội từng nói rằng ông có thể phân biệt các hải cảng chỉ bằng mùi của chúng. Thành phố cũng giống như phụ nữ, ông khẳng định; mỗi thành phố có một mùi riêng đặc biệt. Oldtown hoa mỹ như một người đàn bà giàu có sực nức nước hoa. Lannisport là một cô gái vắt sữa, tươi trẻ và trần tục, khói bếp còn vương trên mái tóc. Vương Đô bốc mùi tanh như một con điếm lâu ngày không tắm. Nhưng mùi hương của Cảng White nặng và đầy vị muối, và có chút mùi cá nữa. “Cô ta có mùi giống nàng tiên cá.” Roro nói. “Cô ta mang mùi của biển.”
Đến giờ mùi của cô ta vẫn vậy, Davos nghĩ, nhưng ông ngửi thấy cả mùi khói than bùn thoảng lên từ Bức Tường Hải Cẩu. Bức tường đá biển án ngữ mọi lối dẫn tới cảng ngoài, một bức tường xanh xám đồ sộ cao hơn 15 mét trên mặt nước và nhô thẳng lên trời. Trên đỉnh bức tường là những vòng tròn bằng đá cũ mòn, một pháo đài tròn của Tiền Nhân đứng bơ vơ và bị bỏ hoang hàng mấy trăm năm trước. Tuy nhiên giờ nó không còn bị bỏ hoang nữa. Davos nhìn thấy pháo và máy bắn đá đằng sau những bức tường và lấp ló các cung thủ ngó ra. Chắc trên đó phải lạnh và ướŧ áŧ lắm. Những lần trước tới đây, đám hải cẩu vẫn thường sưởi nắng trên đống đá vỡ bên dưới. Tên Con Hoang Mù luôn bắt ông phải đếm chúng mỗi khi Đá Cuội Mèo ra khơi từ Cảng White; càng có nhiều hải cẩu ở đó, họ sẽ càng may mắn trong cuộc hành trình, Roro nói vậy. Giờ chẳng có con hải cẩu nào ở đó. Khói và binh lính đã khiến chúng sợ hãi bỏ đi. Một người khôn ngoan hơn sẽ coi đó là một lời cảnh báo. Nếu biết suy nghĩ một chút thì giờ này mình đã lên đường cùng với Salla. Như vậy có nghĩa là ông sẽ quay về phương nam, về với Marya và các con trai họ. Ta đã mất bốn con trai vì phục vụ nhà vua, và người con thứ năm đang làm cận vệ cho ngài. Ta có quyền yêu thương và trân trọng hai đứa con còn lại. Đã lâu quá rồi ta chưa được nhìn thấy chúng.
Ở Trạm Đông, các anh em áo đen nói với ông rằng Nhà Manderly ở Cảng White và Nhà Bolton ở Dreadfort chẳng yêu quý gì nhau. Ngai Sắt đã cho Roose Bolton lên làm Người Bảo Hộ Phương Bắc, vì vậy đó có thể là lý do Wyman Manderly nên ủng hộ vua Stannis. Cảng White không thể đứng một mình. Thành phố cần một đồng minh, một người bảo hộ. Lãnh chúa Wyman cần vua Stannis chẳng kém gì việc Stannis cần ông ta. Hoặc là khi ở Trạm Đông, mọi việc có vẻ diễn ra như vậy.
Sisterton đã xóa hết những hy vọng đó. Nếu những gì Borrell nói là đúng, nếu Nhà Manderly muốn nhập sức mạnh của họ với Nhà Bolton và Nhà Frey thì… không, ông không thể nghĩ theo hướng đó. Davos sẽ nhanh chóng được biết sự thật. Ông chỉ mong mình không đến quá trễ.
Con đê chắn sóng bao quanh cảng trong, ông nhận ra khi thuyền Bà Đỡ Vui Vẻ hạ buồm. Cảng ngoài lớn hơn, nhưng cảng trong có chỗ thả neo tốt hơn, một phía được bảo vệ bởi bức tường thành phố, phía còn lại là Hang Sói khổng lồ, và giờ là cả con đê chắn sóng nữa. Tại Trạm-Đông-Bên-Bờ-Biển, Cotter Pyke nói với Davos rằng
Lãnh chúa Wyman đang tập hợp một hạm đội ga-lê chiến. Có thể một tá thuyền đang núp đằng sau những bức tường đó và chờ lệnh để được ra khơi.
Đằng sau những bức tường trắng dày của thành phố, lâu đài New Castle màu xám nhạt vươn lên kiêu hãnh trên đỉnh đồi. Davos nhìn thấy mái ngói hình vòm của Điện Tuyết, xung quanh là những bức tượng cao của Thất Diện Thần. Nhà Manderly đã mang Thất Diện Thần cùng với họ lên phía bắc, khi họ bị đuổi khỏi vùng Reach. Cảng White cũng có rừng thiêng, một đám rễ, cành cây và đá bị che lấp bởi những bức tường đen đổ nát của Hang Sói, một pháo đài cổ hiện nay chỉ được dùng làm nhà ngục. Nhưng hầu hết những nơi khác ở đây đều thuộc quyền cai trị của các tu sĩ.
Bằng chứng là người cá của Nhà Manderly có mặt khắp mọi nơi, bay phấp phới trên nóc các tòa tháp của New Castle, ngay phía trên cổng Hải Cẩu và dọc bức tường thành. Tại Trạm Đông, người phương bắc khăng khăng cho rằng Cảng White sẽ không bao giờ phá bỏ mối liên minh với Winterfell, nhưng Davos chẳng thấy dấu vết nào của con sói tuyết Nhà Stark. Ở đây cũng không có con sư tử nào hết. Lãnh chúa Wyman chắc hẳn vẫn chưa tuyên bố ủng hộ vua Tommen, nếu không ông ta đã treo cờ của thằng nhóc lên rồi.
Các cầu tàu ở bến cảng chật ních người. Một đám thuyền nhỏ đang xếp hàng gần chợ cá để dỡ hàng họ vừa đánh bắt được. Ông thấy có ba con thuyền đi sông, tất cả đều mảnh, dài và cứng cáp để chống lại dòng chảy siết và những đoạn dốc lởm chởm đá của dòng Bạch Đao. Tuy nhiên những con thuyền lớn đi biển mới thực sự khiến ông thích thú nhất; một cặp thuyền vuông nhếch nhác và tả tơi chẳng khác gì thuyền Bà Đỡ Vui Vẻ, chiếc ga-lê buôn Vũ Công Bão Táp, hai chiếc cog Magister Quả Cảm và Sừng Dê Kết Hoa Quả, một chiếc ga-lê đến từ Braavos nổi bật với thân thuyền cùng những cánh buồm đỏ tía…
…và xa hơn nữa là một con thuyền chiến.
Hình ảnh của nó như mũi dao gϊếŧ chết niềm hy vọng trong ông. Thân thuyền mang hai màu đen và vàng, hình chạm mũi thuyền là một con sư tử đang giơ móng vuốt. Dòng chữ trên đuôi thuyền ghi Sao Sư Tử, bên trên là một lá cờ bay phần phật, mang biểu tượng của tên vua con trên Ngai Sắt. Nếu là một năm trước thì ông không thể đọc được trên đó viết gì, nhưng Maester Pylos đã dạy ông một số chữ cái hồi ở Dragonstone. Ngày đó ông chẳng thích thú gì việc học và đọc chữ. Davos từng cầu cho con thuyền cũng mất tích trong trận bão tàn phá hạm đội của Salla, nhưng các vị thần đã không được tốt bụng cho lắm. Nhà Frey đang ở đây, và ông sẽ phải đối mặt với họ.
Thuyền Bà Đỡ Vui Vẻ neo ở cuối một cầu tàu bằng gỗ cũ kỹ ở cảng ngoài, cách xa thuyền Sao Sư Tử. Khi thủy thủ đoàn buộc thuyền vào cọc và hạ ván thuyền xuống,
thuyền trưởng thong dong đi tới chỗ Davos. Casso Mogat là con lai của vùng biển hẹp, mẹ hắn là gái điếm ở Sisterton và cha là một gã săn cá voi người Ibben. Chỉ cao có 1 mét rưỡi và râu tóc rậm rạp, hắn nhuộm tóc và râu màu xanh rêu. Chúng khiến hắn trông hệt như một gốc cây cắm trong đôi bốt màu vàng. Dù ngoại hình như vậy nhưng có vẻ hắn là một thuyền trưởng tốt, tuy có hơi nghiêm khắc với thủy thủ đoàn. “Ông sẽ đi bao lâu?”
“Ít nhất là một ngày. Hoặc có thể lâu hơn.” Giờ thì Davos đã biết các lãnh chúa rất thích khiến kẻ khác phải chờ đợi. Họ làm vậy để người ta phải lo lắng và để thể hiện quyền lực của mình, ông nghĩ vậy.
“Thuyền Bà Đỡ sẽ ở lại đây ba ngày. Không thể lâu hơn. Ở Sisterton họ sẽ tìm tôi.”
“Nếu mọi chuyện tốt đẹp, ngày mai tôi sẽ về.”
“Nếu không tốt đẹp thì sao?”
Thì có thể tôi sẽ không về nữa. “Anh không cần đợi tôi đâu.”
Hai lính kiểm soát thông thương đang trèo lên thuyền khi ông đi xuống ván cầu, nhưng chẳng tên nào nhìn ông lấy một cái. Họ đến để gặp thuyền trưởng và kiểm tra hàng hóa; những người đi biển bình thường chẳng bao giờ khiến họ bận tâm, và trông Davos không thể nào giống dân thường hơn được nữa. Ông có chiều cao vừa phải, khuôn mặt đặc vẻ nông dân dạn dày sương gió, cùng bộ râu muối tiêu và mái tóc nâu điểm những sợi màu xám. Bộ đồ ông mặc cũng đơn giản: bốt cũ, quần ống túm nâu và áo chùng dài màu xanh dương, một chiếc áo choàng len không nhuộm với móc gài bằng gỗ. Ông đeo một đôi găng tay da biến màu bởi muối biển để che đi những ngón tay ngắn ngủn do bị Stannis chặt đi nhiều năm về trước. Davos trông chẳng giống lãnh chúa chút nào, và quân sư của nhà vua lại càng không. Như vậy càng tốt, cho đến khi ông biết rõ tình hình ở đây ra sao.
Ông đi dọc cầu tàu và xuyên qua chợ cá. Magister Quả Cảm đang chất rượu mật ong lên thuyền. Những thùng rượu xếp thành bốn tầng chồng lên nhau dọc theo bến cảng. Đằng sau một chồng thùng rượu, ông nhác thấy ba thủy thủ đang chơi súc sắc. Xa hơn là các bà hàng cá đang rao bán những gì vừa bắt được và một cậu bé đánh trống trong khi một con gấu già tiều tụy đang nhảy nhót giữa một vòng tròn các con thuyền đi sông. Hai tên lính cầm giáo đứng gác ở Cổng Hải Cẩu, với phù hiệu của Nhà Manderly trên ngực, nhưng họ quá mải mê tán tỉnh một ả điếm nên chẳng để ý gì đến Davos. Cổng đang mở, và khung lưới sắt đã được kéo lên. Ông hòa với đoàn người để tiến vào.
Bên trong là một quảng trường rải sỏi cuội với đài phun nước ở chính giữa. Một người cá bằng đá nhô lên giữa mặt nước, chiều cao sáu mét từ đuôi lên đến đỉnh
vương miện. Chòm râu loăn xoăn của ông ta mang hai màu xanh và trắng, một trong ba mũi nhọn ở cây đinh ba bị gãy từ trước khi Davos chào đời, tuy nhiên trông ông ta vẫn vô cùng ấn tượng. Old Fishfoot là cái tên người dân ở đây đặt cho bức tượng. Quảng trường này được đặt theo tên một lãnh chúa đã chết nào đó, nhưng mọi người chỉ gọi nó là Sân Fishfoot.
Chiều nay quảng trường đông tấp nập. Một người phụ nữ giặt đồ lót ở chân đài phun nước Fishfoot và treo chúng lên cái đinh ba của ông để hong khô. Bên dưới khung tò vò của hành lang dành cho người bán hàng rong, đám người chép thuê và đổi tiền dựng những sạp hàng bên cạnh một phù thủy dạo, một phụ nữ bán thảo mộc và một người biểu diễn tung hứng cực tồi. Một nguời đàn ông bán táo chở trên một chiếc xe cút kít, một phụ nữ bán cá trích với hành thái nhỏ. Gà qué và trẻ con nhan nhản dưới chân. Hai cánh cửa bằng sắt và gỗ sồi vĩ đại của Old Mint ngày trước luôn đóng chặt khi Davos còn ở Sân Fishfoot, nhưng hôm nay chúng mở toang. Bên trong, ông nhìn thấy hàng trăm phụ nữ, trẻ em và người già đang khom lưng trên sàn, túm tụm với nhau trên những đống da lông thú. Một số người có bếp lửa nhỏ bên cạnh.
Davos dừng lại ở hành lang và đổi nửa xu lấy một quả táo. “Mọi người sống trong Old Mint à?” Ông hỏi người bán táo.
“Họ chẳng còn nơi nào để ở. Hầu hết bọn họ là cư dân vùng sông Bạch Đao. Cả người Hornwood nữa. Từ khi tên Con Hoang Nhà Bolton được lên nắm quyền, bọn họ đều muốn được bảo vệ bên trong những bức tường thành. Tôi không biết lãnh chúa định làm gì với họ. Hầu hết bọn họ chẳng có gì ngoài đống giẻ rách trên lưng.”
Cảm giác tội lỗi dâng lên trong Davos. Họ phải đến đây ẩn náu, đến một thành phố mà cuộc chiến còn chưa chạm tới, và hôm nay ta lại tới đây kéo họ trở lại với chiến tranh. Ông cắn một miếng táo và thấy tội lỗi cả vì điều đó. “Họ ăn thế nào?”
Người bán táo nhún vai. “Một số kẻ ăn xin. Một số tên trộm cắp. Bọn con gái trẻ thì đổi chác, theo cách mà lũ con gái vẫn làm khi đó là thứ duy nhất còn lại họ có thể bán. Những thằng nhóc cao hơn một mét rưỡi có thể có một chỗ trong doanh trại của lãnh chúa, chỉ cần cậu ta biết cách cầm giáo như thế nào.”
Vậy là ông ta đang tuyển người. Điều đó có thể là tốt… hoặc xấu, còn tùy. Quả táo khô khốc và bồn bột, nhưng Davos cố cắn một miếng nữa. “Lãnh chúa Wyman định đi theo tên Con Hoang đó à?”
“À,” người bán táo nói, “lần sau nếu lãnh chúa xuống đây ngồi ăn táo, tôi chắc chắn sẽ hỏi ông ta.”
“Tôi nghe nói con gái ông ta chuẩn bị lấy ai đó người Nhà Frey.”
“Cháu gái ông ta. Tôi cũng nghe nói vậy, nhưng lãnh chúa lại quên không mời tôi
đến dự đám cưới. Mà anh ăn sắp xong chưa? Tôi sẽ lấy lại cái lõi. Hạt của chúng tốt lắm.”
Davos ném cái lõi lại cho anh ta. Một quả táo dở tệ, nhưng bỏ ra nửa xu để biết được thông tin Manderly đang tuyển quân thì cũng đáng. Ông đi vòng quanh Old Fishfoot, đi qua chỗ một cô gái trẻ đang bán những cốc sữa tươi từ con dê của cô ta. Càng lúc ông càng nhớ ra nhiều điều hơn về thành phố này, nơi trước đây ông từng ở. Theo hướng cây đinh ba của Old Fishfoot trỏ là một con ngõ nơi họ bán cá thu khô giòn với màu vàng óng bên ngoài và trắng như tuyết bên trong. Đằng kia là một nhà thổ, sạch sẽ hơn hầu hết những chỗ khác và là nơi các thủy thủ có thể vui vẻ với phụ nữ mà không sợ bị ăn cắp hay bị gϊếŧ. Ở hướng còn lại là những ngôi nhà dựa vào tường Hang Sói như những con hàu bám vào thân thuyền cũ, trong số đó có một chỗ từng là xưởng bia, nơi họ chế ra bia đen mạnh và ngon đến nỗi một thùng bia đó có thể đổi được rượu vàng Arbor ở Braavos và cảng Ibben, đó là nếu dân địa phương còn để lại chút bia.
Tuy nhiên thứ ông muốn là rượu, loại rượu chua, đen và u ám. Ông đi bộ dọc sân, qua một nhịp cầu thang, tới một quán rượu ven đường tên Lươn Lười bên dưới một nhà kho toàn da lông cừu. Hồi ông còn là tên buôn lậu, quán Lươn đã nổi tiếng với những ả điếm già khắm khú và loại rượu kinh tởm nhất Cảng White, bánh thịt thì đầy mỡ và xuơng sụn, ngày ngon nhất cũng không ăn nổi, còn ngày dở nhất thì gây ngộ độc thức ăn. Trước “danh tiếng” như vậy, hầu hết dân địa phương đều tránh xa nơi đó, chỉ có những thủy thủ không biết gì mới bị mắc lừa. Ở Lươn Lười không thấy bóng dáng một tên lính canh hay người nào của triều đình.
Có những thứ chẳng bao giờ thay đổi. Bên trong nhà trọ Lươn thời gian như ngưng lại. Trần nhà mái vòm đen kịt bồ hóng, sàn nhà bằng đất nện, không gian đầy mùi khói, thịt ôi và mùi nôn mửa. Những cây nến mỡ trên bàn tỏa ra nhiều khói hơn là ánh sáng, và thứ rượu mà Davos gọi ra có màu nâu nhiều hơn đỏ trong ánh sáng tù mù. Bốn ả điếm đang ngồi gần cửa uống rượu. Một ả nhìn ông cười đầy hy vọng khi ông bước vào. Khi Davos lắc đầu, ả nói câu gì đó khiến bạn ả phá lên cười. Sau đó họ không thèm để ý gì đến ông nữa.
Ngoài lũ điếm và chủ quán, chỉ có một mình Davos ngồi trong quán Lươn. Hầm rượu lớn đầy những góc yên tĩnh và tối tăm để một người đàn ông có thể ngồi một mình. Ông cầm cốc rượu đến một trong những góc đó và ngồi quay lưng vào tường chờ đợi.
Chẳng mấy chốc, ông thấy mình đang nhìn chăm chăm vào lò sưởi. Nữ tu đỏ có thể nhìn thấy tương lai trong lửa, nhưng tất cả những gì Davos Seaworth nhìn thấy là những cái bóng của quá khứ: những chiếc thuyền cháy, sợi xích bốc lửa, những cái
bóng màu xanh lá ẩn hiện sau những đám mây, hình ảnh Tháp Đỏ ở khắp nơi. Davos là một người đàn ông đơn giản, ông được nuôi sống bởi cơ may, chiến tranh và Stannis. Ông không hiểu tại sao các vị thần lại phải lấy đi bốn đứa con trai trẻ trung và khỏe mạnh của ông, trong khi để lại người cha mòn mỏi này. Có những đêm ông nghĩ ông được để lại để cứu Edric Storm… nhưng giờ đây con hoang của vua Robert đã an toàn trong điện Stepstones rồi, vậy sao Davos vẫn còn ở đây? Các vị thần còn có nhiệm vụ khác cho ta sao? Ông tự hỏi. Nếu vậy, Cảng White có thể là một phần trong đó. Ông nếm thử rượu, sau đó đổ nửa cốc ra sàn nhà dưới chân.
Khi hoàng hôn buông xuống bên ngoài, những chiếc ghế dài của quán Lươn bắt đầu có các thủy thủ đến ngồi. Davos gọi chủ quán mang ra một cốc rượu nữa. Khi đem rượu đến, ông ta mang cả một cây nến đến cho Davos. “Ông muốn đồ ăn không?” Người đàn ông hỏi, “Chúng tôi có bánh thịt đấy.”
“Loại thịt gì trong đó vậy?”
“Thịt bình thường thôi. Ngon lắm.”
Lũ điếm phá lên cười. “Thịt màu xám, ý ông ta là vậy,” một ả nói.
“Câm miệng lại đi. Cô cũng ăn chúng đấy.”
“Loại cứt nào tôi cũng ăn cả rồi. Nhưng không có nghĩa là tôi thích chúng.”
Davos thổi tắt nến ngay khi chủ quán đi khỏi, và lại ngồi trầm tư trong bóng tối. Thủy thủ là những kẻ buôn chuyện tồi nhất trên thế giới khi có rượu vào, cho dù đó là loại rượu rẻ tiền như ở đây. Tất cả những gì ông cần làm chỉ là lắng nghe.
Hầu hết những thông tin ông đều đã nghe ở Sisterton, từ Lãnh chúa Godric hoặc những người dân ở Bụng Cá Voi. Tywin Lannister đã chết, bị gϊếŧ bởi chính thằng con lùn của mình; xác ông ta thối đến nỗi không ai dám bước vào Đại Điện Baelor suốt nhiều ngày sau đó; Phu nhân vùng Eyrie bị một tên ca sĩ gϊếŧ hại; giờ Ngón Út đang cai trị vùng Thung Lũng, nhưng Bronze Yohn Royce thề sẽ hạ bệ ông ta; Balon Greyjoy cũng đã chết, và các em trai ông đang đấu đá nhau để giành chiếc Ngai Đá Biển; Sandor Clegane đã trở thành kẻ ngoài vòng pháp luật và đang gϊếŧ người, cướp bóc ở vùng đất dọc sông Trident; Myr, Lys và Tyrosh đang bị lôi vào một cuộc chiến khác; một cuộc nổi dậy của nô ɭệ đang diễn ra ở phía đông.
Các tin tức khác có vẻ thú vị hơn. Robett Glover đang ở trong thành phố và cố tuyển người nhưng chưa mấy thành công. Lãnh chúa Manderly bỏ ngoài tai những lời khẩn cầu của ông ta. Cảng White đã mệt mỏi vì chiến tranh, ông ta trả lời như vậy. Thật là tệ. Nhà Ryswell và Nhà Dustin đã đánh úp đám người sắt trên dòng Fever và đốt cháy đống thuyền dài của chúng. Tin đó còn tệ hơn. Và giờ tên Con Hoang Nhà Bolton đang cưỡi ngựa về phương nam với Hother Umber để tập hợp lực lượng tấn
công Moat Cailin. “Đi cùng còn có kẻ gϊếŧ điếm,” một ngư dân vừa mua một đống da và gỗ dưới hạ lưu dòng Bạch Đao nói, “cùng với ba trăm lính giáo và một trăm cung thủ. Một số người Nhà Hornwood cũng gia nhập với họ, và cả Cerwyn nữa.” Đó là tin tồi tệ nhất.
“Tốt nhất Lãnh chúa Wyman nên cho người ra chiến trường nếu ông ta biết cách nào tốt cho mình,” một thủy thủ già ngồi cuối bàn nói. “Lãnh chúa Roose, giờ hắn là Người Bảo Hộ rồi. Danh dự bắt buộc Cảng White phải nghe theo lời triệu tập của hắn.”
“Người Nhà Bolton làm gì có ai biết đến danh dự?” Chủ quán Lươn nói khi ông ta rót thêm rượu nâu vào cốc cho khách.
“Lãnh chúa Wyman sẽ không đi đâu cả. Ông ta béo thế cơ mà.”
“Nghe nói ông ta đang bị ốm. Tất cả những gì ông ta làm là ngủ và khóc, họ nói vậy. Ông ta ốm đến nỗi hầu như chẳng có ngày nào ra khỏi giường được.”
“Ý anh là béo quá đúng không.”
“Béo hay gầy chẳng liên quan gì ở đây cả,” chủ quán rượu nói. “Bọn sư tử đang giữ con trai ông ấy.”
Chẳng ai nói gì về vua Stannis. Thậm chí chẳng ai biết nhà vua đã đi về phương bắc để giúp bảo vệ Tường Thành. Dân du mục, xác sống và người khổng lồ là những chủ đề quen thuộc ở Trạm Đông, nhưng ở đây dường như chẳng ai nghĩ đến chúng, dù chỉ là một chút.
Davos cúi người về phía bếp lửa. “Tôi tưởng Nhà Frey đã gϊếŧ con trai ông ta. Đó là những gì chúng tôi nghe được ở Sisterton.”
“Chúng gϊếŧ Ser Wendel,” chủ quán nói. “Giờ hài cốt cậu ta đang yên nghỉ ở Điện Tuyết với nến thắp xung quanh, nếu mọi người muốn đến xem. Tuy nhiên Ser Wylis vẫn đang bị giữ làm tù binh.”
Tin tức càng lúc càng tồi tệ. Ông biết Lãnh chúa Wyman có hai con trai, nhưng ông cứ tưởng cả hai đều đã chết. Nếu Ngai Sắt có con tin… Davos có bảy người con trai và mất bốn trong trận Xoáy Nước Đen. Ông biết ông sẽ làm tất cả những gì thần thánh hay con người yêu cầu để bảo vệ ba đứa con còn lại. Steffon và Stannis cách chiến trường hàng mấy ngàn dặm và không gặp nguy hiểm gì, nhưng Devan đang ở Hắc Thành, là cận vệ của nhà vua. Vị vua mà đại nghiệp của ông ta có thể thất bại hay thành công, đều phụ thuộc vào Cảng White cả.
Giờ đám khách uống rượu đang nói về những con rồng. “Anh bị điên à,” một tay chèo trên thuyền Vũ Công Bão Tố nói. “Vua Ăn Mày đã chết nhiều năm rồi. Một lãnh
chúa người Dothraki nào đó đã chặt đầu cậu ta.”
“Bọn ta cũng nghe thế,” người thủy thủ già nói. “Nhưng có thể họ nói dối. Nếu có chết thật thì cậu ta chết ở nửa bên kia trái đất. Ai mà biết được? Nếu một vị vua muốn tôi phải chết, có thể tôi sẽ tuân lệnh và giả vờ làm một xác chết. Đã có ai trong chúng ta nhìn thấy xác cậu ta đâu.”
“Tôi chưa thấy xác Joffrey, và cũng chẳng thấy xác Robert,” chủ quán Lươn làu bàu. “Có thể bọn họ cũng vẫn còn sống. Có thể Baelor Thần Thánh cũng chỉ chợp mắt chút xíu trong suốt những năm qua thôi.”
Người thủy thủ già cau mày. “Hoàng tử Viserys không phải là con rồng duy nhất, đúng không? Chúng ta có dám chắc họ đã gϊếŧ con của hoàng tử Rhaegar không? Đó chỉ là một đứa bé, vậy thôi.”
“Còn có một công chúa nào đó nữa thì phải?” Một ả điếm hỏi. Chính là ả vừa nói thịt có màu xám.
“Hai,” thủy thủ già nói. “Một người là con gái Rhaegar, người còn lại là em gái.”
“Daena,” một ngư dân nói. “Đó là em gái ông ta. Daena của Dragonstone. Hay là Daera ấy nhỉ?”
“Daena là vợ vua Baelor già,” tay chèo nói. “Tôi từng chèo một con thuyền mang tên cô ta. Thuyền Công Chúa Daena.”
“Nếu là vợ vua thì cô ta phải là hoàng hậu chứ.” “Baelor chưa bao giờ lập hoàng hậu. Ông ta theo đạo.”
“Không có nghĩa là ông ta chưa bao giờ cưới em gái mình,” ả điếm nói. “Chỉ là ông ta chưa bao giờ ăn nằm với bà ta, vậy thôi. Khi họ phong ông ta làm vua, ông ta đã khóa em gái của mình vào trong một tòa tháp. Cả hai chị gái nữa. Cả ba người bọn họ.”
“Daenela,” chủ quá rượu nói to. “Đó là tên cô ta. Ý tôi là con gái Vua Điên, không phải bà vợ chết tiệt của Baelor.”
“Daenerys,” Davos nói. “Cô ấy được đặt tên theo Daenerys người đã cưới hoàng tử xứ Dorne trong thời kỳ Daeron Đệ Nhị trị vì. Tôi cũng không biết cô ta giờ ra sao.”
“Tôi biết,” người đàn ông khơi mào cuộc nói chuyện về lũ rồng lên tiếng. Đó là tay chèo người Braavos trong chiếc áo len tối màu. “Khi xuôi dòng xuống Pentos chúng tôi thả neo bên cạnh một thuyền buôn mang tên Thiếu Nữ Mắt Đen, và tôi đã uống ruợu với người hầu cận của thuyền trưởng. Cậu ta kể cho tôi nghe một câu chuyện cực hay về một cô gái giương buồm đến Qarth và cố tìm thuyền quay về Westeros cùng
với ba con rồng của cô ả. Tóc cô ta màu bạch kim và mắt màu tím đậm. ‘Tôi đưa cô ấy đến gặp thuyền trưởng của mình,’ cậu ta thề với tôi, ‘nhưng ông ta không chịu. Ông ta nói chở đinh hương và nghệ tây lãi hơn nhiều, hơn nữa đống hương liệu không đốt cháy thuyền của ông ta được.’”
Trong quán rộ lên tiếng cười. Riêng Davos lại lặng im. Ông biết chuyện gì đã xảy ra với thuyền Thiếu Nữ Mắt Đen. Các vị thần thật độc ác khi để một người đàn ông đi nửa vòng trái đất, rồi lại cho anh ta đuổi theo thứ ánh sáng giả dối khi đã gần về đến nhà. Vị thuyền trưởng đó can đảm hơn ta, ông nghĩ trên đường ra cửa. Chỉ cần một chuyến hải trình về phương đông, và người ta có thể sống giàu có như một lãnh chúa đến hết cuộc đời. Thời còn trẻ, Davos đã mơ được tự mình thực hiện một chuyến hải trình như thế, nhưng năm tháng cứ nhảy nhót trôi qua như những con bướm đêm quanh ngọn lửa, và chẳng hiểu sao thời gian lúc nào cũng không phù hợp cho việc đó. Nhưng ngày đó sẽ đến, ông tự nhủ, một ngày khi chiến tranh kết thúc, vua Stannis ngồi lên Ngai Sắt và không cần Hiệp Sĩ Củ Hành này nữa. Ta sẽ mang Devan đi cùng. Steff và Stanny nữa nếu chúng đủ cứng cáp. Chúng ta sẽ thấy những con rồng và tất cả những kỳ quan trên thế giới.
Bên ngoài, gió thổi bạt cả lửa trong những chiếc đèn dầu thắp sáng khoảng sân. Không gian lạnh lẽo hơn khi mặt trời lặn, nhưng Davos nhớ về Trạm Đông và mỗi đêm gió gào thét như thế nào bên ngoài bức Tường Thành, gió cắt ngọt qua cả những chiếc áo choàng ấm áp nhất, khiến những mạch máu trong cơ thể con người như đông lại. So với Tường Thành thì Cảng White vẫn là một bồn nước ấm.
Vẫn còn nhiều nơi khác cho ông nghe ngóng tình hình: một nhà trọ nổi tiếng với bánh cá mυ"ŧ đá, quán bia nơi những người buôn len và lính kiểm soát thông thương uống rượu, một rạp hát nơi người ta trả vài xu để xem những vở diễn thô tục. Nhưng Davos cảm thấy mình đã nghe đủ. Ta đến quá muộn. Bản năng cũ khiến ông lần tay lên ngực, nơi cất giữ xương ngón tay trong một chiếc túi nhỏ treo trên sợi dây da. Giờ chẳng có gì ở đó. Ông đã để mất bùa may của mình trong trận Xoáy Nước Đen, nơi ông để mất cả con thuyền và bốn cậu con trai.
Giờ ta phải làm sao? Ông kéo chiếc áo choàng vào chặt hơn. Ta có nên trèo lên đồi và xuất hiện trước cổng New Castle, để khẩn cầu một cách vô ích không? Quay về Sisterton ư? Quay về với Marya và các con trai? Hay mua một con ngựa và lên vương lộ, tới nói với Stannis rằng ngài không có một người bạn nào ở Cảng White, và cũng không có tia hy vọng nào hết?
Hoàng hậu Selyse đã chiêu đãi Salla và các thủy thủ của ông ta, trong đêm hạm đội chuẩn bị ra khơi. Cotter Pyke cũng gia nhập với họ, và cả bốn chỉ huy cấp cao của Đội Tuần Đêm. Công chúa Shireen cũng được phép tham gia. Khi cá hồi được bê ra,
Ser Axell Florent đã góp vui cho bàn tiệc với câu chuyện về một hoàng tử Targaryen, người nuôi khỉ làm thú cưng. Vị hoàng tử này thích mặc cho con vật quần áo của đứa con trai đã chết, tưởng tượng nó là con ông ta và năm lần bảy lượt muốn dàn xếp đám cưới cho con khỉ, Ser Axell kể. Các lãnh chúa cao quý luôn từ chối một cách lịch sự, nhưng tất nhiên họ đều từ chối. “Dù có mặc nhung lụa thì con khỉ vẫn là con khỉ,” Ser Axell nói. “Một hoàng tử với trí lực bình thường phải biết rằng anh ta không thể cho một con khỉ làm việc của người được.” Người của hoàng hậu cười phá lên, một số kẻ nhe răng cười với Davos. Ta đâu phải khỉ, ông nghĩ. Ta cũng là lãnh chúa như các ngươi, và còn tốt hơn các ngươi gấp vạn. Nhưng ký ức vẫn làm ông nhức nhối.
Cổng Hải Cẩu đóng vào ban đêm. Davos sẽ phải chờ đến bình minh mới có thể quay về thuyền Bà Đỡ Vui Vẻ. Ông phải ở đây cả đêm. Ông ngước nhìn bức tượng Old Fishfoot với chiếc đinh ba gãy. Ta đã phải băng qua mưa gió, thuyền đắm và bão tố để đến đây. Ta sẽ không trở về mà không đạt được mục đích, dù tình thế có tuyệt vọng đến mức nào. Ngươi có thể mất ngón tay và mất cả vận may, nhưng ngươi không phải là con khỉ mặc đồ nhung lụa. Ngươi là Quân sư của nhà vua.
Thang Lâu Đài là một con đường rộng với những bậc thang bằng đá trắng dẫn từ Hang Sói lên lâu đài New Castle ở trên đồi. Một dãy tiên cá bằng cẩm thạch chiếu sáng đường khi Davos trèo lên, những bát dầu cá voi cháy đung đưa trên tay các bức tượng. Khi lên đến đỉnh, ông quay lại nhìn phía sau. Từ đây, ông có thể nhìn xuống cả hai bến cảng. Đằng sau con đê chắn sóng, cảng trong đông đúc với một loạt thuyền ga-lê chiến. Davos đếm được hai mươi ba chiếc. Lãnh chúa Wyman tuy béo ị nhưng có vẻ ông ta không ngồi bất động.
Các cánh cổng vào lâu đài New Castle đều đã đóng, nhưng một cánh cửa hậu mở ra khi ông gọi, và một lính gác xuất hiện hỏi ông có việc gì. Davos đưa cho anh ta dải ruy băng màu đen và vàng mang con dấu hoàng gia. “Ta cần gặp Lãnh chúa Manderly ngay lập tức,” ông nói. “Ta có việc cần nói với ông ấy, và một mình ông ấy thôi.”