Tải app Android hoặc iOS để đọc truyện nhanh hơn

Hỗ trợ: Fanpage TruyenHD

Đại Tạng Kinh

Chương 19: Kinh Diệu Pháp Liên Hoa ♦ Quyển 5

« Chương TrướcChương Tiếp »
Kinh Diệu Pháp Liên Hoa ♦ Quyển 5

☸ PHẨM 14: HẠNH AN LẠC

Lúc bấy giờ Diệu Cát Tường Pháp Vương Tử Đại Bồ-tát bạch Phật rằng:

"Bạch Thế Tôn! Các vị Bồ-tát đó thật là hy hữu. Bởi họ kính thuận lời dạy của Phật và phát đại thệ nguyện để hộ trì đọc tụng Kinh Pháp Hoa này ở đời ác về sau.

Bạch Thế Tôn! Đại Bồ-tát ở đời ác về sau phải thuyết giảng Kinh này như thế nào?"

Phật bảo ngài Diệu Cát Tường:

"Nếu đại Bồ-tát ở đời ác về sau muốn thuyết giảng Kinh này thì nên an trụ trong bốn Pháp.



Một là an trụ nơi hành Đạo và nơi thân cận của Bồ-tát, thì họ sẽ có thể diễn giảng Kinh này cho chúng sinh.

Này Diệu Cát Tường! Sao gọi là nơi hành Đạo của đại Bồ-tát?

Nếu đại Bồ-tát trụ ở địa nhẫn nhục thì sẽ nhu hòa, tùy thuận, và sẽ không bạo ngược. Tâm các ngài cũng sẽ không kinh sợ.

Lại cũng không có pháp để hành, mà chỉ quán tướng như thật của các pháp, cũng không hành và không phân biệt. Đây gọi là Nơi Hành Đạo của Đại Bồ-tát.

Sao gọi là nơi thân cận của đại Bồ-tát?

Đại Bồ-tát không gần gũi quốc vương, vương tử, đại thần, hay lân la chốn quan trường.

Đại Bồ-tát không gần gũi hàng ngoại đạo Phạm Chí, chúng ngoại đạo lõa hình, cùng người viết văn chương thế tục, hoặc những ai ca tụng sách vở ngoại đạo, hay những kẻ theo chủ nghĩa duy vật và người chống đối chủ nghĩa duy vật.

Cũng không gần gũi các loại tiêu khiển hung hiểm, như là đánh lôi đài, đấu vật, và trò diễn giải trí hay bất cứ loại ảo thuật nào.

Lại cũng không gần gũi giai cấp đê tiện, kẻ nuôi lợn dê gà chó, hoặc kẻ săn bắn, bắt cá, hay những kẻ xấu ác phạm luật. Đôi lúc các hạng người như thế đến, thì đại Bồ-tát vẫn thuyết Pháp nhưng không hy vọng điều gì.

Lại cũng không gần gũi hàng Bhikṣu [bíc su], Bhikṣuṇī [bíc su ni], Thanh Tín Nam, hay Thanh Tín Nữ nào cầu Quả Thanh Văn và cũng không thăm hỏi họ. Đại Bồ-tát cũng không trú chung ở trong phòng, nơi kinh hành, hay ở tại giảng đường với họ. Đôi lúc họ đến, thì đại Bồ-tát vẫn thuyết Pháp nhưng không hy vọng điều gì.

Này Diệu Cát Tường! Lại nữa, đại Bồ-tát không được đối với thân hình của người nữ mà khởi sinh ý tưởng sắc dục, rồi thuyết Pháp cho họ.

Đại Bồ-tát cũng không vui thích mong thấy người nữ. Nếu vào nhà người khác thì chớ cùng nói chuyện với bé gái, tỳ nữ, hay quả phụ.

Lại cũng không gần gũi với năm loại người bất nam hay kết bạn với họ.

Đại Bồ-tát không vào nhà người khác một mình. Nếu có Phật sự cần phải vào thì phải luôn nhất tâm niệm Phật.

Nếu thuyết Pháp cho người nữ thì không được cười hở răng hay để lộ ngực. Dẫu cho là vì Pháp đi nữa thì đại Bồ-tát cũng không giao thiệp với họ. Hà huống là những việc khác.

Đại Bồ-tát không thích nuôi dưỡng đệ tử trẻ tuổi, Cần Sách Nam, Cần Sách Nữ, hay con nít, và cũng không thích có đồng sư phụ với họ.

Đại Bồ-tát luôn thích ngồi thiền ở nơi yên tĩnh để thu nhϊếp tâm họ.

Này Diệu Cát Tường! Đây gọi là Nơi Thân Cận Thứ Nhất của Đại Bồ-tát.

Lại nữa, đại Bồ-tát quán tất cả pháp đều là không; quán tướng như thật của chúng, chẳng điên đảo, chẳng động, chẳng thoái, chẳng chuyển; như hư không, không có tự tính, hết thảy đường ngôn ngữ đoạn tuyệt, không sinh, không diệt, không khởi; không tên gọi, không hình tướng, thật không chỗ có, vô lượng, vô biên, vô ngại, vô chướng.

Các pháp hiện hữu là do nhân duyên và sinh ra từ điên đảo. Đại Bồ-tát luôn thích quán pháp tướng như vậy. Đây gọi là Nơi Thân Cận Thứ Nhì của Đại Bồ-tát."

Lúc bấy giờ Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa lý ở trên nên nói kệ rằng:

"Nếu có Bồ-tát nào

Ở đời ác về sau

Với tâm không sợ hãi

Muốn thuyết giảng Kinh này

Nên vào nơi hành Đạo

Và cùng nơi thân cận

Luôn xa lánh quốc vương

Cùng con cháu vương tộc

Đại thần nơi quan trường

Kẻ diễn trò hung hiểm

Hàng ngoại đạo Phạm Chí

Kẻ làm nghề mổ gϊếŧ

Lại cũng không gần gũi

Hạng người tăng thượng mạn

Tham chấp nơi Nhị Thừa

Mà học tập ba tạng

Hay Bhikṣu phá giới

Tự xưng bậc Ứng Chân

Cùng các Bhikṣuṇī

Thích đùa giỡn vui chơi

Chấp sâu nơi năm dục

Cầu diệt độ hiện đời

Hoặc cư sĩ như thế

Đều chớ nên thân cận

Nếu hạng người như thế

Với lòng tốt mà đến

Nơi chỗ của Bồ-tát

Để nghe về Phật Đạo

Bồ-tát liền có thể

Với tâm không sợ hãi

Không hy vọng điều gì

Mà thuyết Pháp cho họ

Góa phụ người tỳ nữ

Cùng những kẻ bất nam

Đều chớ nên gần gũi

Chớ giao tiếp với họ

Cũng chớ nên thân cận

Kẻ làm nghề mổ gϊếŧ

Thợ săn người đánh cá

Kẻ vì lợi gϊếŧ hại

Bán thịt để kiếm sống

Hay kẻ buôn nữ sắc

Những hạng người như thế

Đều chớ nên gần gũi

Muôn thứ loại tiêu khiển

Trò hung hiểm bạo lực

Cùng các kẻ da^ʍ nữ

Tuyệt chớ nên thân cận

Đừng một mình nơi vắng

Thuyết Pháp cho người nữ

Nếu đến lúc thuyết Pháp

Thì không được cười giỡn

Khi vào xóm khất thực

Dẫn một Bhikṣu nữa

Nếu không có Bhikṣu

Phải nhất tâm niệm Phật

Đây gọi là Bồ-tát

Hành Xứ và Cận Xứ

Với hai xứ này đây

Khéo thuyết Pháp an vui

Lại cũng đừng thực hành

Các pháp thượng trung hạ

Pháp vô vi hữu vi

Pháp thật, pháp chẳng thật

Cũng chớ nên phân biệt

Đó là nam kia nữ

Các pháp đều vô đắc

Không biết và không thấy

Đây mới đúng gọi là

Bồ-tát hành Đạo xứ

Hết thảy tất cả pháp

Là không, không chỗ có

Chúng chẳng phải thường trụ

Cũng chẳng khởi chẳng diệt

Đây được gọi tên là

Trí Giả Thân Cận Xứ

Do điên đảo phân biệt

Các pháp có hoặc không

Là thật hay chẳng thật

Là sinh hay chẳng sinh

Ở tại nơi vắng vẻ

Bồ-tát thu nhϊếp tâm

An trụ bất động dao

Vững như núi Diệu Cao

Quán sát hết thảy pháp

Thảy đều không chỗ có

Ví như là hư không

Chúng chẳng thật kiên cố

Không sinh cũng không diệt

Không động cũng không thoái

Luôn thường trụ một tướng

Đây là Thân Cận Xứ

Nếu có Bhikṣu nào

Sau khi Ta diệt độ

Nhập nơi hành Đạo ấy

Cùng với nơi thân cận

Khi thuyết giảng Kinh này

Thì sẽ không khϊếp nhược

Khi Bồ-tát đi vào

Một căn phòng yên tĩnh

Với chính niệm tư duy

Tùy nghĩa quán các pháp

Rồi từ thiền định dậy

Ngài vì các quốc vương

Vương tử với thần dân

Và cùng hàng Phạm Chí

Khai thị diễn nói Pháp

Thuyết giảng Kinh điển này

Tâm các ngài an ổn

Không có điều hãi kinh

Đồng tử Diệu Cát Tường

Đây gọi là Bồ-tát

An Trụ ở Sơ Pháp

Có thể vào đời sau

Thuyết giảng Kinh Pháp Hoa



Lại nữa, Diệu Cát Tường! Sau khi Như Lai diệt độ, vào thời Mạt Pháp, nếu ai muốn thuyết giảng Kinh này thì nên trụ ở Hạnh An Lạc.

Nếu ai tuyên giảng hoặc khi đọc Kinh, thì chớ ưa thích việc nói lỗi lầm của người hay của Kinh, cũng không được khinh mạn với các vị Pháp sư khác, và chớ nói việc tốt xấu hay dở của người. Đối với những ai tu theo Pháp Thanh Văn, thì cũng đừng nêu tên của họ để nói về việc xấu ác của họ, và cũng đừng ca tụng tên của họ về việc làm tốt của họ.

Lại cũng chớ sinh tâm oán hận. Bởi khéo tu tâm an lạc như thế, nên những người nghe sẽ không trái nghịch với tâm ý người ấy. Khi có câu hỏi khó, họ sẽ không dùng Pháp Nhị Thừa để giải đáp, mà chỉ dùng Pháp Đại Thừa thuyết giảng để khiến người nghe đắc Nhất Thiết Chủng Trí."

Lúc bấy giờ Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa lý ở trên nên nói kệ rằng:

"Bồ-tát luôn vui thích

Thuyết Pháp nơi tĩnh mịch

Ở chỗ đất thanh tịnh

Mà trải làm chỗ ngồi

Lấy dầu bôi lên thân

Tẩy rửa trừ bụi dơ

Mặc áo sạch thanh khiết

Trong ngoài đều thanh tịnh

An trụ trên Pháp tòa

Tùy người hỏi thuyết giảng

Nếu có các Bhikṣu

Cùng với Bhikṣuṇī

Hay các Thanh Tín Nam

Cùng với Thanh Tín Nữ

Quốc vương và vương tử

Quần thần và nhân dân

Dùng nghĩa thú vi diệu

Mặt tươi vui thuyết giảng

Nếu có câu hỏi khó

Tùy nghĩa lý giải đáp

Với nhân duyên thí dụ

Mà diễn giải phân biệt

Dùng môn phương tiện này

Khiến họ đều phát tâm

Lần lần thêm lợi ích

Dẫn họ vào Phật Đạo

Dẹp trừ bỏ thói lười

Cùng ý tưởng lười biếng

Rời xa mọi ưu não

Với lòng từ thuyết Pháp

Ngày đêm luôn thuyết giảng

Giáo Pháp Đạo vô thượng

Bằng vào các nhân duyên

Cùng vô lượng thí dụ

Khai thị dạy chúng sinh

Khiến đều sinh hoan hỷ

Nào y phục giường nệm

Ẩm thực và thuốc thang

Đối với những thứ ấy

Quyết không kỳ vọng gì

Chỉ nhất tâm chuyên chú

Thuyết các Pháp nhân duyên

Nguyện sẽ thành Phật Đạo

Khiến chúng sinh cũng vậy

Đây là lợi ích lớn

Làm cúng dường an vui

Sau khi Ta diệt độ

Nếu có Bhikṣu nào

Mà có thể thuyết giảng

Kinh Diệu Pháp Liên Hoa

Không sân hận ganh ghét

Tâm phiền não chướng ngại

Cũng không có ưu sầu

Và kẻ đến mắng chửi

Lại cũng không sợ hãi

Nào là gươm đao gậy

Cũng không bị ruồng đuổi

Bởi an trụ nhẫn nhục

Bậc trí như thế ấy

Khéo tu tâm của họ

Có thể trụ an lạc

Như Ta nói ở trên

Công đức của người ấy

Nghìn vạn ức số kiếp

Dùng toán số thí dụ

Thuyết giảng không cùng tận



Lại nữa, Diệu Cát Tường! Vào đời vị lai khi Pháp sắp diệt mất, nếu đại Bồ-tát nào thọ trì và đọc tụng Kinh điển này, thì không nên ôm lòng ganh ghét, nịnh hót, hay dối trá. Họ cũng không nên mắng chửi và khinh chê người tu học Phật Đạo, hay soi mói điểm tốt điều xấu.

Nếu có những vị Bhikṣu, Bhikṣuṇī, Thanh Tín Nam, Thanh Tín Nữ, người cầu Quả Thanh Văn, người cầu Đạo Độc Giác, hay người cầu Đạo Bồ-tát, thì cũng không được não loạn và khiến họ nghi ngờ hay hối tiếc mà nói với họ rằng:

"Các ông cách xa Đạo thăm thẳm và sẽ không bao giờ có thể đắc Nhất Thiết Chủng Trí.

Vì sao thế? Bởi các ông đây buông lung và lười biếng trong việc tu Đạo."

Lại cũng không nên hí luận các pháp để gây ra tranh cãi. Người ấy nên đối với hết thảy chúng sinh mà khởi tưởng lòng đại bi, đối với chư Như Lai mà khởi tưởng như từ phụ, và đối với chư Bồ-tát mà khởi tưởng như đại sư. Người ấy phải luôn hết lòng cung kính và lễ bái đối với chư đại Bồ-tát ở các cõi nước trong mười phương. Người ấy nên bình đẳng thuyết Pháp đối với tất cả chúng sinh. Bởi tùy thuận với Pháp, người ấy không nên nói quá nhiều hay quá ít. Dẫu cho có người hết mực yêu mến Pháp thì cũng không nên nói nhiều.

Này Diệu Cát Tường! Vào đời vị lai khi Pháp sắp diệt mất, nếu đại Bồ-tát nào thành tựu Hạnh An Lạc thứ ba này, thì khi thuyết Pháp sẽ không thể nào bị não loạn. Họ sẽ có các thiện hữu đồng tu học và cùng đọc tụng Kinh này. Đại chúng cũng sẽ đến nghe và tín thọ.

- Khi đã nghe, sẽ có thể hành trì.

- Khi đã hành trì, sẽ có thể tụng niệm.

- Khi đã tụng niệm, sẽ có thể thuyết giảng.

- Khi đã thuyết giảng, sẽ có thể biên chép, hoặc bảo người khác biên chép để cúng dường Kinh này với lòng cung kính, tôn trọng, và tán thán."

Lúc bấy giờ Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa lý ở trên nên nói kệ rằng:

"Nếu muốn giảng Kinh này

Nên xả ganh, hận, khinh

Lòng nịnh hót gian xảo

Việc làm luôn ngay thẳng

Không khinh miệt người khác

Cũng không hí luận pháp

Đừng khiến họ hoài nghi

"Sao ông thành Phật được?"

Phật tử này thuyết Pháp

Luôn nhu hòa khéo nhẫn

Từ bi với tất cả

Không sinh tâm biếng lười

Mười phương đại Bồ-tát

Hành Đạo thương chúng sinh

Nên sinh lòng cung kính

"Đây là thầy của tôi"

Đối chư Phật Thế Tôn

Nghĩ tưởng Đức từ phụ

Phá trừ lòng kiêu mạn

Thuyết Pháp không chướng ngại

Pháp thứ ba như thế

Bậc trí nên thủ hộ

Nhất tâm Hạnh An Lạc

Vô lượng người cung kính



Lại nữa, Diệu Cát Tường! Vào đời vị lai khi Pháp sắp diệt mất, nếu đại Bồ-tát nào trì Kinh Pháp Hoa này, thì nên sinh tâm đại từ đối với hàng xuất gia và người tại gia.

Đại Bồ-tát nên sinh tâm đại bi đối với người không phải là Bồ-tát mà nghĩ như vầy:

"Những người này đã đánh mất sự lợi ích to lớn. Mặc dầu Như Lai với phương tiện để tùy nghi thuyết Pháp, nhưng họ chẳng nghe, chẳng hay, chẳng biết, chẳng hỏi, chẳng tin, hoặc chẳng hiểu. Tuy những người ấy không hỏi, không tin, hoặc không hiểu Kinh này, nhưng khi tôi đắc Vô Thượng Chính Đẳng Chính Giác và dẫu cho họ ở bất kỳ nơi đâu, tôi sẽ dùng sức thần thông cùng sức trí tuệ để tiếp dẫn và khiến họ trụ trong Pháp này."

Này Diệu Cát Tường! Sau khi Như Lai diệt độ, nếu đại Bồ-tát nào thành tựu Pháp thứ tư này, thì khi thuyết Pháp sẽ không có sai lầm. Họ sẽ luôn được những vị Bhikṣu, Bhikṣuṇī, Thanh Tín Nam, Thanh Tín Nữ, quốc vương, vương tử, đại thần, nhân dân, Phạm Chí, cùng hàng cư sĩ cung kính cúng dường và tôn trọng tán thán. Chư thiên trong hư không cũng sẽ luôn đi theo để nghe Pháp. Nếu ở thôn xóm, thành ấp hay trong rừng hoang mà như có người đến và muốn đặt những câu hỏi khó, thì vì Pháp, chư thiên ngày đêm sẽ luôn hộ vệ họ và sẽ có thể khiến người nghe đều được hoan hỷ.

Vì sao thế? Bởi Kinh này được hết thảy thần lực của chư Phật quá khứ, hiện tại, cùng vị lai bảo hộ.

Này Diệu Cát Tường! Trong vô lượng quốc độ, danh tự của Kinh Pháp Hoa còn không thể nghe được. Huống nữa là thấy, rồi thọ trì đọc tụng.

Này Diệu Cát Tường! Đây ví như Chuyển Luân Thánh Vương cường lực muốn dùng uy thế để hàng phục các nước, nhưng mà các tiểu vương chẳng chịu tuân theo mệnh lệnh. Lúc ấy, vua Chuyển Luân điều động đủ mọi loại quân để đến thảo phạt. Khi nhà vua thấy hàng binh chúng chiến đấu có công, ngài liền vô cùng hoan hỷ và luận công thưởng thí. Hoặc ban cho ruộng vườn, nhà cửa, thôn làng, hay thành quách. Hoặc ban cho y phục hay những vật trang sức nơi thân. Hoặc ban cho muôn loại trân bảo, nào là vàng, bạc, lưu ly, xa cừ, mã não, san hô, và hổ phách. Hoặc ban cho voi ngựa, xe cộ, nô tỳ, hay nhân dân. Duy trừ viên minh châu trên búi tóc thì ngài sẽ không thưởng thí.

Vì sao thế? Bởi độc nhất nhà vua mới có viên minh châu này trên đỉnh đầu. Nếu ngài cho đi thì hàng quyến thuộc của nhà vua tất sẽ hết sức kinh ngạc.

Này Diệu Cát Tường! Như Lai cũng lại như vậy. Với sức thiền định và trí tuệ, Như Lai được quốc độ của Pháp và làm vua trong ba cõi. Tuy nhiên, chúng ma vương vẫn không chịu quy phục. Thế nên hiền thánh của Như Lai cùng chiến đấu với chúng, và những ai có công thì tâm của Như Lai sẽ rất hoan hỷ.

Ở trong bốn chúng đệ tử, Như Lai thuyết giảng các Kinh để khiến tâm họ vui vẻ. Như Lai ban cho thiền định, giải thoát, vô lậu, Năm Căn, Năm Lực, và các Pháp tài. Lại ban cho thành tịch diệt và bảo họ sẽ được diệt độ. Như Lai dẫn dắt tâm họ và làm cho tất cả đều hoan hỷ, nhưng Như Lai vẫn không hề giảng Kinh Pháp Hoa.

Này Diệu Cát Tường! Đây ví như vua Chuyển Luân, khi thấy trong hàng binh chúng có những vị lập đại công thì lòng ngài vui mừng khôn xiết. Cuối cùng đến lúc này, ngài mới lấy viên minh châu quý hiếm đã từ lâu gắn trên búi tóc để ban cho họ mà xưa nay chưa từng thưởng thí.

Như Lai cũng lại như vậy. Ngài làm bậc đại Pháp Vương ở trong ba cõi và dùng Pháp giáo hóa tất cả chúng sinh. Như Lai thấy quân sĩ của hiền thánh chiến đấu với ma năm uẩn, ma phiền não, và ma chết. Khi thấy họ diệt trừ ba độc, ra khỏi ba cõi, phá vòng lưới ma, và lập đại công--lúc bấy giờ Như Lai sẽ vô cùng hoan hỷ. Khi ấy, Ngài liền giảng Kinh Pháp Hoa này để có thể khiến chúng sinh đạt đến Nhất Thiết Trí. Đây là Pháp mà hết thảy thế gian đều khó tin và nhiều oán ghét. Thế nên từ trước đến nay, Như Lai chưa từng thuyết giảng.

Này Diệu Cát Tường! Kinh Pháp Hoa này là giáo Pháp đệ nhất của chư Như Lai. Ở trong tất cả giáo Pháp, Pháp này là thâm sâu nhất và chỉ phó chúc ở thời điểm cuối cùng. Đây ví như vị vua Chuyển Luân cường lực kia, ngài từ lâu bảo hộ viên minh châu và bây giờ mới mang đi thưởng thí.

Này Diệu Cát Tường! Kinh Pháp Hoa này là tạng bí mật của chư Phật Như Lai. Ở trong tất cả Kinh, Kinh này là tối thượng. Như Lai ngày đêm thủ hộ và tuyệt đối không tùy tiện tuyên nói. Chỉ đến hôm nay, Như Lai mới diễn giải cho các ông."

Lúc bấy giờ Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa lý ở trên nên nói kệ rằng:

"Ai luôn hành nhẫn nhục

Thương xót với tất cả

Sẽ có thể diễn nói

Kinh chư Phật tán dương

Thời Mạt Pháp về sau

Hành giả trì Kinh này

Đối xuất gia tại gia

Người chẳng phải Bồ-tát

Nên sinh lòng từ bi

"Những người đó chẳng nghe

Cùng chẳng tin Kinh này

Mất đi lợi ích lớn

Khi tôi thành Phật Đạo

Sẽ dùng mọi phương tiện

Để thuyết giảng Pháp này

Khiến họ trụ trong ấy"

Đây ví như cường lực

Vị Chuyển Luân Thánh Vương

Binh chiến đấu có công

Ngài ban thưởng các vật

Nào voi ngựa xe cộ

Đồ vật trang nghiêm thân

Cùng ruộng vườn nhà cửa

Thôn làng và thành ấp

Hoặc thưởng thí y phục

Muôn vật báu trân quý

Nô tỳ và tài vật

Vui vẻ ban cho họ

Ví như người khỏe mạnh

Có thể làm việc khó

Vua lấy viên minh châu

Trên búi tóc cho họ

Như Lai cũng như vậy

Là vua của các pháp

Với nhẫn nhục đại lực

Và trí tuệ bảo tạng

Với lòng đại từ bi

Như Pháp độ thế gian

Khi Ngài thấy mọi người

Thọ lấy các khổ não

Muốn cầu giải thoát ra

Cùng chúng ma chiến đấu

Vì những chúng sinh này

Thuyết giảng đủ mọi Pháp

Dùng môn đại phương tiện

Thuyết các Kinh như thế

Một khi biết chúng sinh

Đã có sức mạnh rồi

Đợi đến lúc sau cùng

Ngài giảng Kinh Pháp Hoa

Như vua lấy minh châu

Trên búi tóc cho họ

Trong tất cả các Kinh

Kinh này là tối thượng

Như Lai luôn thủ hộ

Chẳng tùy tiện khai thị

Nhưng nay chính là lúc

Để nói cho các ông

Sau khi Ta diệt độ

Những ai cầu Phật Đạo

Muốn có được an ổn

Và muốn giảng Kinh này

Thì phải nên thân cận

Bốn Pháp như thế ấy

Những ai đọc Kinh này

Sẽ luôn không ưu phiền

Lại chẳng có bệnh khổ

Nhan sắc tươi hồng hào

Không sinh chốn bần cùng

Thấp kém hay xấu xí

Chúng sinh nhìn yêu mến

Ái mộ như thánh hiền

Các đồng tử cõi trời

Làm sứ giả của họ

Dao gậy chẳng thể tổn

Thuốc độc chẳng thể hại

Nếu ai ác mắng chửi

Miệng sẽ liền câm nín

Du hành chẳng kinh sợ

Ví như sư tử chúa

Ánh sáng của trí tuệ

Chiếu soi như mặt trời

Nếu ở trong giấc mộng

Chỉ thấy điều vi diệu

Họ thấy chư Như Lai

Ngồi trên tòa sư tử

Các Bhikṣu vây quanh

Và thuyết giảng Kinh Pháp

Họ lại thấy long thần

Và các loài phi thiên

Số như cát sông Hằng

Đều cung kính chắp tay

Tự thấy chính thân mình

Thuyết giảng Pháp cho họ

Lại thấy các Đức Phật

Thân tướng với sắc vàng

Phóng vô lượng quang minh

Biến chiếu đến tất cả

Và với tiếng Phạm âm

Mà diễn nói các Pháp

Vì bốn chúng đệ tử

Phật thuyết Pháp vô thượng

Tự thấy họ trong ấy

Chắp tay tán thán Phật

Nghe Pháp tâm hoan hỷ

Rồi liền làm cúng dường

Sẽ đắc các tổng trì

Chứng trí không thoái chuyển

Phật biết tâm của họ

Đã vào sâu Phật Đạo

Thế nên liền thọ ký

Sẽ thành Tối Chính Giác



"Này các thiện nam tử

Ông vào đời vị lai

Sẽ được vô lượng trí

Và Đại Đạo của Phật

Cõi nước tịnh trang nghiêm

Rộng lớn không gì sánh

Có bốn chúng đệ tử

Chắp tay lắng nghe Pháp"

Lại thấy thân chính họ

Sống ở trong núi rừng

Tu tập mọi Pháp lành

Chứng thật tướng các pháp

Vào sâu trong thiền định

Thấy mười phương chư Phật

Chư Phật thân sắc vàng

Trăm phúc tướng trang nghiêm

Nghe Pháp giảng cho người

Thường có mộng tốt này

Lại mơ làm quốc vương

Rời cung điện quyến thuộc

Cùng thượng diệu năm dục

Mà đi tới Đạo Tràng

Ở dưới cội Đạo thụ

Ngồi trên tòa sư tử

Sau bảy ngày cầu Đạo

Đắc trí của chư Phật

Khi thành Đạo vô thượng

Chu du chuyển Pháp luân

Thuyết Pháp cho bốn chúng

Suốt nghìn vạn ức kiếp

Thuyết vô lậu diệu Pháp

Độ vô lượng chúng sinh

Sau sẽ vào tịch diệt

Như đèn đã cạn dầu

Nếu đời ác về sau

Thuyết Pháp đệ nhất này

Người ấy được lợi lớn

Các công đức như trên"

☸ PHẨM 15: TỪ DƯỚI ĐẤT VỌT RA

Lúc bấy giờ chư đại Bồ-tát đã đến từ cõi nước phương khác, số lượng ấy vượt hơn số cát của tám sông Hằng, họ từ trong đại chúng đứng dậy, chắp tay đỉnh lễ và thưa với Phật rằng:

"Thưa Thế Tôn! Nếu Như Lai cho phép thì sau khi Phật diệt độ, chúng con sẽ ở tại Thế giới Kham Nhẫn, chuyên cần tinh tấn, hộ trì đọc tụng, biên chép cúng dường Kinh điển này, và sẽ ở cõi nước đây mà rộng thuyết giảng."

Khi ấy Phật bảo chư đại Bồ-tát:

"Thôi đừng, thiện nam tử! Ta không cần các ông hộ trì Kinh này.

Vì sao thế? Bởi Thế giới Kham Nhẫn của Ta đã có 60.000 Hằng Hà sa chư đại Bồ-tát. Mỗi vị Bồ-tát có 60.000 Hằng Hà sa quyến thuộc. Sau khi Ta diệt độ, những vị như thế sẽ hộ trì đọc tụng và rộng thuyết giảng Kinh này."

Khi Phật nói lời ấy xong, Tam Thiên Đại Thiên Quốc Độ của Thế giới Kham Nhẫn đều chấn động và mặt đất nứt ra. Ở trong đó có vô lượng nghìn vạn ức chư đại Bồ-tát đồng một lúc vọt ra. Thân của chư Bồ-tát này đều có màu vàng với 32 tướng và vô lượng quang minh.

Các ngài đã trú trong hư không ở phía dưới của Thế giới Kham Nhẫn. Khi nghe âm thanh của Đức Phật Năng Tịch, chư Bồ-tát này từ dưới đó vọt lên.

Mỗi vị Bồ-tát đều là bậc đạo sư thượng thủ của đại chúng. Có vị dẫn theo 60.000 Hằng Hà sa quyến thuộc. Có vị dẫn theo 50.000, 40.000, 30.000, 20.000, hay 10.000 Hằng Hà sa quyến thuộc. Lại có vị dẫn theo một Hằng Hà sa, nửa Hằng Hà sa, một phần tư, cho đến chỉ một phần của mười triệu ức nayuta [na du ta] của số lượng cát trong một sông Hằng.

Lại có vị dẫn theo mười triệu ức nayuta quyến thuộc. Lại có vị dẫn theo 100 triệu quyến thuộc. Lại có vị dẫn theo 10 triệu, 1 triệu, cho đến chỉ 10.000 quyến thuộc. Lại có vị dẫn theo 1.000, 100, cho đến chỉ 10 quyến thuộc. Lại có vị dẫn theo 5, 4, 3, 2, hay chỉ 1 đệ tử. Có vị chỉ đến một mình và thích sống hạnh viễn ly. Số lượng như thế nhiều vô lượng vô biên. Dẫu cho dùng toán số thí dụ thì cũng chẳng thể biết.

Khi chư Bồ-tát này đã từ dưới đất vọt ra, tất cả đều bay lên hư không để đến chỗ của Đa Bảo Như Lai và Đức Phật Năng Tịch đang ngồi tại tháp bảy báu vi diệu. Lúc đến nơi, họ hướng về nhị vị Thế Tôn, cúi đầu đỉnh lễ với trán chạm sát chân của Phật. Họ cũng đều đến chỗ của chư Phật đang ngồi trên tòa sư tử ở dưới các cây báu, rồi đỉnh lễ, nhiễu ba vòng bên phải, chắp tay cung kính, và tán thán chư Phật với muôn Pháp ngợi khen của chư Bồ-tát. Sau đó, họ đứng qua một bên và hân hoan chiêm ngưỡng hai vị Thế Tôn.

Từ lúc chư đại Bồ-tát này mới từ dưới đất vọt ra và cho đến khi họ tán thán chư Phật với muôn Pháp ngợi khen của chư Bồ-tát xong, thời gian trải qua như thế là 50 tiểu kiếp. Đương lúc ấy, Đức Phật Năng Tịch ngồi lặng yên và bốn chúng đệ tử cũng đều lặng yên suốt 50 tiểu kiếp. Do thần lực của Phật nên khiến các đại chúng tưởng chừng như nửa ngày.

Lúc bấy giờ, cũng do thần lực của Phật, bốn chúng đệ tử thấy chư Bồ-tát biến khắp hư không của vô lượng tỷ ức quốc độ. Trong số chư Bồ-tát này có bốn vị đạo sư.

- Vị thứ nhất tên là Thượng Hạnh.

- Vị thứ nhì tên là Vô Biên Hạnh.

- Vị thứ ba tên là Tịnh Hạnh.

- Vị thứ tư tên là An Lập Hạnh.

Bốn vị Bồ-tát này là những bậc tối thượng thủ và là bậc xướng đạo sư ở giữa đại chúng đó.

Các ngài ở trước đại chúng, mỗi vị đồng chắp tay, rồi quán Đức Phật Năng Tịch, và thăm hỏi rằng:

"Thế Tôn không có bệnh và không có phiền não chứ? Hạnh làm có an lạc chăng? Những ai nên độ có giáo hóa dễ dàng chăng? Họ không làm Thế Tôn mệt mỏi chứ?"

Lúc bấy giờ bốn vị đại Bồ-tát nói kệ rằng:

"Thế Tôn có an lạc

Không bệnh không phiền não

Việc giáo hóa chúng sinh

Không có mệt mỏi chứ?

Và còn các chúng sinh

Dạy bảo dễ dàng chăng?

Họ không làm Thế Tôn

Sinh tâm mệt mỏi chứ?"

Lúc bấy giờ ở giữa chư Bồ-tát đại chúng, Thế Tôn nói lời như vầy:

"Như thị, như thị, các thiện nam tử! Như Lai rất an lạc, không bệnh, và không có phiền não. Các chúng sinh cũng hóa độ dễ dàng và không làm Ta mệt mỏi.

Vì sao thế? Bởi những chúng sinh này, từ đời này sang đời khác, họ luôn được Ta giáo hóa. Ở nơi chư Phật quá khứ, họ cũng tôn kính cúng dường và gieo trồng mọi căn lành. Các chúng sinh đó, ngay từ lúc đầu tiên thấy và nghe Pháp của Ta, họ liền đều tín thọ và vào trí tuệ của Như Lai--ngoại trừ những ai đã tu tập và học Pháp Nhị Thừa trước. Những người như thế, Ta nay cũng khiến họ nghe được Kinh này và vào trí tuệ của Phật."

Lúc bấy giờ chư đại Bồ-tát nói kệ rằng:

"Thật lành thay lành thay

Bậc Đại Hùng Thế Tôn

Các chúng sinh như thế

Cũng hóa độ dễ dàng

Họ khéo hỏi chư Phật

Về trí tuệ thâm sâu

Nghe tin rồi hành trì

Chúng con thảy tùy hỷ"

Khi ấy Thế Tôn ngợi khen các thượng thủ của chư đại Bồ-tát kia rằng:

"Lành thay, lành thay, thiện nam tử! Các ông ở trước Như Lai mà có thể phát tâm tùy hỷ như thế."



Lúc bấy giờ Từ Thị Bồ-tát cùng với 8.000 Hằng Hà sa chư Bồ-tát đều nghĩ như vầy:

"Từ xưa đến nay, chúng ta chưa từng bao giờ thấy hoặc nghe về những vị đại Bồ-tát như thế. Họ từ dưới đất vọt ra, đứng ở trước Thế Tôn, chắp tay cúng dường, và vấn an Như Lai."

Lúc bấy giờ Từ Thị Đại Bồ-tát biết tâm niệm của 8.000 Hằng Hà sa chư Bồ-tát và cũng muốn giải đáp điều hoài nghi của chính mình, ngài chắp tay, rồi hướng về Đức Phật và dùng kệ hỏi rằng:

"Vô lượng nghìn vạn ức

Đại chúng chư Bồ-tát

Xưa nay chưa hề thấy

Mong Phật hãy tuyên nói

Họ từ nơi nào đến

Nhân duyên gì tụ hội?

Thân lớn đại thần thông

Trí tuệ chẳng nghĩ bàn

Chí niệm họ kiên cố

Có sức đại nhẫn nhục

Chúng sinh vui mừng thấy

Họ từ đâu đến đây?

Mỗi vị Bồ-tát đó

Dẫn theo hàng quyến thuộc

Số ấy vô hạn lượng

Nhiều như cát sông Hằng

Hoặc có đại Bồ-tát

Dẫn sáu vạn Hằng sa

Các đại chúng như thế

Nhất tâm cầu Phật Đạo

Các vị đại sư đó

Sáu vạn Hằng Hà sa

Đồng đến cúng dường Phật

Cùng hộ trì Kinh này

Dẫn năm vạn Hằng sa

Số ấy còn hơn đây

Bốn vạn hay ba vạn

Hai vạn đến một vạn

Một nghìn đến một trăm

Thậm chí một Hằng sa

Một nửa ba bốn phần

Một phần của ức vạn

Nghìn vạn nayuta

Vạn ức các đệ tử

Cho đến chỉ nửa ức

Số ấy còn hơn trên

Trăm vạn đến một vạn

Một nghìn hoặc một trăm

Năm mươi hay chỉ mười

Cho đến ba hai một

Đơn độc không quyến thuộc

Ưa thích ở một mình

Họ đồng đến chỗ Phật

Số ấy còn hơn trên

Các đại chúng như thế

Nếu có người tính đếm

Trọn cả Hằng sa kiếp

Cũng chẳng thể biết hết

Chư Bồ-tát này đây

Tinh tấn đại uy đức

Ai đã thuyết Pháp cho

Giáo hóa họ thành tựu?

Sơ phát tâm từ ai?

Tuyên dương Phật Pháp ai?

Thọ trì Kinh Pháp gì?

Tu tập Phật Đạo gì?

Chư Bồ-tát như thế

Thần thông đại trí lực

Bốn phương đất động nứt

Đều từ trong vọt ra

Thế Tôn con xưa nay

Chưa từng thấy việc này

Xin nói họ từ đâu

Quốc độ tên là gì

Con thường du các cõi

Nhưng chưa từng thấy qua

Con ở trong số họ

Một vị cũng chẳng biết

Bỗng từ đất vọt ra

Xin nói nhân duyên này

Nay ở đại hội đây

Vô lượng trăm nghìn ức

Tất cả chư Bồ-tát

Đều muốn biết việc này

Chư đại Bồ-tát đó

Nhân duyên mỗi từng vị

Thế Tôn vô lượng đức

Kính mong trừ chúng nghi"



Lúc bấy giờ, phân thân của Đức Phật Năng Tịch đã đến từ vô lượng nghìn vạn ức cõi nước phương khác, chư Phật đó ngồi xếp bằng với tư thế hoa sen trên tòa sư tử ở dưới các cây báu khắp tám phương. Khi thị giả của mỗi chư Phật đó thấy chư Bồ-tát này ở trong Tam Thiên Đại Thiên Thế Giới của bốn phương từ dưới đất vọt ra và trụ ở hư không.

Họ đều thưa với Đức Phật của mình rằng:

"Bạch Thế Tôn! Vô lượng vô biên vô số chư Bồ-tát đại chúng này là từ đâu đến?"

Khi ấy, mỗi chư Phật đều bảo thị giả rằng:

"Các thiện nam tử! Hãy đợi một lát thì sẽ có một vị đại Bồ-tát tên là Từ Thị. Ngài đã được Đức Phật Năng Tịch thọ ký kế đến sẽ làm Phật. Khi ngài đã hỏi về việc ấy, Đức Phật đó sẽ trả lời. Do nhân này mà các ông cũng sẽ được nghe."

Khi ấy Đức Phật Năng Tịch bảo Từ Thị Đại Bồ-tát:

"Lành thay, lành thay, Vô Năng Thắng! Ông khéo có thể hỏi Phật về một việc lớn như thế. Các ông phải đồng nhất tâm, mặc áo giáp tinh tấn và phát tâm kiên cố. Nay Như Lai muốn hiển thị và tuyên dương trí tuệ của chư Phật, sức tự tại thần thông của chư Phật, sức sư tử phấn tấn của chư Phật, và sức uy mãnh đại thế của chư Phật."

Lúc bấy giờ Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa lý ở trên nên nói kệ rằng:

"Phải tinh tấn nhất tâm

Ta muốn nói việc này

Chớ nghi ngờ hối tiếc

Phật trí chẳng nghĩ bàn

Giờ ông khởi tín lực

Trụ trong nhẫn nhục lành

Pháp này chưa hề nghe

Nay đều sẽ được nghe

Ta nay an ủi ông

Chớ hoài nghi sợ hãi

Lời Phật chẳng hư vọng

Trí tuệ chẳng thể lường

Chứng đắc Pháp đệ nhất

Thâm sâu chẳng nghĩ bàn

Thế nên giờ sẽ nói

Các ông chú tâm nghe"



Khi nói kệ này xong, Thế Tôn bảo Từ Thị Bồ-tát rằng:

"Ta nay ở giữa đại chúng mà tuyên cáo việc này đến các ông.

Này Vô Năng Thắng! Vô lượng vô biên vô số chư đại Bồ-tát từ dưới đất vọt ra mà xưa nay các ông chưa từng thấy qua đó, sau khi Ta đắc Vô Thượng Chính Đẳng Chính Giác ở Thế giới Kham Nhẫn này đây, chư Bồ-tát ấy đều do Ta giáo hóa khai đạo. Như Lai điều phục tâm họ và khiến họ phát khởi Phật Đạo. Chư Bồ-tát này đều trú trong hư không ở bên dưới của Thế giới Kham Nhẫn. Đối với các Kinh điển, họ đọc tụng rành rẽ, phân biệt nghĩa lý, và chính niệm tư duy.

Này Vô Năng Thắng! Hết thảy các thiện nam tử đó, họ đều không thích ở nơi náo nhiệt hay đàm luận nói nhiều. Họ luôn thích nơi yên tĩnh và tinh tấn tu hành mà chưa hề thôi nghỉ. Họ cũng không cư trú chung với trời hay người. Họ luôn yêu mến trí tuệ thâm sâu và không có sự chướng ngại. Họ cũng luôn yêu mến Pháp của chư Phật. Với nhất tâm tinh tấn, họ cầu trí tuệ vô thượng."

Lúc bấy giờ Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa lý ở trên nên nói kệ rằng:

"Từ Thị ông nên biết

Chư đại Bồ-tát này

Vô số kiếp đến nay

Tu hành trí của Phật

Thảy do Ta giáo hóa

Khiến phát Đại Đạo tâm

Họ là đệ tử Ta

Trú ở thế giới này

Thường luôn tu khổ hạnh

Chỉ thích nơi yên tĩnh

Xa đám đông huyên náo

Không thích nói chuyện nhiều

Các đệ tử như thế

Học tập Đạo Pháp Ta

Ngày đêm luôn tinh tấn

Là vì cầu Phật Đạo

Trú hư không bên dưới

Của Thế giới Kham Nhẫn

Chí niệm lực kiên cố

Luôn siêng cầu trí tuệ

Thuyết giảng muôn diệu Pháp

Tâm họ không sợ hãi

Ta ở thành Tượng Đầu

Ngồi dưới cội Đạo thụ

Được thành Tối Chính Giác

Chuyển Pháp luân vô thượng

Rồi mới giáo hóa họ

Khiến sơ phát Đạo tâm

Nay đều không thoái chuyển

Vị lai sẽ thành Phật

Ta nay nói lời thật

Các ông hết lòng tin

Ta từ thuở xa xưa

Đã giáo hóa họ rồi"



Lúc bấy giờ trong lòng của Từ Thị Đại Bồ-tát cùng vô số chư Bồ-tát khởi lên sự hoài nghi quái lạ chưa từng có.

Họ suy nghĩ rằng:

"Làm sao Thế Tôn chỉ ở trong một thời gian ngắn mà đã giáo hóa vô lượng vô biên vô số chư đại Bồ-tát và khiến họ trụ nơi Vô Thượng Chính Đẳng Chính Giác như thế?"

Liền bạch Phật rằng:

"Bạch Thế Tôn! Lúc Như Lai làm thái tử, ngài rời vương cung thuộc dòng tộc Năng Nhân, rồi đi đến một nơi cách thành Tượng Đầu không xa, ngồi ở Đạo Tràng và đắc Vô Thượng Chính Đẳng Chính Giác. Thời gian đó đến nay chỉ mới hơn 40 năm.

Bạch Thế Tôn! Làm sao chỉ ở trong một thời gian ngắn mà có thể làm đại Phật sự như thế, Ngài đã dùng uy lực cùng công đức gì của Phật để giáo hóa vô lượng chư đại Bồ-tát và khiến họ sẽ thành Vô Thượng Chính Đẳng Chính Giác?

Bạch Thế Tôn! Giả sử có người tính đếm số lượng của chư đại Bồ-tát này trong nghìn vạn ức kiếp thì cũng chẳng thể cùng tận hay biết được giới hạn. Từ lâu xa đến nay, họ đã ở nơi của vô lượng vô biên chư Phật gieo trồng mọi căn lành, thành tựu Đạo Bồ-tát, và luôn tu tịnh hạnh.

Bạch Thế Tôn! Việc như thế này, người thế gian thật khó mà tin được. Đây ví như có một người 25 tuổi với mái tóc đen và nét mặt thanh tú.

Người ấy chỉ vào một người 100 tuổi và bảo rằng:

"Đây là con tôi."

Người 100 tuổi kia cũng chỉ vào người trẻ tuổi đó và bảo rằng:

"Đây là cha tôi, người đã có ơn sinh thành dưỡng dục chúng tôi."

Việc như thế rất khó tin. Phật cũng như vậy. Từ khi Như Lai đắc Đạo đến nay, thời gian đó thật chẳng bao lâu. Còn chư đại Bồ-tát này vì cầu Phật Đạo, họ đã tinh tấn tu hành trong vô lượng nghìn vạn ức kiếp, khéo nhập định, xuất định, và trụ vô lượng tỷ ức chính định. Họ đắc đại thần thông, từ lâu tu tịnh hạnh, khéo có thể tu tập thứ tự các Pháp lành, và thiện xảo trong việc hỏi đáp. Họ là những viên minh châu giữa hàng người và rất quý hiếm trong tất cả thế gian. Nhưng hôm nay, Thế Tôn bảo là chỉ khi nào Phật đắc Đạo, thì mới có thể khiến họ sơ phát tâm, giáo hóa khai đạo và dẫn họ đến Vô Thượng Chính Đẳng Chính Giác.

Thời gian Thế Tôn thành Phật chưa lâu lắm, sao Ngài lại có thể làm việc công đức to lớn như thế! Chúng con hết mực thâm tín vào sự tùy nghi thuyết Pháp của Phật. Lời của Phật nói ra chưa bao giờ hư dối. Sự hiểu biết của Phật thảy đều thông đạt. Tuy nhiên, sau khi Phật diệt độ, nếu các vị sơ phát tâm Bồ-tát nghe lời nói đây, họ có thể không tín thọ và sẽ nảy sinh nhân duyên về nghiệp tội phá hoại Đạo Pháp.

Kính mong Thế Tôn hãy thuyết giảng để đoạn trừ hoài nghi của chúng con cùng các thiện nam tử ở vào đời vị lai. Khi đã nghe việc này, họ cũng sẽ không sinh lòng hoài nghi."

Lúc bấy giờ Từ Thị Bồ-tát muốn tuyên lại nghĩa lý ở trên nên nói kệ rằng:

"Xưa Phật từ trong tộc Năng Nhân

Xuất gia ở gần thành Tượng Đầu

Đi đến ngồi dưới cội Đạo thụ

Từ đó đến nay chưa lâu lắm

Hết thảy Phật tử đó

Số ấy chẳng thể lường

Đã lâu hành Phật Đạo

Trụ nơi sức thần thông

Khéo học Đạo Bồ-tát

Chẳng nhiễm pháp thế gian

Như hoa sen trên nước

Từ dưới đất vọt ra

Đều khởi lòng cung kính

Đứng ở trước Thế Tôn

Việc này chẳng nghĩ bàn

Làm sao mà tin được?

Phật đắc Đạo gần đây

Nhưng thành tựu rất nhiều

Xin nguyện trừ chúng nghi

Phân biệt nói sự thật

Ví như có người trẻ

Tuổi mới hai mươi lăm

Chỉ vào người trăm tuổi

Tóc bạc mặt nhăn nheo

Bảo đây là con tôi

Con cũng bảo là cha

Cha trẻ nhưng con già

Thế gian khó mà tin

Thế Tôn cũng như vậy

Đắc Đạo mới gần đây

Còn chư Bồ-tát đó

Vững chí chẳng khϊếp nhược

Vô lượng kiếp đến nay

Tu hành Đạo Bồ-tát

Thiện xảo việc hỏi đáp

Tâm họ không sợ hãi

Nhẫn nhục lòng kiên định

Đoan chính có uy đức

Mười phương Phật đều khen

Khéo phân biệt giảng giải

Chẳng ưa nơi đông người

Luôn thích trong thiền định

Vì chí cầu Phật Đạo

Ở hư không phía dưới

Chúng con nghe từ Phật

Việc này chẳng hoài nghi

Nguyện Phật vì vị lai

Diễn nói khiến họ hiểu

Nếu ai với Kinh này

Sinh lòng nghi chẳng tin

Tức sẽ đọa đường ác

Nay mong Phật hãy nói

Vô lượng Bồ-tát đó

Làm sao thời gian ngắn

Giáo hóa khiến phát tâm

Mà trụ không thoái chuyển"

☸ PHẨM 16: THỌ LƯỢNG CỦA NHƯ LAI

Lúc bấy giờ Phật bảo chư Bồ-tát cùng toàn thể đại chúng:

"Các thiện nam tử! Các ông nên tín thọ và liễu giải lời thành thật của Như Lai."

Lại bảo các đại chúng rằng:

"Các ông nên tín thọ và liễu giải lời thành thật của Như Lai."

Lại bảo các đại chúng thêm một lần nữa:

"Các ông nên tín thọ và liễu giải lời thành thật của Như Lai."

Ngay lúc ấy, chư Bồ-tát trong Pháp hội với ngài Từ Thị làm thượng thủ, chắp tay và thưa với Phật rằng:

"Thưa Thế Tôn! Kính mong hãy nói. Chúng con sẽ tín thọ lời Phật dạy."

Họ thưa như vậy ba lần, rồi lại thưa rằng:

"Kính mong hãy nói. Chúng con sẽ tín thọ lời Phật dạy."



Lúc bấy giờ Thế Tôn biết chư Bồ-tát sẽ không ngừng lại với ba lần thỉnh cầu thôi, nên Ngài bảo rằng:

"Các ông hãy lắng nghe về sức thần thông bí mật của Như Lai. Tất cả trời người cùng phi thiên trong thế gian, đều cho là ngày nay Đức Phật Năng Tịch mới rời vương cung thuộc dòng tộc Năng Nhân, rồi đi đến một nơi cách thành Tượng Đầu không xa, ngồi ở Đạo Tràng và đắc Vô Thượng Chính Đẳng Chính Giác.

Tuy nhiên, thiện nam tử! Thật ra Ta đã thành Phật từ vô lượng vô biên tỷ ức nayuta kiếp về trước.

Giả sử có một người nghiền nát năm tỷ ức nayuta vô số Tam Thiên Đại Thiên Thế Giới thành những hạt vi trần. Rồi giả như người ấy đi qua năm tỷ ức nayuta vô số quốc độ ở phương đông và bỏ xuống một hạt vi trần. Người đó cứ tiếp tục đi về hướng đông như thế cho đến khi đã bỏ xuống hết những vi trần ấy.

Các thiện nam tử! Ý các ông nghĩ sao? Có thể nào tính đếm và biết được số lượng của các thế giới đó không?"

Từ Thị Bồ-tát và những vị khác đồng thưa với Phật rằng:

"Thưa Thế Tôn! Các thế giới đó là vô lượng vô biên, không thể dùng toán số hay tâm lực mà biết được. Dẫu cho hết thảy Thanh Văn cùng Độc Giác dùng trí vô lậu để tư duy, thì cũng chẳng thể nào biết được giới hạn của số đó. Chúng con trụ ở quả vị không thoái chuyển, nhưng cũng chẳng thể thông đạt việc này.

Thưa Thế Tôn! Các thế giới như thế là vô lượng vô biên."

Lúc bấy giờ Phật bảo chư đại Bồ-tát:

"Các thiện nam tử! Ta bây giờ sẽ giải thích tường tận cho các ông. Các thế giới đó, dẫu có một hạt vi trần bỏ xuống hay không, thì cũng mang đi nghiền nát hết ra thành những hạt vi trần, rồi cứ tính mỗi vi trần làm thành một kiếp. Thời gian Ta đã thành Phật đến nay còn vượt hơn số đó đến cả tỷ ức nayuta vô số kiếp.

Kể từ đó đến nay, Ta luôn ở tại Thế giới Kham Nhẫn thuyết Pháp và giáo hóa chúng sinh. Cũng như khai đạo và làm lợi ích cho chúng sinh trong tỷ ức nayuta vô số cõi nước phương khác.

Các thiện nam tử! Ở trong thời gian đó, Ta nói về Đức Phật Nhiên Đăng và chư Phật khác. Ta lại nói rằng chư Phật đó vào tịch diệt. Nhưng các việc như thế đều là dùng phương tiện để phân biệt.



Các thiện nam tử! Nếu có chúng sinh nào đến chỗ của Ta, Ta sẽ dùng Phật nhãn quán sát tín tâm của họ, các căn tính lợi độn và những phẩm tính khác, rồi Ta mới tùy cơ hóa độ. Ở tùy theo mỗi nơi mà Ta thuyết Pháp, danh xưng của Ta không giống nhau, tuổi tác của Ta hoặc lớn hay nhỏ. Ta cũng lại thị hiện nói là sẽ vào tịch diệt. Lại cũng dùng đủ mọi phương tiện để thuyết diệu Pháp và khiến chúng sinh khởi lòng hoan hỷ.

Các thiện nam tử! Như Lai thấy các chúng sinh thích nơi Pháp nhỏ nên Ta vì những kẻ đức mỏng nghiệp nặng mà nói với họ rằng:

"Lúc trẻ, ta đã xuất gia và đắc Vô Thượng Chính Đẳng Chính Giác."

Kỳ thật thì từ xa xưa Ta đã thành Phật rồi. Ta chỉ vì giáo chúng sinh mà dùng phương tiện và khiến họ vào Phật Đạo nên mới nói như thế.

Các thiện nam tử! Kinh điển do Như Lai diễn nói đều là để độ thoát chúng sinh. Hoặc Như Lai dùng chính thân mình để thuyết giảng, hay dùng thân người khác để thuyết giảng. Hoặc Như Lai dùng chính thân mình để thị hiện, hay dùng thân người khác để thị hiện. Hoặc Như Lai dùng việc của chính mình để hiển thị, hay dùng việc của người khác để hiển thị. Tất cả lời nói đều là chân thật bất hư.

Vì sao thế? Bởi Như Lai biết và thấy tướng như thật của ba cõi. Không sinh không chết, không thoái không tiến, cũng không tại thế hay diệt độ. Không thật cũng không hư, không như như cũng không sai khác. Như Lai thấy ba cõi như chẳng phải ba cõi. Các việc như thế, Như Lai thấy rõ ràng và chẳng có sai lầm.

Do các chúng sinh có muôn loại chủng tính, muôn điều mong muốn, muôn thứ hành nghiệp, cùng muôn sự tưởng nhớ và phân biệt, vì muốn khiến họ sinh các thiện căn nên Như Lai dùng mọi nhân duyên và thí dụ ngôn từ cùng đủ mọi cách thuyết Pháp để làm Phật sự mà chưa hề tạm lãng quên.

Vì thế, tính từ lúc Ta thành Phật ở thuở rất xa xưa về trước, thọ mạng của Ta là vô lượng vô số kiếp và thường trụ bất diệt.

Các thiện nam tử! Khi Ta tu hành Đạo Bồ-tát thuở trước, thọ mạng đó đến nay vẫn chưa chấm dứt và còn gấp bội hơn số trên.

Tuy nhiên, Ta nay chẳng phải thật diệt độ nhưng lại nói rằng:

"Ta sẽ diệt độ."

Như Lai dùng phương tiện ấy là để giáo hóa chúng sinh.

Vì sao thế? Bởi nếu Phật trụ lâu ở thế gian thì những người đức mỏng sẽ không gieo trồng căn lành. Những kẻ bần cùng hạ tiện, những kẻ tham trước năm dục, và những kẻ đã rơi vào lưới tà kiến, nếu thấy Như Lai thường trụ bất diệt thì họ sẽ kiêu mạn, phóng túng, nhàm chán, và lười biếng. Họ sẽ chẳng thể sinh lòng cung kính và nghĩ tưởng là rất khó mà gặp được Phật.

Thế nên Như Lai dùng phương tiện mà nói rằng:

"Này các Bhikṣu! Nên biết rằng, chư Phật xuất hiện ở thế gian rất khó gặp được."

Vì sao thế? Bởi những người đức mỏng trải qua vô lượng tỷ ức kiếp, trong thời gian đó họ có thể gặp hay chẳng thể gặp Phật.

Vì lẽ đó cho nên Ta nói lời như vầy:

"Này các Bhikṣu! Như Lai rất khó gặp được."

Khi nghe lời nói như thế, các chúng sinh ấy tất sẽ nghĩ tưởng là rất khó mà gặp được Phật, nên lòng họ sinh quyến luyến, khát ngưỡng quý mến, và sẽ gieo trồng căn lành. Vì thế, tuy Như Lai thật chẳng diệt độ mà nói là diệt độ.

Lại nữa, các thiện nam tử! Pháp của chư Phật Như Lai đều như thế, là vì để cứu độ chúng sinh và đều chân thật bất hư.



Đây ví như có một vị lương y với trí tuệ thông đạt, chế thuốc tinh luyện và khéo chữa trị mọi chứng bệnh. Người này có rất nhiều con cái--hoặc là 10, 20 hay cho đến 100 đứa. Do có công việc nên người cha phải đi xa đến nước khác. Sau đó, các con ở nhà đã uống phải thuốc độc, khiến họ điên loạn và lăn lộn trên đất.

Đúng lúc ấy thì người cha trở về nhà. Do các con đã uống thuốc độc nên có đứa đã mất đi bổn tâm, có đứa thì vẫn chưa. Khi trông thấy người cha từ xa, họ đều vui mừng khôn xiết.

Họ quỳ xuống và thưa với cha rằng:

"Cha đã trở về bình an, thiệt là tốt quá. Chúng con do bởi ngu si nên đã uống nhầm thuốc độc, xin cha hãy chữa trị và cứu vớt tính mạng của chúng con."

Thấy các con mình bị khổ não như thế, người cha căn cứ theo sách y dược mà đi tìm các dược thảo tốt với sắc hương mỹ vị đều có đầy đủ. Sau đó, người cha giã, sàng, và trộn các phương thuốc, rồi đưa cho các con.

Ngài nói lời như vầy:

"Lương dược này rất tốt, sắc hương mỹ vị đều có đầy đủ. Nếu các con lấy uống thì khổ não sẽ nhanh tiêu trừ và chẳng còn hoạn nạn."

Trong số các con của ông, có đứa vẫn chưa mất đi tâm tính nên khi thấy lương dược với màu đẹp hương thơm, chúng liền lấy uống nên hoàn toàn bình phục. Có đứa đã mất đi bổn tâm, tuy cũng mừng rỡ khi thấy cha về và xin cha trị bệnh, nhưng chúng lại không chịu dùng thuốc này.

Vì sao thế? Bởi độc khí đã thâm nhập nên chúng mất đi bổn tâm. Đối với thuốc có màu đẹp với hương thơm thì chúng cho là không tốt.

Người cha liền nghĩ:

"Các đứa con này thật đáng thương! Bị trúng phải độc nên toàn tâm điên đảo. Tuy vui mừng khi thấy ta và cầu xin cứu chữa, nhưng đối với phương thuốc hay lại chẳng chịu dùng. Ta nay phải thiết lập phương tiện để khiến chúng dùng thuốc này."

Ông liền nói lời như sau:

"Các con nên biết rằng, nay cha đã già yếu và cái chết cận kề. Giờ ta để lại lương dược này ở đây, các con hãy lấy dùng và đừng lo là bệnh sẽ không lành."

Căn dặn như vậy xong, người cha liền đi đến nước khác và sai người về nhắn tin rằng:

"Cha của các người đã chết."

Khi các đứa con nghe tin cha đã qua đời, lòng họ sầu khổ thảm thiết và nghĩ rằng:

"Nếu phụ thân còn ở đây, cha sẽ từ mẫn và có thể cứu hộ chúng ta. Giờ thì phụ thân đã bỏ lại chúng ta mà chết nơi tha phương, đám cô nhi chúng ta phải biết cậy nương nơi nào!"

Trong lòng chúng luôn bùi ngùi thương cảm nhớ nhung, họ liền sực nhớ đến toa thuốc sắc hương mỹ vị của cha để lại, nên lập tức lấy dùng và độc bệnh liền trừ sạch. Khi nghe các con đã hoàn toàn lành bệnh, người cha vội quay về và họ đều trông thấy cha mình.

Các thiện nam tử! Ý các ông nghĩ sao? Có ai sẽ bảo rằng vị lương y này đã phạm tội nói dối không?"

"Dạ không, thưa Thế Tôn!"

Đức Phật bảo:

"Như Lai cũng lại như vậy. Ta đã thành Phật từ vô lượng vô biên tỷ ức nayuta kiếp về trước. Vì chúng sinh nên mới dùng sức phương tiện mà nói là sẽ diệt độ. Cũng không ai có thể bảo rằng, lời thuyết Pháp của Ta như thế là nói dối."



Lúc bấy giờ Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa lý ở trên nên nói kệ rằng:

"Từ khi Ta thành Phật

Số kiếp đã trải qua

Vô lượng tỷ ức năm

Vô số chẳng kể xiết

Luôn thuyết Pháp giáo hóa

Vô số ức chúng sinh

Khiến vào trong Phật Đạo



Trải qua vô lượng kiếp

Vì hóa độ chúng sinh

Phương tiện hiện tịch diệt

Nhưng thật chẳng diệt độ

Thường trụ thuyết giảng Pháp

Thường trụ ở nơi đây

Dùng các sức thần thông

Khiến điên đảo chúng sinh

Tuy gần mà chẳng thấy

Họ thấy Ta diệt độ

Rộng cúng dường xá-lợi

Đều quyến luyến nhớ thương

Mà sinh lòng khát ngưỡng

Chúng sinh sẽ tín thọ

Nhu hòa ý ngay thẳng

Nhất tâm muốn thấy Phật

Thân mạng chẳng luyến tiếc

Khi đó Ta cùng Tăng

Đều ở núi Thứu Phong

Lúc đó Ta bảo họ

"Luôn ở đây chẳng diệt"

Do dùng sức phương tiện

Hiện diệt và không diệt

Cõi khác có chúng sinh

Kính tin lòng mong mỏi

Lại ở cõi nước kia

Ta thuyết Pháp vô thượng

Nhưng các ông chẳng nghe

Nghĩ Ta đã diệt độ

Ta thấy các chúng sinh

Đắm chìm trong khổ não

Ta không vội hiện thân

Khiến họ sinh khát ngưỡng

Khi lòng họ quyến luyến

Mới xuất hiện thuyết Pháp

Sức thần thông như thế

Cho đến vô số kiếp

Luôn ở núi Thứu Phong

Cùng những trú xứ khác

Chúng sinh thấy kiếp tận

Bị lửa lớn thiêu đốt

Cõi nước Ta an ổn

Trời người luôn đầy khắp

Viên lâm những lầu các

Muôn châu báu trang nghiêm

Cây báu nhiều hoa quả

Nơi chúng sinh vui chơi

Chư thiên đánh trống trời

Thường trỗi các âm nhạc

Mưa hoa vi diệu âm

Rải Phật cùng đại chúng

Tịnh độ Ta chẳng hủy

Nhưng họ thấy thiêu sạch

Lo sợ với khổ não

Như thế thảy đầy khắp

Chúng sinh nghiệp tội đó

Do nghiệp ác nhân duyên

Suốt cả vô số kiếp

Không nghe tên Tam Bảo

Những ai tu công đức

Nhu hòa lòng ngay thẳng

Họ đều thấy thân Ta

Ở nơi đây thuyết Pháp

Có lúc vì đại chúng

Nói Phật thọ vô lượng

Rất lâu mới thấy Phật

Nói Phật rất khó gặp

Trí lực Ta như thế

Tuệ quang chiếu vô lượng

Thọ mạng vô số kiếp

Từ lâu đã tu chứng

Các ông ai có trí

Việc này chớ sinh nghi

Đoạn trừ sạch vĩnh viễn

Lời Phật tuyệt chẳng hư

Như thầy thuốc phương tiện

Vì chữa trị cuồng tử

Còn sống mà bảo chết

Chẳng thể nói hư vọng

Như người cha thế gian

Ta cứu khổ trừ hoạn

Vì phàm phu điên đảo

Vẫn còn nhưng nói diệt

Nếu họ thường thấy Ta

Lười biếng lòng kiêu căng

Buông lung tham năm dục

Sẽ đọa trong đường ác

Ta biết rõ chúng sinh

Hành Đạo chẳng hành Đạo

Tùy căn cơ hóa độ

Mà nói đủ mọi Pháp

Ta luôn nghĩ như vầy

"Làm sao khiến chúng sinh

Được vào vô thượng trí

Nhanh thành tựu thân Phật?""

☸ PHẨM 17: PHÂN BIỆT CÔNG ĐỨC

Khi đại chúng nghe Phật nói về số kiếp thọ mạng lâu dài như thế, lúc đó có vô lượng vô biên vô số chúng sinh được sự lợi ích lớn.

Khi ấy Thế Tôn bảo Từ Thị Đại Bồ-tát:

"Này Vô Năng Thắng! Khi Ta nói về thọ mạng lâu dài của Như Lai, lúc ấy có 6,8 triệu ức nayuta Hằng Hà sa chúng sinh đắc Vô Sinh Pháp Nhẫn.

Lại có số lượng chư đại Bồ-tát gấp 1.000 lần số trên đắc môn Văn Trì Tổng Trì.

Lại có số lượng chư đại Bồ-tát bằng số vi trần của một thế giới đắc Nhạo Thuyết Vô Ngại Biện Tài.

Lại có số lượng chư đại Bồ-tát bằng số vi trần của một thế giới đắc Bách Thiên Vạn Ức Vô Lượng Toàn Tổng Trì.

Lại có số lượng chư đại Bồ-tát bằng số vi trần của một Tam Thiên Đại Thiên Thế Giới có thể chuyển Pháp luân không thoái chuyển.

Lại có số lượng chư đại Bồ-tát bằng số vi trần của một trung thiên thế giới có thể chuyển thanh tịnh Pháp luân.

Lại có số lượng chư đại Bồ-tát bằng số vi trần của một tiểu thiên thế giới sẽ đắc Vô Thượng Chính Đẳng Chính Giác, sau tám lần sinh nữa.

Lại có số lượng chư đại Bồ-tát bằng số vi trần gấp bốn lần của một tứ thiên hạ sẽ đắc Vô Thượng Chính Đẳng Chính Giác, sau bốn lần sinh nữa.

Lại có số lượng chư đại Bồ-tát bằng số vi trần gấp ba lần của một tứ thiên hạ sẽ đắc Vô Thượng Chính Đẳng Chính Giác, sau ba lần sinh nữa.

Lại có số lượng chư đại Bồ-tát bằng số vi trần gấp hai lần của một tứ thiên hạ sẽ đắc Vô Thượng Chính Đẳng Chính Giác, sau hai lần sinh nữa.

Lại có số lượng chư đại Bồ-tát bằng số vi trần của một tứ thiên hạ sẽ đắc Vô Thượng Chính Đẳng Chính Giác, sau một lần sinh nữa.

Lại có số lượng chúng sinh bằng số vi trần của tám thế giới đều phát tâm Vô Thượng Chính Đẳng Chính Giác."

Khi Phật nói về các sự lợi ích to lớn nơi Pháp mà chư đại Bồ-tát đã chứng đắc, lúc đó ở trong hư không mưa xuống hoa vi diệu âm và hoa vi diệu âm lớn. Hoa rơi xuống chỗ của vô lượng tỷ ức chư Phật đang ngồi trên tòa sư tử ở dưới cây báu. Ở trong tháp bảy báu, hoa cũng rơi lên Đức Phật Năng Tịch đang ngồi trên tòa sư tử và Đức Phật Đa Bảo đã diệt độ từ lâu. Hoa cũng rơi lên tất cả chư đại Bồ-tát và bốn chúng đệ tử.

Lại mưa xuống bột hương đàn mịn nhỏ, hương trầm thủy và những loại hương khác. Ở trong hư không, tự nhiên có trống trời trỗi lên và diệu âm của chúng vang xa thăm thẳm.

Lại mưa xuống 1.000 loại thiên y được kết bằng các xâu chuỗi anh lạc, như là: trân châu anh lạc, như ý châu anh lạc, và như ý anh lạc. Ở khắp chín phương, có nhiều loại lư hương báu với những nén hương vô giá được đốt lên. Mùi hương tự nhiên lan tỏa biến khắp đại hội để cúng dường.

Ở phía trên của mỗi Đức Phật có chư Bồ-tát cầm tràng phan và lọng che. Họ đứng hầu ở bên trên và trải dài theo thứ tự đến tận cõi Phạm Thiên. Với thanh âm vi diệu, chư Bồ-tát này ca vịnh vô lượng bài kệ để tán thán chư Phật.



Lúc bấy giờ Từ Thị Bồ-tát từ chỗ ngồi đứng dậy, vén áo lộ vai phải, chắp tay hướng Phật và nói kệ rằng:

"Phật thuyết Pháp hiếm có

Xưa chưa hề nghe qua

Thế Tôn có đại lực

Thọ mạng chẳng thể lường

Vô số các Phật tử

Nghe Thế Tôn phân biệt

Nói ai đắc Pháp gì

Khắp toàn thân hoan hỷ

Hoặc trụ không thoái chuyển

Hoặc chứng đắc tổng trì

Hoặc Nhạo Thuyết Vô Ngại

Vạn Ức Toàn Tổng Trì

Hoặc có Đại Thiên Giới

Vi trần số Bồ-tát

Mỗi vị đều có thể

Lăn chuyển Chính Pháp luân

Lại có trung thiên giới

Vi trần số Bồ-tát

Mỗi vị đều có thể

Chuyển thanh tịnh Pháp luân

Lại có tiểu thiên giới

Vi trần số Bồ-tát

Sau tám lần sinh nữa

Sẽ được thành Phật Đạo

Lại có bốn ba hai

Gấp một tứ thiên hạ

Vi trần số Bồ-tát

Tùy lần sinh thành Phật

Hoặc một tứ thiên hạ

Vi trần số Bồ-tát

Sau một lần sinh nữa

Sẽ thành Nhất Thiết Trí

Các chúng sinh như thế

Nghe Phật thọ dài lâu

Được vô lượng vô lậu

Cùng quả báo thanh tịnh

Lại có tám thế giới

Vi trần số chúng sinh

Nghe Phật nói thọ mạng

Đều phát tâm vô thượng

Thế Tôn thuyết vô lượng

Pháp chẳng thể nghĩ bàn

Mang đến nhiều lợi ích

Vô biên như hư không

Mưa hoa vi diệu âm

Hoa vi diệu âm lớn

Chư thiên như Hằng sa

Vô số cõi Phật đến

Mưa hương đàn trầm thủy

Rơi rực rỡ len lỏi

Như chim bay hạ xuống

Rải cúng dường chư Phật

Trống trời trong hư không

Tự nhiên vang diệu âm

Thiên y nghìn vạn loại

Xoay lượn rơi nhẹ xuống

Lư hương vi diệu báu

Đốt lên hương vô giá

Tự nhiên lan tỏa khắp

Cúng dường chư Thế Tôn

Chư đại Bồ-tát đó

Cầm phan lọng bảy báu

Cao đẹp vạn ức loại

Thứ tự đến Phạm Thiên

Ở mỗi trước chư Phật

Treo tràng báu thắng phan

Cũng dùng nghìn vạn kệ

Ca vịnh chư Như Lai

Muôn thứ việc như thế

Xưa nay chưa từng có

Nghe Phật thọ vô lượng

Hết thảy đều hoan hỷ

Phật danh thấu mười phương

Rộng lợi ích chúng sinh

Đầy đủ mọi căn lành

Giúp phát tâm vô thượng"



Lúc bấy giờ Phật bảo Từ Thị Đại Bồ-tát:

"Này Vô Năng Thắng! Nếu có chúng sinh nào nghe về thọ mạng lâu dài của Phật như thế, thậm chí như có thể sinh một niệm tín giải thì công đức đạt được sẽ không có hạn lượng.

Nếu có thiện nam tử hoặc thiện nữ nhân nào vì Vô Thượng Chính Đẳng Chính Giác, ngoại trừ Diệu Tuệ Độ, họ tu hành năm Pháp Đến Bờ Kia, như là: Bố Thí Độ, Trì Giới Độ, Nhẫn Nhục Độ, Tinh Tấn Độ, và Thiền Định Độ suốt 800.000 ức nayuta kiếp. Công đức ở trước mà so với công đức này thì một phần trăm, một phần nghìn, một phần của tỷ ức cũng không bằng một, cho đến dùng toán số thí dụ cũng chẳng thể biết.

Nếu thiện nam tử hoặc thiện nữ nhân nào có được công đức dường ấy mà sẽ thoái chuyển nơi Vô Thượng Chính Đẳng Chính Giác, thì quyết không thể có việc đó."

Lúc bấy giờ Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa lý ở trên nên nói kệ rằng:

"Nếu ai cầu Phật trí

Suốt tám mươi vạn ức

Nayuta [na du ta] kiếp tu

Năm Pháp Đến Bờ Kia

Ở trong các kiếp này

Bố thí cúng dường Phật

Hàng đệ tử Duyên Giác

Và cùng chư Bồ-tát

Ẩm thực ngon lạ hiếm

Giường nệm y phục đẹp

Xây tinh xá hương đàn

Với viên lâm trang nghiêm

Sự bố thí như thế

Muôn thứ đều vi diệu

Đến trọn số kiếp đó

Hồi hướng về Phật Đạo

Nếu lại trì giới cấm

Thanh tịnh chẳng khiếm khuyết

Chí cầu Đạo vô thượng

Chư Phật đều ngợi khen

Nếu lại hành nhẫn nhục

Trụ ở địa điều nhu

Dẫu kẻ ác đến phá

Tâm họ chẳng động dao

Có những người đắc Pháp

Ôm lòng tăng thượng mạn

Khinh khi não hại họ

Như thế cũng đều nhẫn

Nếu lại siêng tinh tấn

Chí niệm luôn kiên cố

Trong vô lượng ức kiếp

Nhất tâm chẳng biếng lười

Lại ở vô số kiếp

Trú ở nơi hoang vắng

Hoặc ngồi hay kinh hành

Quên ngủ luôn nhϊếp tâm

Do bởi nhân duyên đó

Có thể sinh thiền định

Tám mươi ức vạn kiếp

An trụ tâm bất loạn

Với nhất tâm phúc đó

Nguyện cầu Đạo vô thượng

"Nguyện đắc Nhất Thiết Trí

Thông đạt mọi thiền định"

Người ấy sẽ ở trong

Suốt một tỷ ức kiếp

Tu các công đức đó

Như đã nói ở trên

Có thiện nam tín nữ

Nghe Ta nói thọ mạng

Dẫu chỉ một niệm tin

Phúc ấy hơn người kia

Nếu ai thảy chẳng còn

Mọi nghi ngờ hối tiếc

Lòng tin sâu thoáng chốc

Phúc sẽ được như thế

Nếu có chư Bồ-tát

Vô lượng kiếp tu hành

Nghe Ta nói thọ mạng

Sẽ có thể tín thọ

Những hành giả như thế

Đỉnh thọ Kinh điển này

"Nguyện con ở vị lai

Sống lâu độ chúng sinh

Như Thế Tôn hôm nay

Vua trong tộc Năng Nhân

Đạo Tràng sư tử hống

Thuyết Pháp không sợ hãi

Chúng con đời vị lai

Hết thảy đều tôn kính

Khi ngồi ở Đạo Tràng

Nói thọ mạng cũng vậy"

Nếu có ai tin sâu

Thanh tịnh lòng ngay thẳng

Đa văn khéo tổng trì

Tùy nghĩa giảng lời Phật

Các hành giả như thế

Việc này chẳng còn nghi



Lại nữa, Vô Năng Thắng! Nếu có ai nghe về thọ mạng lâu dài của Phật và thấu hiểu nghĩa thú đó, thì công đức có được của người này sẽ là không có hạn lượng và có thể phát khởi trí tuệ vô lượng của Như Lai. Huống nữa là rộng nghe Kinh này; hoặc bảo người khác nghe; tự mình thọ trì hay bảo người khác thọ trì; tự mình biên chép hay bảo người khác biên chép; hoặc dùng hương hoa, xâu chuỗi anh lạc, tràng phan, lọng che, dầu thơm, hay đèn bơ để cúng dường Kinh này. Công đức của người này sẽ là vô lượng vô biên và có thể phát sinh Nhất Thiết Chủng Trí.

Này Vô Năng Thắng! Nếu thiện nam tử hoặc thiện nữ nhân nào nghe Ta nói về thọ mạng lâu dài, rồi sinh tâm tín giải sâu xa, họ sẽ liền thấy Phật luôn thuyết Pháp ở tại núi Thứu Phong cùng với chư đại Bồ-tát và hàng Thanh Văn thánh chúng vây quanh.

Lại thấy đất đai ở Thế giới Kham Nhẫn làm bằng lưu ly và bằng phẳng cực kỳ. Có vàng ở dưới sông tại châu Thắng Kim dùng để phân ranh giới cho tám con đường và trên ấy có những hàng cây báu. Các đài báu cùng lầu quán đều làm bằng châu báu và ở trong ấy đều có chư Bồ-tát.

Nếu ai có thể quán như thế, thì nên biết đây là tướng trạng của sự tín giải thâm sâu.

Lại nữa, sau khi Như Lai diệt độ, nếu ai khi nghe Kinh này mà khởi lòng tùy hỷ và không chê bai, thì phải biết đây là tướng trạng về sự tin hiểu thâm sâu. Huống chi là người thọ trì đọc tụng Kinh này, hết mực tôn kính và đội Như Lai trên đỉnh đầu của họ.

Này Vô Năng Thắng! Các thiện nam tử và thiện nữ nhân đó không cần vì Ta mà xây chùa dựng tháp, hoặc tạo lập chỗ ở hay làm bốn sự cúng dường cho chư Tăng.

Vì sao thế? Bởi các thiện nam tử và thiện nữ nhân đó do thọ trì đọc tụng Kinh điển này, nên họ đã xây chùa dựng tháp, đã tạo lập chỗ ở và cúng dường cho chư Tăng. Chính họ đã xây tháp bảy báu có xá-lợi của Phật. Tháp rộng và cao đến tận cõi Phạm Thiên. Trên tháp ấy treo các phan lọng và chuông báu. Họ đã dùng hương hoa, xâu chuỗi anh lạc, hương bột, hương xoa, hương đốt, các loại âm nhạc, tiêu sáo, đàn hạc, đàn cầm, mọi giai điệu vũ khúc, và âm thanh vi diệu để ca vịnh tán thán. Người đó đã làm những sự cúng dường như thế suốt vô lượng nghìn vạn ức kiếp.

Này Vô Năng Thắng! Sau khi Ta diệt độ, nếu ai nghe Kinh điển này và có thể thọ trì, hoặc tự biên chép hay bảo người khác biên chép, tức là họ đã tạo lập chỗ ở cho chư Tăng. Họ đã dùng hương đàn màu đỏ để xây 32 chính điện với độ cao bằng tám cây cọ. Pháp đường ấy cao rộng và trang nghiêm đẹp đẽ. Trong đó có trăm nghìn vị Bhikṣu đang ở trong ấy. Lại có viên lâm, ao tắm, nơi kinh hành, hang động để ngồi thiền, y phục ẩm thực, giường nệm thuốc thang, và tất cả nhạc cụ có đầy khắp trong ấy. Nơi chư Tăng cư trú, Pháp đường, và lầu các như thế, số ấy nhiều vô lượng đến vài tỷ ức, sẽ hiện ra ở trước để cúng dường Ta cùng các vị Bhikṣu.

Thế nên Ta mới nói rằng, sau khi Như Lai diệt độ, nếu có ai thọ trì đọc tụng và thuyết giảng cho người khác, hoặc tự biên chép hay bảo người khác biên chép và cúng dường Kinh này, thì họ không cần phải xây chùa dựng tháp, hoặc tạo lập chỗ ở hay cúng dường cho chư Tăng.

Hà huống lại có người có thể thọ trì Kinh này và còn làm luôn cả việc bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, và diệu tuệ. Công đức của họ sẽ là tối thắng và nhiều vô lượng vô biên. Đây ví như hư không, đông tây nam bắc, bốn hướng phụ, cùng phương trên và phương dưới là vô lượng vô biên. Công đức của người này cũng lại như thế, là vô lượng vô biên và họ sẽ nhanh đạt đến Nhất Thiết Chủng Trí.

Nếu ai thọ trì đọc tụng Kinh này và thuyết giảng cho người khác, hoặc tự biên chép hay bảo người khác biên chép. Họ lại có thể xây chùa dựng tháp, cùng tạo lập chỗ ở cho chư Tăng, cúng dường và tán thán Thanh Văn thánh chúng. Họ còn dùng tỷ ức Pháp ngợi khen để tán thán công đức của Bồ-tát. Họ lại vì người khác mà dùng đủ mọi nhân duyên và tùy theo mỗi người mà giải thích Kinh Pháp Hoa này. Họ lại có thể trì giới thanh tịnh, sống hòa thuận với mọi người, nhẫn nhục, không nóng giận, và ý niệm kiên cố. Họ cũng luôn trân quý tọa thiền và đắc các thiền định thâm sâu. Họ cũng tinh tấn dũng mãnh, thu nhϊếp mọi Pháp lành, các căn lanh lợi, đắc trí tuệ, và khéo trả lời những câu hỏi khó.

Này Vô Năng Thắng! Sau khi Ta diệt độ, nếu các thiện nam tử hoặc thiện nữ nhân nào thọ trì đọc tụng Kinh điển này và cũng như lại có những công đức lành khác như thế, thì phải biết người ấy đã hướng về Đạo Tràng, gần kề Vô Thượng Chính Đẳng Chính Giác và ngồi ở dưới gốc Đạo thụ.

Này Vô Năng Thắng! Các thiện nam tử và thiện nữ nhân đó, hoặc nơi họ ngồi, đứng, hay nơi họ đang đi, thì họ nên xây một ngôi tháp ở nơi đó. Hết thảy hàng trời người đều phải nên cúng dường như tháp của Phật."



Lúc bấy giờ Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa lý ở trên nên nói kệ rằng:

"Sau khi Ta diệt độ

Ai khéo trì Kinh này

Phúc người ấy vô lượng

Như đã nói ở trên

Chính họ đã đầy đủ

Tất cả mọi cúng dường

Khởi xây tháp xá-lợi

Vật bảy báu trang nghiêm

Lầu các rộng cao hiển

Sừng sững đến Phạm Thiên

Chuông báu nghìn vạn ức

Gió thổi vang diệu âm

Lại ở vô lượng kiếp

Đã cúng dường tháp này

Hương hoa chuỗi anh lạc

Thiên y các âm nhạc

Thắp đèn dầu bơ thơm

Luôn chiếu sáng xung quanh

Đời ác trược Mạt Pháp

Ai khéo trì Kinh này

Như đã nói ở trên

Đầy đủ mọi cúng dường

Nếu khéo trì Kinh này

Tức như Phật hiện tại

Dùng Ngưu Đầu hương đàn

Xây nơi ở cúng dường

Ba mươi hai Pháp đường

Cao bằng tám cây cọ

Áo đẹp thức ăn ngon

Giường nệm đều trọn đủ

Trăm nghìn người ở đó

Viên lâm các ao tắm

Kinh hành, động ngồi thiền

Muôn thứ trang nghiêm đẹp

Nếu tâm ai tín giải

Thọ trì biên chép đọc

Hoặc bảo người biên chép

Và cúng dường Kinh này

Rải hương hoa hương bột

Hoa lài dâng cúng dường

Ngọc lan hoa giải thoát

Luôn thắp đèn dầu thơm

Họ cúng dường như thế

Được vô lượng công đức

Vô biên như hư không

Phúc ấy cũng như vậy

Huống lại trì Kinh này

Cùng bố thí trì giới

Nhẫn nhục thích thiền định

Không sân không ác khẩu

Họ cung kính chùa tháp

Khiêm hạ chư Bhikṣu

Lìa xa lòng tự cao

Thường tư duy trí tuệ

Hỏi điều khó chẳng giận

Tùy thuận mà giảng giải

Nếu khéo tu hạnh này

Công đức chẳng thể lường

Nếu thấy Pháp sư này

Thành tựu đức như thế

Hãy rải hoa cõi trời

Thiên y đắp thân họ

Đầu đỉnh lễ sát đất

Sinh tâm tưởng như Phật

Lại nên nghĩ như vầy

"Không lâu đến Đạo thụ

Được vô lậu vô vi

Rộng lợi ích trời người"

Tại nơi vị ấy ở

Kinh hành hoặc nằm ngồi

Dẫu nói một bài kệ

Nên xây tháp nơi đó

Vi diệu đẹp trang nghiêm

Muôn vật để cúng dường

Phật tử trụ địa này

Thọ dụng như Đức Phật

Luôn ở tại trong ấy

Kinh hành cùng nằm ngồi"

Kinh Diệu Pháp Liên Hoa ♦ Hết quyển 5

Dịch sang cổ văn: Pháp sư Đồng Thọ (344-413)

Dịch sang tiếng Việt: Tại gia Bồ-tát giới Thanh tín nam Nguyên Thuận

Dịch nghĩa: 28/2/2012 ◊ Cập nhật: 4/9/2021

☸ Cách đọc âm tiếng Phạn

Bhikṣu: bíc su

Bhikṣuṇī: bíc su ni

nayuta: na du ta

Nayuta: na du ta
« Chương TrướcChương Tiếp »