Đêm đen nồng nặc mùi của loài người.
Kẻ đội lốt dừng lại dưới một cái cây và khụt khịt ngửi, bộ lông nâu xám của nó lốm đốm trong bóng tối. Một làn gió thổi qua những cành thông đem theo mùi người, rõ ràng hơn tất thảy mùi của đám cáo, thỏ rừng, hải cẩu, hươu, thậm chí là của sói. Kẻ đội lốt biết đó cũng là mùi của con người nốt; mùi tanh của lớp da, chết chóc và ôi thiu dường như bị át hẳn bởi những thứ mùi mạnh hơn: mùi của khói, máu và sự thối rữa. Chỉ có con người mới lột da và lông của các loài vật khác về mặc.
Giống như loài sói, kẻ đội lốt không sợ con người. Lòng căm thù cùng với cơn đói cuộn lên trong bụng, nó gầm gừ gọi người anh em một mắt cùng cô em tinh quái của mình. Khi nó chạy như bay qua những gốc cây, các thành viên trong đàn theo sát gót nó. Vậy là họ cũng ngửi thấy mùi hương ấy. Khi chạy, nó nhìn được qua mắt của những con sói khác và thoáng thấy mình đang dẫn đầu. Từ những cái mõm xám dài, hơi thở ấm nóng và trắng xóa của họ bay ra. Băng tuyết đông lại giữa những móng chân họ cứng như đá, nhưng giờ là thời khắc đi săn, và con mồi của họ đang ở trước mặt. Thịt, thịt đây rồi, kẻ đội lốt nghĩ.
Con người khi đơn độc một mình chỉ là thứ yếu đuối. Chúng to lớn và khỏe mạnh với đôi mắt tinh nhanh, nhưng tai chúng điếc và mũi chẳng ngửi thấy gì. Hươu, nai sừng tấm, thậm chí cả thỏ rừng còn nhanh hơn chúng, gấu và lợn lòi chiến đấu dữ tợn hơn chúng. Nhưng con người khi đi thành đàn lại rất nguy hiểm. Khi đàn sói tiến gần đến con mồi, kẻ đội lốt nghe thấy tiếng rêи ɾỉ của một con thú nhỏ, lớp tuyết mới rơi đêm qua vỡ ra dưới móng vuốt vụng về của con người, dưới những chiếc vảy cứng rung lên lách cách và những chiếc vuốt dài màu xám mà bọn chúng mang theo.
Kiếm, một giọng nói bên trong nó thì thầm, và giáo.
Cây cối mọc ra những chiếc răng băng giá và nhe nanh gầm gừ trên những cành nâu. Một Mắt chạy xuyên qua những bụi cây thấp làm tuyết bắn lên tung tóe. Cả đàn theo sau nó. Lên một đỉnh đồi và xuống triền dốc phía bên kia, cho đến khi cánh rừng mở ra trước mắt chúng và con người ở đó. Một người là phụ nữ. Cái bọc cuốn lông xung quanh mà người phụ nữ đang ôm chặt là con của cô ta. Để cô ta lại cuối cùng, giọng nói thì thầm, bọn đàn ông nguy hiểm hơn. Chúng đang gầm gừ với nhau giống như cách con người vẫn làm, nhưng kẻ đội lốt có thể ngửi thấy mùi sợ hãi của chúng. Một tên có chiếc răng gỗ cao bằng người. Hắn ném cái răng, nhưng tay hắn run run nên chiếc răng bay quá cao.
Sau đó cả đàn bao vây bọn chúng.
Người anh em một mắt của nó đẩy tên ném răng ngã vào một đống tuyết và xé toạc họng hắn khi cố vùng vẫy. Em gái nó lẻn ra sau người đàn ông còn lại và tấn công từ phía sau. Như vậy nghĩa là, người phụ nữ và con cô ta là phần của nó.
Cô ta cũng có một cái răng nhỏ bằng xương, nhưng đã đánh rơi mất khi bị hàm răng kẻ đội lốt cắn phập vào chân. Khi ngã xuống, cô ta vòng cả hai tay ôm lấy đứa con đang khóc ngằn ngặt. Người phụ nữ chỉ còn da bọc xương bên dưới lớp lông, nhưng hai bầu vυ" cô ta đầy sữa. Phần ngon nhất là thịt của con non. Con sói để dành những phần ngon nhất cho anh trai mình. Xung quanh những cái xác, tuyết chuyển hồng rồi đỏ sậm khi đàn sói đánh chén con mồi.
Cách đó vài dặm trong một túp lều đơn đắp từ bùn và rơm, mái tranh với một lỗ thông khói và nền nhà bằng đất nện, Varamyr đang run rẩy, ho khù khụ và liếʍ môi. Đôi mắt hắn đỏ ngầu, đôi môi nứt nẻ, cổ họng khô rang và nóng như lửa đốt, nhưng vị máu và mỡ vẫn đầy trong miệng hắn, cái bụng trương phềnh đang gào thét đòi thức ăn. Thịt của một đứa trẻ, hắn nghĩ và nhớ tới Bump. Thịt người. Chẳng lẽ hắn đã đói khát đến mức phải ăn thịt người sao? Dường như hắn nghe thấy cả tiếng làu bàu của Haggon. “Con người có thể ăn thịt động vật và động vật ăn thịt người, nhưng con người ăn thịt đồng loại thì thật kinh tởm.”
Kinh tởm. Đó luôn là từ được Haggon yêu thích. Kinh tởm, kinh tởm, kinh tởm. Ăn thịt người là kinh tởm, giao phối với loài sói cũng kinh tởm, và chiếm thể xác của người khác là điều kinh tởm nhất. Haggon yếu đuối và sợ hãi trước chính sức mạnh của mình. Ông ta chết trong đơn độc và nước mắt khi ta không cho ông ta cơ hội sống kiếp thứ hai1. Chính Varamyr đã ăn tim ông. Haggon dạy ta rất nhiều thứ, và thứ cuối cùng ta học được từ ông là mùi vị của thịt người.
Tuy nhiên, khi đó hắn đang đội lốt sói. Hắn chưa bao giờ ăn thịt người bằng chính hàm răng của mình. Nhưng hắn sẽ không ghen tỵ với bữa tiệc của đàn sói. Lũ sói cũng bị bỏ đói như hắn, gầy còm, lạnh lẽo và đói khát. Con mồi của chúng là hai người đàn ông và một người đàn bà với đứa bé trên tay… những kẻ thua cuộc, bỏ chạy và lao vào chỗ chết. Đằng nào họ chẳng chết vì lạnh và đói. Cách này sẽ tốt hơn, và nhanh hơn nữa. Đó là một ân huệ.
“Một ân huệ,” hắn nói to. Họng hắn khô khốc, nhưng cảm giác thật tuyệt khi được nghe giọng nói của con người, dù là giọng của chính mình. Không khí đượm mùi nấm mốc và ẩm ướt, mặt đất cứng và lạnh, còn đống lửa đang tỏa ra nhiều khói hơn là hơi ấm. Hắn tiến lại gần đống lửa hết mức có thể, vừa ho vừa run rẩy, vết thương hở bên sườn hắn đau nhói. Máu làm ướt đẫm chiếc quần ống túm, chảy xuống tận đầu gối và khô lại thành lớp vảy cứng màu nâu.
Thistle đã cảnh báo hắn rằng việc này có thể xảy ra. “Tôi cố hết sức để khâu nó lại rồi,” cô nói, “nhưng anh cần phải nghỉ ngơi để lành vết thương, nếu không vết thương sẽ lại nứt toác ra đấy.”
Thistle là người đồng hành cuối cùng của hắn, một nữ chiến binh gan dạ và gai góc, mặt đầy mụn cơm, da dẻ sạm gió và nhăn nhúm. Những người khác đã rời bỏ họ trên đường đi. Từng người một tụt lại phía sau hoặc vượt lên phía trước; họ hướng về những ngôi làng cũ, hoặc về phía dòng Milkwater, hay Hardhome, hoặc chọn một cái chết cô đơn trong rừng. Varamyr không biết và cũng không quan tâm. Lẽ ra ta nên nhập vào một trong số chúng khi có cơ hội. Một trong hai đứa sinh đôi, hoặc gã đàn ông to lớn với vết sẹo trên mặt, hoặc là thằng nhóc tóc đỏ. Tuy nhiên hắn lại sợ hãi. Một trong những tên còn lại có thể sẽ nhận thấy chuyện gì đang xảy ra. Rất có thể họ sẽ tấn công và gϊếŧ chết hắn. Những lời của Haggon vẫn ám ảnh hắn, và dù sao cơ hội cũng đã qua rồi.
Sau cuộc chiến, hàng ngàn kẻ như họ vẫn lê lết đi qua khu rừng trong cảnh đói khát và hoảng sợ. Họ chạy trốn khỏi cảnh chém gϊếŧ ở Tường Thành. Một số người nói họ sẽ trở về nhà nơi trước đây họ đã bỏ đi, những người khác muốn tấn công chiếc cổng lần thứ hai, nhưng hầu hết bọn họ đều mất phương hướng, họ không biết phải đi đâu và làm gì. Họ trốn thoát khỏi bầy quạ áo đen và các hiệp sĩ trong bộ giáp bằng thép xám, nhưng giờ họ phải đối mặt với những kẻ thù tàn nhẫn hơn. Mỗi ngày trôi qua lại có thêm xác rải trên đường. Có người chết vì đói, người chết vì lạnh, một số người chết vì bệnh tật. Có kẻ bị gϊếŧ bởi những người từng là anh em khi họ cùng hành quân về phía nam với Mance Rayder, Vị-Vua-Bên-Ngoài-Tường-Thành.
Mance thất bại rồi, những người còn sống buồn bã nói với nhau, Mance đã bị bắt, Mance đã chết. “Harma chết, còn Mance thì bị cầm tù, số còn lại đã bỏ chạy và để mặc chúng ta,” Thistle nói khi đang khâu vết thương cho hắn. “Tormund, Khóc Lóc, Sáu Lốt, cùng tất cả những chiến binh dũng cảm. Giờ bọn họ ở đâu?”
Cô ta không biết mình, lúc này Varamyr mới nhận ra điều đó, mà làm sao cô ta biết được cơ chứ? Không có những con thú bên cạnh, trông hắn chẳng có vẻ gì là một nguời đàn ông vĩ đại. Ta là Varamyr Sáu Lốt, người từng ăn sáng cùng với Mance Rayder. Chính Mance đã tự mình đặt tên cho Varamyr khi hắn mới 10 tuổi. Một cái tên phù hợp dành cho lãnh chúa, một cái tên cho các bài ca, một cái tên cao ngạo và đáng sợ. Vậy mà hắn vẫn chạy trốn bầy quạ như một con thỏ sợ hãi. Lãnh chúa Varamyr đáng sợ đã biến thành một kẻ hèn nhát, nhưng hắn không đời nào để cho cô gái biết điều đó, vì thế hắn nói với nữ chiến binh rằng tên hắn là Haggon. Sau cùng, hắn tự hỏi tại sao cái tên đó lại tự dưng buột ra trên môi, trong khi hắn có thể chọn nhiều cái tên khác. Ta ăn tim, uống máu ông ấy, và đến giờ ông ấy vẫn còn ám ảnh ta.
Một ngày khi họ đang bỏ chạy, một kỵ sĩ cưỡi ngựa phi nước đại băng qua khu rừng và đuổi theo họ trên lưng con ngựa trắng gầy còm. Hắn hét lên với họ rằng tất cả bọn họ phải đi về phía dòng Milkwater, và rằng Khóc Lóc đang chiêu mộ chiến binh để băng qua cầu Skulls và đánh chiếm Tháp Đêm. Rất nhiều người đi theo hắn ta; nhưng số người không theo còn nhiều hơn. Sau đó, một chiến binh nghiêm nghị trong bộ đồ lông và hổ phách cũng tới khắp các bếp lửa để thúc giục những người còn sống tiến về phía bắc và ẩn náu trong thung lũng của người Thenn. Varamyr không hiểu tại sao hắn lại nghĩ họ sẽ được an toàn ở đó, trong khi chính người Thenn còn phải bỏ đi. Thế nhưng hàng trăm người vẫn đi theo hắn. Số còn lại đông hơn đi theo phù thủy rừng rậm, kẻ nhìn trước được tương lai. Bà ta tiên đoán rằng sẽ có một đoàn thuyền tới chở dân du mục về phương nam. “Chúng ta phải tìm thấy biển,” Mẹ Mole nói, và tất cả những người đi theo bà hướng về phía đông.
Nếu Varamyr khỏe hơn thì hắn đã là một trong số họ. Tuy nhiên, mặt biển xám xịt, lạnh lẽo và xa xôi, hắn biết chắc mình sẽ không thể sống đủ lâu để nhìn thấy biển. Hắn đã chết và hấp hối chín lần, và lần này chắc chắn hắn sẽ chết thật. Một chiếc áo choàng da sóc, hắn còn nhớ, thằng nhóc đâm ta chỉ vì một chiếc áo choàng da sóc.
Chủ nhân của chiếc áo đã chết, gáy cô ta bị đập nát thành một đống thịt đỏ lổn nhổn những mẩu xương, nhưng chiếc áo choàng trông rất dày và ấm áp. Tuyết đang rơi, và Varamyr đã để mất chiếc áo choàng ở Tường Thành. Bộ đồ ngủ da và đồ lót len, đôi giày ống da cừu và găng tay lông vũ, đống rượu mật ong và thức ăn tích trữ, những lọn tóc của tất cả đàn bà đã ăn nằm cùng hắn, thậm chí cả chiếc vòng đeo cánh tay bằng vàng mà Mance cho hắn, tất cả đều đã bị mất hoặc bỏ lại phía sau. Ta bị bỏng, ta chết, rồi ta bỏ chạy, nửa điên nửa dại với nỗi đau và sự kinh hoàng. Ký ức vẫn còn làm hắn xấu hổ, nhưng đâu phải chỉ một mình hắn. Những người khác cũng chạy, hàng trăm, thậm chí hàng ngàn người. Họ đã thua cuộc. Với khả năng sử dụng kiếm điêu luyện, các hiệp sĩ đến và gϊếŧ bất cứ ai ở lại để chiến đấu. Vấn đề chỉ còn là chạy hoặc chết.
Tuy nhiên, vượt qua cái chết là điều không hề dễ. Khi Varamyr nhìn thấy xác người phụ nữ bị gϊếŧ trong rừng, hắn quỳ xuống để lột chiếc áo choàng của cô ta mà không hề nhìn thấy thằng nhóc, cho đến khi nó lao ra khỏi nơi ẩn nấp, đâm con dao dài bằng xương vào sườn Varamyr và giật cái áo choàng khỏi tay hắn. “Đây là mẹ nó,” Thistle nói sau khi thằng nhóc đã chạy đi. “Còn đấy là áo choàng của mẹ nó, vì thế khi thằng nhóc nhìn thấy anh ăn cắp cái áo…”
“Cô ta chết rồi,” Varamyr nói và nhăn nhó khi Thistle dùng kim xương khâu vết thương cho hắn. “Ai đó đã đập nát đầu cô ta. Chắc là lũ quạ.”
“Không phải quạ đâu. Là người Hornfoot. Chính mắt tôi nhìn thấy.” Chiếc kim khâu kín vết thương bên sườn hắn lại. “Thật man rợ, ai sẽ huấn luyện bọn chúng đây?”
Chẳng ai cả. Nếu Mance chết thì đám dân du mục cũng xong đời. Người Thenn, người khổng lồ, Hornfoot, đám dân mài răng sống trong động và người bờ tây với những cỗ xe ngựa bằng xương… sẽ là ngày tận thế cho tất cả. Ngay cả đám quạ cũng vậy. Có thể lúc này chúng chưa nhận ra, nhưng lũ chó chết áo đen đó sẽ tiêu tùng cùng tất cả những kẻ còn lại. Kẻ thù đang đến rồi.
Những lời gay gắt của Haggon lại vang lên trong đầu hắn. “Cậu sẽ chết hàng chục lần, nhóc ạ, và mỗi lần đều đau đớn… nhưng khi cái chết thực sự đến, cậu sẽ được chuyển kiếp. Họ nói kiếp thứ hai đơn giản và ngọt ngào hơn.”
Varamyr Sáu Lốt sẽ sớm kiểm chứng được điều đó. Hắn nếm được vị của cái chết thực sự treo lơ lửng trong không gian, cảm nhận được sức nóng bên dưới những ngón tay khi hắn luồn dưới quần áo để sờ vết thương. Hắn còn cảm thấy ớn lạnh, cảm giác ở tận sâu trong xương tủy. Lần này chính cơn ớn lạnh đó sẽ gϊếŧ hắn.
Lần cuối cùng hắn chết là do lửa. Ta bị chết cháy. Ban đầu, hắn nghĩ một cung thủ nào đó trên Tường Thành đã bắn hắn bằng một mũi tên lửa… nhưng hóa ra lửa bùng lên bên trong hắn, nuốt trọn hắn. Và nỗi đau thì…
Varamyr đã chết tổng cộng chín lần. Một lần hắn chết vì bị giáo đâm, một lần bị gấu cắn toạc họng, và một lần trong vũng máu khi đẻ một đứa con chết lưu. Hắn chết lần đầu khi mới lên 6 tuổi, khi bị chiếc rìu của cha hắn bổ dọc đầu. Nhưng ngay cả lần đó hắn cũng không thấy đau đớn bằng lúc ngọn lửa thiêu đốt từ bên trong, nổ lách tách trên cánh và hủy diệt hắn. Khi hắn cố vùng vẫy để bay ra, nỗi khϊếp sợ khiến hắn càng quạt cho lửa cháy to hơn, nóng hơn. Vừa trước đó thôi, hắn còn sải cánh trên Tường Thành, đôi mắt đại bàng quan sát mọi cử động của con người phía dưới. Vậy mà sau đó ngọn lửa biến tim hắn thành than đen và đẩy linh hồn hắn gào thét trở về thân xác thật, và trong giây phút đó hắn gần như phát điên. Chỉ nghĩ lại thôi cũng đủ khiến hắn rùng mình.
Đó cũng là lúc hắn nhận ra ngọn lửa đã tắt.
Chỉ còn lại một đống củi cháy đen và vài viên than sắp tàn đang sáng yếu ớt trong đống tro. Khói vẫn bay lên, chỉ cần cho thêm củi. Nghiến răng chịu đau đớn, Varamyr bò tới bên đống cành khô mà Thistle nhặt về trước khi ra ngoài đi săn, rồi ném vài que vào đống tro. “Bắt lửa đi,” giọng hắn khàn khàn. “Cháy lên.” Hắn thổi vào đám than và lẩm bẩm vài lời cầu nguyện không thành tiếng, tới các vị thần gỗ, thần đồi và thần ruộng đất không tên nào đó.
Các vị thần không trả lời. Sau một hồi, khói cũng không bốc lên nữa. Chiếc lều nhỏ trở nên lạnh lẽo hơn. Varamyr không có đá lửa, không có bùi nhùi, cũng không có mồi nhen. Hắn sẽ không thể nhóm cho lửa cháy trở lại, hắn không tự mình làm được. “Thistle,” hắn gọi, giọng khàn đặc và đầy đau đớn. “Thistle!”
Cô ta có cái cằm nhọn, mũi tẹt, một nốt ruồi to ở bên má và bốn sợi lông mọc ra từ đó. Khuôn mặt mới xấu xí và thô kệch làm sao, nhưng hắn lại thèm được nhìn thấy khuôn mặt đó ở cửa lều hơn bao giờ hết. Lẽ ra ta nên nhập vào cô ả trước khi cô ta bỏ đi. Cô ta đi được bao lâu rồi nhỉ? Hai ngày? Hay ba ngày? Varamyr không chắc chắn. Trong lều tối tăm và hắn cứ thức rồi lại ngủ, cũng chẳng biết bên ngoài là ngày hay đêm. “Chờ ở đây,” cô ta nói trước khi đi. “Tôi sẽ đem thức ăn quay lại.” Và hắn đã chờ như một thằng ngốc, nằm đó mơ về Haggon, Bump và tất cả những tội lỗi hắn đã làm trong cuộc đời dài đằng đẵng của mình, nhưng ngày nối ngày, đêm nối đêm, và Thistle vẫn chưa trở lại. Cô ta sẽ không quay về đâu. Varamyr tự hỏi liệu có phải hắn đã để lộ bí mật của mình không. Cô ta biết được hắn nghĩ gì khi nhìn hắn, hay hắn đã tự nói ra điều đó khi mê sảng trong cơn sốt?
Ghê tởm, hắn nghe thấy giọng nói của Haggon. Cứ như thể ông ta đang ở đây, trong chính căn phòng này. “Cô ta chỉ là một nữ chiến binh xấu xí,” Varamyr tự nhủ. “Ta là một người đàn ông vĩ đại. Ta là Varamyr, là người biến hình, là kẻ đội lốt, thật không công bằng khi cô ta được sống mà ta lại phải chết.” Không có ai trả lời. Ở đó chẳng có ai cả. Thistle đã đi rồi. Cô ta đã bỏ hắn mà đi, giống như tất cả những người khác.
Mẹ ruột của hắn cũng từng bỏ hắn như vậy. Bà ấy khóc cho Bump, nhưng chưa bao giờ khóc cho ta. Buổi sáng hôm cha hắn lôi hắn ra khỏi giường và đưa đến chỗ Haggon, bà thậm chí còn không thèm nhìn hắn. Hắn la hét, đấm đá khi bị lôi vào rừng, và chỉ dừng lại khi bị cha hắn tát và bắt phải im miệng. “Mày thuộc về đồng loại của mày,” đó là tất cả những gì ông nói khi quẳng hắn xuống chân Haggon.
Ông ấy nói không sai, Varamyr run rẩy nghĩ. Haggon dạy ta quá nhiều điều. Ông ấy dạy ta cách đi săn và bắt cá, cách xẻ thịt một cái xác như thế nào và lóc xương cá ra sao, làm sao để tìm được đường vào rừng. Ông ấy còn chỉ cho ta những lề thói của người biến hình và những bí mật của kẻ đội lốt, dù khả năng của ta mạnh hơn của ông ấy.
Nhiều năm sau, hắn cố đi tìm lại cha mẹ mình, để báo rằng Lump của họ đã trở thành Varamyr Sáu Lốt vĩ đại, nhưng bọn họ đều đã chết từ lâu. Về với cây cối và sông suối, về với đá và đất. Về với cát và tro bụi. Đó cũng là những gì phù thủy rừng rậm nói với mẹ hắn trong ngày Bump chết. Lump không muốn làm một kẻ quê mùa cục mịch. Cậu nhóc đã mơ về một ngày khi các ca sĩ hát về chiến công của hắn và các cô gái xinh đẹp sẽ trao cho hắn những nụ hôn. Khi lớn lên ta sẽ trở thành Vị-Vua-Bên-Ngoài-Tường-Thành, Lump tự hứa. Dù chưa bao giờ chạm tới cái đích đó, nhưng hắn đã ở rất gần. Varamyr Sáu Lốt là cái tên khiến mọi người khϊếp sợ. Hắn ra chiến trường trên lưng một con gấu tuyết cao 4 mét, cùng với ba con sói và một con mèo ma, hắn được ngồi bên phải Mance Rayder. Chính Mance đã đem ta đến nơi này. Lẽ ra ta không nên nghe theo hắn. Lẽ ra ta nên đội lốt gấu và xé hắn ra làm trăm mảnh.
Trước khi về với Mance, Varamyr Sáu Lốt từng là một lãnh chúa, theo một cách nào đó. Hắn sống một mình cùng đám động vật trong một căn sảnh đầy rêu mốc, bùn và khúc cây, những thứ từng thuộc về Haggon. Một số dân làng tỏ lòng kính trọng với hắn bằng bánh mỳ, muối và rượu táo, đem cho hắn hoa quả và rau trong vườn cây của họ. Còn thịt hắn tự kiếm. Mỗi khi thèm phụ nữ, hắn lại sai mèo ma đi bắt họ về, và dù cô gái được hắn để mắt là ai thì cô ta cũng ngoan ngoãn lên giường với hắn. Một số người khóc lóc, nhưng họ vẫn đến. Varamyr cho họ hạt giống của mình, cắt một nhúm tóc của họ để ghi nhớ từng người, sau đó trả họ về. Rất nhiều anh hùng trong làng đã mang giáo đến đòi gϊếŧ con thú và cứu chị em gái, người yêu hoặc con gái họ. Hắn gϊếŧ những kẻ đó, nhưng chưa bao giờ làm hại phụ nữ. Vài người còn vinh dự được hắn cho một đứa con. Còi cọc. Nhỏ bé, yếu đuối chẳng khác gì Lump, và chẳng đứa bé nào có món quà giống cha chúng cả.
Nỗi sợ hãi khiến hắn cố đứng dậy. Tay giữ ngang sườn để máu không chảy ra từ vết thương, Varamyr lảo đảo bước về phía cửa, gạt tấm da rách tả tơi che cửa lều sang bên và nhìn ra ngoài, nơi chỉ có một bức tường trắng xóa. Tuyết. Thảo nào bên trong tối tăm và nhiều khói như vậy. Tuyết rơi dày đến nỗi chôn vùi cả chiếc lều.
Khi Varamyr đẩy nhẹ, tuyết vỡ vụn và sụp xuống, chúng vẫn mềm và ướt. Ngoài trời, màn đêm trắng bàng bạc như màu của chết chóc, những đám mây mỏng màu xám nhợt nhạt như nhảy múa quanh vầng trăng bạc, hàng ngàn ngôi sao lạnh lùng nhìn xuống. Hắn thấy những cái bóng gù gù của đám lều khác bị chìm trong tuyết, và xa hơn nữa là cái bóng xám của một cây đước bọc trong lớp băng. Phía tây và phía nam khu đồi là một vùng hoang vu trắng xóa, nơi chẳng có gì chuyển động ngoại trừ từng đợt gió tuyết. “Thistle,” Varamyr yếu ớt gọi, và tự hỏi không biết cô ta đã đi xa đến chừng nào. “Thistle. Cô đi đâu rồi?”
Xa xa có tiếng tru của một con sói.
Varamyr rùng mình. Hắn biết rõ tiếng tru đó giống như trước kia Lump đã quá quen với giọng nói của mẹ mình. Một Mắt. Đó là con sói già nhất trong đàn, to nhất, và cũng hung dữ nhất. Lén Lút gầy hơn, nhanh nhẹn và trẻ hơn, còn Láu Cá thì ranh mãnh, nhưng cả hai đều sợ Một Mắt. Con sói già rất hung dữ, khát máu và không biết sợ là gì.
Varamyr đã mất khả năng điều khiển những con thú khác sau cơn đau đớn khi con đại bàng chết. Con mèo ma của hắn đã chạy vào rừng, trong khi con gấu tuyết quay ra tấn công những người xung quanh. Nó xé xác bốn người trước khi bị hạ bởi một ngọn giáo. Nếu lúc đó Varamyr ở trong tầm với thì con vật đã gϊếŧ chết hắn rồi. Con gấu ghét hắn và lúc nào cũng giận dữ khi hắn nhập vào hoặc trèo lên lưng nó.
Tuy nhiên, mấy con sói của hắn…
Các anh em của ta. Bầy đàn của ta. Bao nhiêu đêm lạnh giá hắn đã ngủ cùng bầy sói của mình. Cơ thể lông lá lù xù của chúng chặn xung quanh và giúp giữ ấm cho hắn. Khi ta chết chúng sẽ mở tiệc trên thân xác ta và chỉ để lại xương để chào mừng mùa xuân đến. Ý nghĩ đó dễ chịu đến lạ lùng. Lũ sói vẫn thường đem thức ăn về cho hắn khi chúng lang thang săn mồi; vậy thì cho chúng một bữa no nê cuối cùng cũng là điều hợp lý. Hắn có thể lập tức bắt đầu kiếp sống tiếp theo bằng cách ăn thịt xác của chính mình.
Chó là loài dễ điều khiển nhất; chúng sống gần gũi với con người và dường như chẳng khác con người là bao. Nhập vào thân xác một con chó giống như xỏ vào một chiếc giày cũ, da giày đã mềm mại vì được con người sử dụng nhiều. Cũng giống như một chiếc giày được đóng vừa với chân, một con chó cũng được sinh ra để chấp nhận một chiếc vòng đeo cổ, ngay cả khi đó là chiếc vòng cổ vô hình dưới con mắt loài người. Với sói thì khó hơn. Con người có thể làm bạn với sói, thậm chí gϊếŧ sói, nhưng không thể thực sự thuần phục được một con sói. “Sói và phụ nữ là mối quan hệ cả đời,” Haggon thường nói. “Khi đã chọn, đó chính là hôn nhân. Con sói sẽ là một phần của cậu, kể từ ngày đó, và cậu cũng là một phần của nó. Cả hai sẽ thay đổi.”
Tốt nhất không nên động vào những loài thú khác, người thợ săn quả quyết. Mèo kiêu ngạo và độc ác, luôn sẵn sàng phản bội cậu. Hươu và nai sừng tấm là con mồi; nếu đội lốt chúng quá lâu, ngay cả một người đàn ông dũng cảm nhất cũng trở nên hèn nhát. Gấu, lợn lòi, lửng, chồn… Haggon cũng không đồng ý sử dụng những loài đó. “Có những loài cậu sẽ không bao giờ muốn đội lốt chúng, nhóc ạ. Có thể cậu sẽ không thích chút nào đâu.” Ông ấy còn nói chim là lựa chọn tồi tệ nhất. “Con người không thể rời mặt đất. Nếu dành quá nhiều thời gian ở trên trời, cậu sẽ không muốn xuống nữa. Ta biết nhiều người đội lốt đã thử với diều hâu, cú, quạ. Ngay cả trong thân xác của chính mình họ cũng thường ngồi nhìn chăm chú lên mặt trăng.”
Tuy nhiên, không phải kẻ biến hình nào cũng thấy thế. Khi Lump lên 10, Haggon đưa cậu bé đến một buổi tụ họp những người như vậy. Người biến hình chiếm đa số trong nhóm đó, các anh em nhà sói, nhưng thằng bé vẫn tìm thấy những người khác thú vị hơn. Borroq trông rất giống lợn lòi, chỉ thiếu mỗi răng nanh, Orell có đại bàng, Briar có mèo ma (từ lúc nhìn thấy họ, Lump luôn mong có một con mèo ma của riêng mình,) và Grisella, người phụ nữ đội lốt dê…
Tuy nhiên không ai trong số họ mạnh bằng Varamyr Sáu Lốt, kể cả Haggon, người đàn ông cao lớn đầy sát khí với đôi tay cứng như đá. Người thợ săn chết trong đau đớn khi Varamyr cướp mất Lông Xám, đẩy ông ra ngoài để chiếm thân xác của con sói cho chính mình. Ông sẽ không có kiếp sống tiếp theo đâu, ông già ạ. Varamyr Ba Lốt,
hồi đó hắn tự gọi mình như vậy. Lông Xám là thứ tư, dù con sói già đã yếu, rụng hết răng và cũng sắp lìa đời theo Haggon.
Varamyr có thể đội lốt bất cứ con vật nào hắn thích, sai khiến chúng theo ý muốn, và dùng cơ thể chúng như của chính mình. Dù chó hay sói, gấu hay lửng…
Thistle, hắn nghĩ.
Haggon sẽ cho rằng đó là việc kinh tởm, là tội lỗi bẩn thỉu nhất, nhưng Haggon đã chết, đã bị ăn tươi nuốt sống và thiêu rụi. Mance cũng sẽ chửi rủa hắn, nhưng Mance đã bị bắt, hoặc bị gϊếŧ. Sẽ chẳng ai biết cả. Ta sẽ là nữ chiến binh Thistle, và Varamyr Sáu Lốt sẽ chết. Hắn hy vọng khả năng đặc biệt cũng sẽ chết theo cái xác. Hắn sẽ mất những con sói và sống quãng đời còn lại dưới hình hài một phụ nữ gầy nhẳng và mụn nhọt… nhưng hắn sẽ được sống. Nếu cô ta quay lại. Và nếu mình còn đủ sức để chiếm lấy xác cô ta.
Đầu óc Varamyr choáng váng. Hắn quỳ sụp xuống, hai tay vùi trong tuyết. Hắn bốc lên một nắm tuyết và bỏ vào miệng, xát nó vào bộ râu và đôi môi nứt nẻ, rồi nuốt lấy nước. Nước lạnh đến nỗi hắn không nuốt nổi, và một lần nữa hắn nhận ra người mình đang nóng như thế nào.
Tuyết tan trong miệng chỉ khiến hắn cảm thấy đói hơn. Bụng hắn cồn cào đòi thức ăn, chứ không cần nước. Tuyết đã không còn rơi, nhưng gió vẫn đang nổi và bốc những tinh thể nước lên ném đầy vào không khí, chúng bay vào mặt khi hắn cố bước đi, vết thương bên sườn cứ mở ra rồi đóng lại liên tục. Hơi thở của hắn tạo thành một đám sương trắng. Khi tới được chỗ cây đước, hắn tìm thấy một cành cây gãy đủ dài để dùng làm nạng. Chống lên chiếc gậy, hắn tập tễnh bước tới chỗ căn lều gần nhất. Có thể dân làng đã bỏ quên thứ gì đó khi họ bỏ đi… một túi táo, chút thịt khô, bất cứ thứ gì giúp hắn sống cho đến khi Thistle quay lại.
Nhưng mới gần đến nơi thì chiếc nạng gãy đôi dưới sức nặng của Varamyr, và hắn khuỵu xuống.
Varamyr không biết hắn đã nằm đó bao lâu để máu thấm đỏ cả tuyết. Tuyết sẽ chôn sống ta. Đó sẽ là một cái chết nhẹ nhàng. Họ nói khi gần chết người ta thường sẽ cảm thấy ấm áp, ấm và buồn ngủ. Thật tốt nếu lại được cảm thấy ấm áp trở lại, dù hắn thấy buồn khi nghĩ đến việc không bao giờ được nhìn thấy vùng đất xanh rì, ấm áp bên kia Tường Thành mà Mance hay kể nữa. “Thế giới ở bên kia Tường Thành không dành cho chúng ta,” Haggon vẫn thường nói. “Dân du mục sợ những kẻ đội lốt, nhưng họ cũng kính trọng chúng ta. Nhưng ở phía nam Tường Thành, những kẻ quỳ gối sẽ săn đuổi và gϊếŧ chúng ta như gϊếŧ lợn.”
Ông đã cảnh báo ta, Varamyr nghĩ, nhưng cũng chính ông đẩy ta về Trạm Đông.
Lúc đó hắn chưa được 10 tuổi. Haggon đổi mười hai chuỗi hổ phách và một xe trượt tuyết chất đầy da sống để lấy sáu bầu rượu, một tảng muối và một chiếc ấm bằng đồng. Đổi chác ở Trạm Đông có lời hơn so với ở Hắc Thành; đó là nơi những con thuyền cập bến, nặng trĩu hàng hóa từ những miền đất huyền thoại bên kia bờ biển. Đám quạ biết Haggon là thợ săn và cũng là bạn của Đội Tuần Đêm. Họ luôn chờ đón những tin tức ông ta mang về từ phía bên kia Tường Thành. Một số người cũng biết ông ta là kẻ đội lốt, nhưng chẳng ai nói gì về việc đó. Chính từ Trạm-Đông-Bên-Bờ-Biển mà cậu bé năm xưa bắt đầu mơ về phương nam ấm áp.
Varamyr cảm nhận được bông tuyết tan ra trên trán. Như thế này không tệ bằng bị thiêu. Hãy để ta ngủ và không bao giờ tỉnh dậy, hãy để ta bắt đầu kiếp sau. Lũ sói của hắn đang ở gần. Hắn cảm nhận được chúng. Hắn sẽ rời bỏ thân xác yếu ớt này, trở thành một trong số chúng, đi săn vào ban đêm và tru dưới ánh trăng. Người biến hình rồi sẽ trở thành sói thật. Nhưng sẽ là con sói nào?
Không phải Láu Cá. Haggon sẽ gọi đó là kinh tởm, nhưng Varamyr vẫn hay chui vào thân xác Láu Cá khi Một Mắt đang cưỡi trên người nó. Hắn không muốn sống cuộc đời thứ hai ở hình hài một con cɧó ©áϊ, trừ khi hắn không còn lựa chọn nào khác. Lén Lút có thể hợp với hắn hơn, con sói đực trẻ… dù Một Mắt to và dữ tợn hơn. Cũng chính Một Mắt thường giao phối với Láu Cá mỗi khi nó động đực.
“Mọi người nói cậu đã quên,” Haggon từng nói với hắn vài lần. “Khi con người chết đi, linh hồn của anh ta sẽ ở lại và tiếp tục sống trong thân xác động vật, nhưng mỗi ngày ký ức của anh ta sẽ mờ đi, cho đến khi con vật trở nên giống sói nhiều hơn là một kẻ biến hình, cho đến khi chẳng còn phần người nào còn sót lại trong con thú nữa.”
Varamyr đã trải qua việc đó. Khi hắn chui vào lốt con đại bàng trước đây từng thuộc về Orell, hắn cảm nhận được cả cơn giận dữ của kẻ đội lốt trước đó. Orell bị con quạ phản bội Jon Snow gϊếŧ chết, và hắn ghét kẻ gϊếŧ mình đến nỗi Varamyr cũng cảm thấy căm ghét thằng nhóc quái vật đó. Hắn đã biết con người thực sự của Snow từ giây phút hắn nhìn thấy con sói trắng vĩ đại đi bên cạnh cậu ta. Những kẻ đội lốt luôn cảm nhận được sự hiện diện của nhau. Lẽ ra Mance nên cho ta lấy con sói tuyết. Kiếp sống đó sẽ xứng đáng cho một vị vua. Hắn chắc chắn mình có thể làm được điều đó. Khả năng của Snow rất mạnh, nhưng thằng nhóc chưa được dạy dỗ và vẫn chiến đấu một cách bản năng, trong khi đáng lẽ mọi thứ phải vẻ vang hơn.
Varamyr nhìn thấy đôi mắt đỏ rực của cây đước nhìn xuống hắn từ thân cây trắng. Các vị thần đang cân nhắc. Hắn cảm thấy ớn lạnh, bởi đã làm những điều xấu, những điều khủng khϊếp. Hắn đã trộm cắp, gϊếŧ chóc và hãʍ Ꮒϊếp. Hắn còn ăn thịt và uống máu người hấp hối khi dòng máu đỏ tươi tuôn ra từ chiếc cổ rách toác. Hắn theo dõi
con mồi ở trong rừng, vồ lấy khi chúng đang ngủ, moi ruột khỏi bụng và lôi chúng trên nền đất toàn bùn. Thịt của chúng mới ngọt ngào làm sao. “Là con vật làm, không phải ta,” hắn thầm thì khô khốc. “Đó là món quà mà các ngài ban cho ta.”
Nhưng các vị thần không trả lời. Hơi thở của hắn xám ngoét như sương mù trong không khí. Hắn cảm nhận được băng giá đang đọng dưới râu. Varamyr Sáu Lốt nhắm mắt lại.
Hắn lại mơ giấc mơ xưa cũ về một ngôi nhà tồi tàn bên bờ biển, ba con chó đang rêи ɾỉ và một phụ nữ đang ngồi khóc.
Bump. Bà ấy khóc cho Bump, nhưng chưa bao giờ khóc cho ta.
Lump được sinh non một tháng, cậu nhóc ốm đau quặt quẹo đến nỗi chẳng ai nghĩ cậu sẽ sống nổi. Mẹ cậu chờ đến khi cậu lên 4 mới dám đặt một cái tên tử tế, nhưng lúc đó đã quá muộn. Cả làng đã gọi cậu là Lump, cái tên mà chị gái Meha đặt cho khi cậu còn đang trong bụng mẹ. Bump cũng là cái tên do Meha đặt, nhưng em trai của Lump được sinh đủ tháng, to lớn, đỏ hỏn, khỏe mạnh và bú mẹ rất hăng. Bà định đặt thằng bé theo tên cha. Tuy nhiên Bump lại chết. Thằng bé chết khi nó lên 2 và ta lên 6, ba ngày trước lễ đặt tên của nó.
“Con trai bé nhỏ của bà đang ở với các vị thần rồi,” phù thủy rừng rậm nói với mẹ hắn khi bà đang khóc. “Thằng bé sẽ không phải chịu đau đớn nữa, không bao giờ bị đói, không bao giờ phải khóc. Các vị thần đã cho cậu bé đi vào lòng đất, hòa vào cây cối. Các vị thần ở xung quanh chúng ta, trong vách đá và trong lòng suối, trong chim chóc và muông thú. Bump của bà đã gia nhập với họ. Cậu bé sẽ là cả thế giới và hòa nhập vào thế giới này.”
Những lời của bà ta đâm vào Lump như một mũi dao. Bump nhìn thấy. Nó đang nhìn cậu. Nó biết. Lump không thể trốn tránh khỏi em trai, không thể trốn sau váy mẹ hay cùng lũ chó chạy trốn cơn thịnh nộ của cha. Ba con chó. Tai Cụp, Khụt Khịt và Gầm Gừ. Chúng đều là những con chó ngoan. Chúng là bạn của ta.
Khi cha cậu thấy lũ chó đang ngửi quanh xác Bump, ông không biết con nào đã gây ra chuyện đó, vì thế ông quyết định gϊếŧ cả ba. Tay ông run đến nỗi ông phải chém hai nhát Khụt Khịt mới im bặt và bốn nhát Gầm Gừ mới chết. Mùi máu tanh nồng trong không khí, và tiếng chó kêu hấp hối nghe thật kinh khủng, thế nhưng Tai Cụp vẫn tới khi nghe thấy tiếng cha cậu gọi. Đó là con chó già nhất, và nó được rèn luyện để vượt qua sợ hãi. Nhưng khi Lump kịp chui vào lốt nó thì mọi việc đã quá muộn.
Không, Cha, xin đừng, thằng nhóc cố nói, nhưng chó không thể nói tiếng người, nên tất cả âm thanh phát ra chỉ là tiếng rêи ɾỉ thảm thương. Chiếc rìu bổ thẳng vào giữa sọ con chó già, và bên trong chiếc lều thằng bé thét lên. Và thế là họ phát hiện ra
mọi chuyện. Hai ngày sau, cha cậu lôi cậu vào rừng. Ông mang theo rìu, vì thế Lump nghĩ ông sẽ xử cậu giống như mấy con chó. Nhưng thay vào đó, ông giao cậu cho Haggon.
Varamyr đột nhiên tỉnh dậy, toàn thân hắn run lên bần bật. “Dậy đi,” một giọng nói đang gào thét, “dậy mau, chúng ta phải đi rồi. Bọn chúng có hàng mấy trăm tên.” Tuyết phủ lên hắn như một chiếc chăn màu trắng cứng ngắc. Lạnh quá. Khi cố cử động, hắn thấy tay mình đã đông thành đá và dính chặt xuống đất. Một ít da tay tuột lại khi hắn cố nhấc lên. “Dậy đi,” cô ta hò hét một lần nữa, “chúng đang đến kìa.”
Thistle đã quay lại. Cô nắm lấy vai hắn và lắc mạnh, miệng hét vào mặt hắn. Varamyr ngửi thấy cả hơi thở của cô và cảm nhận được hơi ấm của nó trên hai gò má tê cóng vì lạnh. Bây giờ, hắn nghĩ, phải làm ngay bây giờ, hoặc là chết.
Hắn dồn toàn bộ sức lực còn lại, thoát ra khỏi thân xác của mình và nhập vào cô.
Thistle oằn mình và thét lên.
Kinh tởm. Đó là ý nghĩ của cô ta, hay hắn, hay Haggon? Hắn cũng không biết nữa. Hắn rơi phịch xuống đống tuyết khi cô thả lỏng các ngón tay. Nữ chiến binh vùng vẫy dữ dội và gào thét. Con mèo ma từng chống lại hắn dữ dội, con gấu tuyết cũng có một thời gian trở nên điên loạn khi đớp đá, cây cối và không khí. Nhưng lần này là tồi tệ nhất. “Ra ngoài, ra ngoài!” Hắn nghe thấy cô ta nói. Người cô ta lảo đảo, gục xuống rồi lại vùng lên, hai tay quờ quạng, chân cô ta bước loạng choạng không theo một hướng cố định nào như thể đang nhảy một điệu vũ kỳ quặc. Trong khi đó linh hồn của hắn và của cô đang chiến đấu để tranh giành phần xác. Cô ta hít khí lạnh vào đầy miệng, và Varamyr có nửa giây để tận hưởng vị của nó và sức khỏe của cơ thể trẻ trung này trước khi răng cô ta cắn phập vào nhau và máu tràn đầy miệng hắn. Cô ta giơ hai tay lên mặt, hắn cố hạ tay xuống, nhưng đôi tay không chịu nghe theo lệnh. Và giờ cô ta đang móc mắt hắn. Kinh tởm, hắn nhớ lại trong khi chìm ngập trong máu, vết thương và sự điên loạn. Khi hắn cố hét lên, cô ta nhổ chiếc lưỡi của họ xuống đất.
Cả thế giới màu trắng xung quanh đảo ngược và thu nhỏ dần. Bỗng chốc hắn cảm giác như mình đang ở bên trong một cây đước, nheo mắt nhìn ra ngoài qua hai hốc mắt đỏ chạm khắc trong khi một người đàn ông hấp hối đang co giật trên nền đất và một người đàn bà điên vừa nhảy quay cuồng dưới ánh trăng vừa xé quần xé áo, nước mắt chảy xuống đỏ rực. Sau đó mọi thứ biến mất và hắn đang bay lên rồi tan chảy. Hồn hắn bay theo một cơn gió lạnh. Hắn lẫn vào trong tuyết và trong những đám mây, hắn là một con chim sẻ, một con sóc và một cây sồi. Một con cú sừng bay lặng lẽ giữa những thân cây. Sâu bên dưới nền tuyết đóng băng, lũ giun đang mò mẫm đào trong bóng tối, và hắn cũng là một trong số chúng. Ta là cây cối, là mọi thứ trong đó, hắn hân hoan nghĩ. Hàng trăm con quạ đập cánh bay lên không trung và kêu lên quang
quác khi cảm nhận được hắn đi qua. Một con nai sừng tấm vĩ đại rống lên phá rối sự yên tĩnh của lũ con non trên lưng nó. Một con sói tuyết đang ngủ ngẩng đầu lên và nhe nanh gầm gừ với không gian trống trải. Chỉ trong nháy mắt hắn đã đi vụt qua. Hắn đang tìm bầy đàn của mình: Một Mắt, Láu Cá và Lén Lút. Lũ sói sẽ cứu ta, hắn tự nhủ.
Và đó là suy nghĩ cuối cùng của hắn dưới hình dạng con người.
Cái chết thực sự đến một cách đột ngột; hắn cảm thấy một cơn lạnh tê tái như thể bị quăng xuống một hồ nước đóng băng. Sau đó hắn thấy mình đang chạy trên tuyết dưới ánh trăng cùng với đàn sói ở sát phía sau. Một nửa thế giới tối đen. Một Mắt, hắn nhận ra. Hắn tru lên, sau đó Láu Cá và Lén Lút tru theo.
Lũ sói dừng lại khi họ lên đến đỉnh đồi. Thistle, một phần trong hắn thấy hối tiếc về những gì hắn để mất, và phần khác hối tiếc vì những việc hắn làm. Bên dưới, cả thế giới đã hóa thành băng. Các ngón tay của băng giá đang bò chậm chạp lên cây đước và vươn ra để chạm vào nhau. Ngôi làng bỏ hoang không còn trống không nữa. Những cái bóng mắt xanh đi lại giữa đống tuyết. Một số mặc màu nâu, một số màu đen và một số không mặc gì, da thịt họ trắng như tuyết. Một cơn gió thổi qua những ngọn đồi đem theo mùi của họ nồng nặc trong không khí: thịt người chết, máu khô, da tanh mùi nấm mốc, thối rữa và nướ© ŧıểυ. Láu Cá gầm gừ và nhe nanh, lông cổ dựng đứng lên. Không phải người. Không phải con mồi. Không phải những tên này.
Những thứ dưới kia di chuyển, nhưng không phải sinh vật sống. Chúng lần lượt ngẩng đầu lên nhìn ba con sói trên đồi. Tên cuối cùng nhìn lên là thứ đã từng là Thistle. Cô ta mặc đồ len, lông vũ và da, một lớp sương giá phủ lên người như một chiếc áo khoác, chúng nứt vỡ khi cô ta di chuyển và sáng lấp lánh dưới ánh trăng. Băng đông cứng lại thành những trụ dài màu đỏ nhạt bên dưới những ngón tay, mười con dao dài bằng máu đông. Trong hai hốc mắt, ánh sáng màu xanh nhạt chập chờn khiến những nét thô kệch của cô ta bỗng mang một vẻ đẹp kỳ quái mà họ chưa từng thấy trên đời.
Cô ta nhìn thấy mình rồi.