1
Sương sớm như mây lướt qua mặt đất, bị xé thành từng sợi mảnh rất nhẹ, chậm rãi lướt qua mặt sông lấp lóe ánh nắng vàng. Mỗi một ngọn cây cỏ trên thảo nguyên Sóc đều lóng lánh ánh rực rỡ của vầng dương bắt đầu lên.
Mấy trăm cái lều tròn màu trắng rải rác trên thảo nguyên xanh tươi, giống như những cái nấm trên nhung xanh. Trên trời có chim trắng bay qua, kêu to bay về phía Bắc.
Vén màn một cái, một thiếu niên vọt ra, ngẩng đầu ngóng lên bầu trời trong xanh, phát ra một tiếng hoan hô, vung hai tay, chạy tới chỗ đàn ngựa trên cỏ. Hô một tiếng, trong đàn ngựa có một tuấn mã cao to lông màu sáng lao tới, đàn ngựa cũng cùng nhau chuyển hướng, theo con ngựa kia chào đón thiếu niên.
Con ngựa đó vừa tới bên người, không đợi nó dừng hẳn, thiếu niên nhẹ nhàng đáp lên lưng ngựa, người ngồi trên ngựa, hò hét tiến về phía trước. Đàn ngựa lao theo, tiếng vó ầm ầm hòa lẫn tiếng kêu hưng phấn của thiếu niên chạy về phương xa.
2
Thiếu niên Thạc Phong Hòa Diệp chẳng hề biết thiên hạ rộng bao nhiêu, từ trướng bồng ở tận cùng phía nam đến trướng bồng ở tận cùng phía bắc, chỉ cần cưỡi ngựa mười mấy bước đã là nơi ở của toàn bộ người trong bộ lạc này. Mà ngoài kia gần trăm dặm thì có bộ lạc khác. Thạc Phong Hòa Diệp không biết thảo nguyên có kéo dài vô cùng vô tận như thế hay không, có phải ngoài bộ lạc này vẫn còn bộ lạc khác hay không, có phải tất cả người trên đời đều sống trong trướng bồng hay không. Nhưng cậu nghe nói ở phương Nam xa xôi có biển rộng, bên kia bờ có một loại người khác, sinh hoạt theo kiểu khác, họ xây tường đất bao quanh mình, họ không nuôi thả cừu, bò nhưng trồng thực vật có thể ăn được.
Khi Thạc Phong Hòa Diệp mười bốn tuổi, thiếu niên này đứng trên thảo nguyên, nhìn trời xanh mãi mãi không thay đổi, cho rằng đời mình cũng sẽ trôi qua giống như phụ mẫu. Làm một người dân đen, suốt ngày bám lấy đồng cỏ và nguồn nước để sống như đàn cừu, để nắng gió làm khuôn mặt khô vàng, lấy một cô nương bộ lạc kế bên, sinh bảy tám hài tử, cứ đếm cừu, bò như vậy đến cuối đời.
Đến khi cậu thấy người kia.
Chiến mã chàng ta cưỡi tên là Đạp Tuyết, bộ lông như vàng đen phát sáng lấp lánh, bốn vó trắng thuần, khi phóng nhanh cứ như không chạm đất, đạp mây mà đi.
Chiến giáp chàng ta mặc mang màu lạnh của sắt, đầu hổ trên vai, giao long bạc trên cổ tay, dây gân rồng buộc hông, dường như mãnh thú trên thế gian đều nằm rạp dưới chân chàng ta, chàng ta ngồi thằng tắp trên ngựa, như chiến thần tuần tra bốn phía, toàn bộ mục dân nhìn thấy từ xa đều phải xuống ngựa quỳ rạp, không ai dám giục ngựa trước mặt chàng ta.
Chàng ta xách một chiến đao như được đẽo gọt từ băng, tên là Hàn Triệt, nghe nói khi vừa rút đao, gió tuyết sẽ phun ra từ mũi đao, vừa giơ đao lên, một cơn lốc sẽ đi theo chàng ta, chém toàn bộ những kị sĩ thảo nguyên dám chống lại xuống ngựa. Bên người chàng ta, là cờ chiến màu đen thêu chữ lớn màu đỏ thẫm, đi theo cũng là đội kị binh cường hãn nhất Bắc Lục và toàn bộ Cửu Châu — Thương Lang.
Mục Vân thị vẫn là vương giả của Bắc Lục, ba trăm năm trước là vậy, hiện tại vẫn vậy. Còn chàng ta, chính là Hoàng trưởng tử của Mục Vân hoàng tộc đế quốc Đại Đoan, Mục Vân Hàn.
Tuy ba trăm năm trước, Mục Vân thị khởi binh từ Bắc Lục, vượt qua eo biển Thiên Thác, tiến vào Đông Lục, đoạt được thiên hạ, cũng định đô ở Thiên Khải thành tại Đông Lục, nhưng Bắc Lục là nơi khởi nguồn của dòng họ Mục Vân, Mục Vân thị dựa vào nguồn gốc của kỵ binh dũng mãnh, oai phong dõi ra thiên hạ, bao đời vẫn do nhi tử cường hãn nhất trong Mục Vân thị trấn giữ. Trấn thủ vạn dặm thảo nguyên Bắc Lục, chẳng khác nào nắm giữ kỵ binh mạnh nhất thế gian, mà nắm được kỵ binh Bắc Lục chẳng khác nào nắm được binh quyền. Cho nên qua nhiều triều đại, hoàng tử Mục Vân thị đóng ở Bắc Lục thường trở thành hoàng đế Đại Đoan triều tương lai. Mục Vân thị dùng võ lập quốc, tay không buông kiếm, các hoàng tử đều tinh thông cưỡi ngựa bắn cung, hoàng đế thường ngự giá thân chinh, ba trăm năm qua, vẫn chủ đạo binh quyền. Cũng không ai có thể khiêu chiến võ công của Mục Vân thị.
Lần đầu Thạc Phong Hòa Diệp thấy Mục Vân Hàn, cậu mười bốn, Mục Vân Hàn mười lăm.
Khoảnh khắc đó, cậu bỗng nhiên hiểu được, trên đời còn có một loại người khác, một cuộc sống khác, loại người ấy cao quý và uy vũ, cuộc sống ấy tự do và đầy tôn nghiêm. Thạc Phong Hòa Diệp liền nói: “Trời ạ, trên đời hóa ra còn có người như vậy, sau này ta cũng muốn có một ngày được như thế.”
Chẳng biết khi đó Mục Vân Hàn có chú ý tới thiếu niên trong đám người trước mặt hay không. Chàng không thể biết, bảy năm sau, chàng sẽ phát động một hồi quyết chiến trong bão tuyết với người kia, quyết định số phận của thiên hạ này.
3
Mùa đông năm ấy, phía bắc Hãn Châu tuyết lớn liền mấy tháng. Toàn bộ Hãn Bắc trừ màu trắng thì hầu như không thấy một màu nào khác, đến Minh Mông hải cũng đóng băng toàn bộ, bị chôn dưới tuyết.
Nơi Hữu Kim tộc trú dù là sườn núi phía nam khuất gió, vẫn hầu như rơi vào tầng tầng tuyết.
“Mục Như thế gia sẽ trở lại Bắc Lục sao?” Châm lửa vào đống phân bò khô, tộc trưởng của mấy dòng họ thương nghị trong lều lớn. Khi đó Thạc Phong Hòa Diệp mười bốn tuổi đứng một bên làm tùy tùng cho phụ thân.
“Ta sẽ chết mất.” Thủ lĩnh Hữu Kim Kha Tử Mô A Tốc Thấm cau chặt mày, ánh lửa bập bùng làm gương mặt hắn lúc sáng lúc tối.
“Tuyết phủ thảo nguyên, hướng về phía bắc thì chết rét, hướng về phía nam thì bị tên bắn chết, bị ngựa đạp chết, Hữu Kim tộc thực sự sắp tàn sao?” Có người hỏi.
“Là ta hạ lệnh đánh cướp các bộ phía nam, cũng là ta hạ lệnh bắn tên về quân đội hoàng gia, khi đại quân Mục Như tộc tới, các ngươi hãy giao đầu ta ra, bọn họ sẽ lưu lại hậu duệ tộc các ngươi.”
“Không, hiện giờ tám bộ Hãn Bắc đều đã ra tay, tay chúng ta đều dính máu rồi, quân đội hoàng gia chúng ta cũng gϊếŧ rồi, chúng ta đã bắn những mũi tên khắc dòng họ mình về đô thành phía trước, từ ấy đã biết, đừng ai mong một mình sống sót.” Thủ lĩnh Chi Đạt thị, Chi Đạt Luật nói.
“Nam nhi tám đại bộ cộng lại cũng khoảng mười vạn, chiến mã tuy gầy đói, nhưng cung tên còn sắc, các bộ Hãn Nam cộng lại khoảng trăm vạn vẫn bị chúng ta gϊếŧ tới máu chảy thành sông, Mục Vân thị và Mục Như thị có thể tóm chúng ta thế nào được.”
“Các ngươi không rõ… không rõ rồi.” Kha Tử Mô A Tốc Thấm lắc đầu, lời nói hay thế nào cũng không sao khiến vùng quanh lông mày hắn đỡ cau chặt.
Thạc Phong Hòa Diệp đứng sau lưng phụ thân cũng có thể mơ hồ cảm thấy, tuy các tộc trưởng tỏ ra mạnh mẽ, nhưng một bầu không khí tuyệt vọng cực nặng nề đã đè xuống lều lớn, bão tuyết nhiều tháng chỉ làm suy sụp lều trướng, nhưng sức mạnh này lại đè tới xương cốt mỗi người.
Phụ thân mình cúi đầu không nói lời nào, ngón tay xoa xoa mảnh vụn phân khô, vẩy chúng vào lửa. Hắn chưa bao giờ là phái chủ chiến, bị các tộc trưởng khác cười nhạo là “Thạc Phong Đạt chẳng thấy mắt mũi đâu”. Thạc Phong Hòa Diệp nghĩ đây thực sự là điều sỉ nhục, chết thì chết thôi, vì sao đến hai chữ “Khai chiến” cũng không dám nói chứ?
Một tháng sau, Thạc Phong Hòa Diệp đã hiểu được.
Tới thảo nguyên Ngân Lộc nghênh chiến Mục Như bộ, chiến sĩ các bộ xuất chinh gần như quyết biệt. Thê tử ôm đầu ngựa mà trượng phu cưỡi khóc rống, các nam nhân trên ngựa hô to tên nhi tử: “Trưởng thành rồi phải giống một nam nhân, bảo vệ tốt mẫu thân và tỷ muội con, đừng làm mất cung tiễn phụ thân để lại cho con!” Các nam nhân cùng lúc xuất phát ra chiến trường, mọi nhà thu dọn trướng bồng, chuẩn bị di chuyển về phía bắc.
Thạc Phong Hòa Diệp muốn theo phụ thân và huynh trưởng đi đánh trận, lại bị quát dừng rất nghiêm khắc, phụ thân thậm chí còn cho cậu một roi. “Chờ ngươi trưởng thành, cái nhà này sẽ do ngươi bảo vệ!” Thạc Phong Hòa Diệp khóc rống, cậu không muốn nghe phụ thân nói vậy. Cậu chỉ hộ tống người già, nữ nhân và trẻ nhỏ lui về phía bắc mười dặm, thừa lúc người khác không chú ý, quay đầu ngựa phóng về hướng chiến trường.
Lúc nhập vào đoàn người, chen tới bên phụ thân, Thạc Phong Đạt thấy cậu, nhưng không nói gì, cũng không có rống giận và roi da. Hắn chỉ gật đầu, vươn tay ra vỗ vỗ vai cậu.
Thạc Phong Hòa Diệp nhìn về phía đối diện, thứ đầu tiên thấy là lá cờ kỳ lân màu tía cực lớn. Dưới cờ là kỵ binh thiết giáp xếp thành hàng ngũ, giáp trụ loang loáng đến chói mắt.
Một vị đại tướng giáp đen áo bào đỏ chậm rãi giục ngựa đi từ dưới cờ ra, hỏi: “Vì sao các người muốn làm phản?”
Ông không lớn tiếng quát, nhưng vẻ uy nghiêm lộ ra trong giọng nói như đè nặng lên mỗi người.
Kha Tử Mô A Tốc Thấm gào lớn: “Mục Như Sóc đại nhân, tuyết phủ Hãn Bắc, không còn đường sống rồi.”
Thì ra tướng quân ấy là đại soái quân chinh thảo của Đoan triều Mục Như Sóc. Ông hơi cười nhạt: “Vì thế, các ngươi liền chém gϊếŧ mười sáu bộ tộc Hãn Nam?”
“Trên thảo nguyên này, kẻ mạnh làm vua vốn là đạo trời, bọn họ đã sinh sống ở nơi nắng gió, nguồn nước, cây cỏ phong phú quá lâu rồi, đến tên cũng quên cách bắn, vậy không thể trách bọn ta được.”
“Ra là vậy…” Mục Như Sóc nhàn nhạt nói, “Các bộ Hãn Nam do tin tưởng vào sự bảo vệ của hoàng triều và sự an toàn trên thảo nguyên, nên đã giao ra chiến mã tốt nhất của mình, không chế tạo binh khí nữa, chuyên tâm chăn thả bò dê, cuối cùng lại có số phận như vậy. Hiện giờ họ lại lần nữa nuôi ngựa chiến, căng dây cung, khắc chữ bằng máu lên trán thề báo thù, các ngươi nghĩ các ngươi còn có thể thắng họ được nữa sao?”
A Tốc Thấm cười lạnh, nói: “Nếu để các bộ Nam Bắc quyết chiến lần nữa, kẻ thua phải nhường sông ngòi và đồng cỏ, chúng ta sẽ không e ngại.”
“Xem ra, các ngươi rất tin vào đạo lý thắng làm vua…” Mục Như Sóc gật đầu, “Từ khoảnh khắc các ngươi giục ngựa chiến, đã nên chuẩn bị thật tốt cho việc chết dưới móng ngựa rồi.”
“Vì sao!” A Tốc Thấm gào lên dữ dội, “Là do trời cao không công bằng, dựa vào đâu mà chúng ta phải đời đời sống ở sa mạc lạnh lẽo Hãn Bắc, dựa vào đâu chúng ta không thể dùng đao kiếm của mình đoạt lấy đất đai chân chính?”
“Bởi vì các ngươi không làm được! Đường biên giới giữa các bộ đã được vạch xuống từ ba trăm năm trước, để người trên thảo nguyên không tàn sát lẫn nhau, khi đó tổ tiên các ngươi đã thừa nhận.” Vẻ cười của Mục Như Sóc giống như sư tử cười nhạo người khiêu chiến, “Nếu các ngươi cho rằng bằng một chút gan dạ dã man đã có thể thay đổi trật tự đế quốc này, vậy thì hôm nay, các ngươi sẽ thấy cái gì là kỵ binh thật sự và gϊếŧ chóc thật sự.”
Mục Như Sóc chậm rãi giơ tay, kỵ binh thiết giáp sau lưng ông động tác chỉnh tề như một người, chậm rãi rút đao khỏi vỏ.
“Hôm nay ta chỉ dùng ba vạn kỵ binh tinh nhuệ tấn công, nếu A Tốc Thấm ngươi nghĩ mình có đủ lực lượng khiêu chiến Đại Đoan, hãy dùng tám vạn tộc nhân của ngươi tới thử coi.”
Thấy hàn quang dày đặc chậm rãi mọc lên phía đối diện, A Tốc Thấm như dự cảm được tuyên án tử vong. Hắn như con sói cô độc bị thợ săn vây khốn, gào to: “Ta không tin!” Rút đao chĩa về phía trước, kỵ quân tám bộ điên cuồng gào thét, bắt đầu xông lên.
Thạc Phong Hòa Diệp còn chưa hoàn hồn, trận chiến đã bắt đầu, cậu bị làn sóng xung phong cuốn về phía trước. Kỵ quân Mục Như bộ đối diện lại đứng yên như tường sắt. Đến tận khi quân tiên phong của tám bộ cách đại quân Đoan triều chỉ còn chưa đến một dặm, Thạc Phong Hòa Diệp nhìn lá cờ lớn màu tía kia mà chợt giật mình.
Những việc sau đó Thạc Phong Hòa Diệp luôn không nhớ rõ, có lẽ con người sẽ vô ý thức quên đi chuyện mà nội tâm mình không muốn hồi tưởng nhất. Hình như kỵ quân thiết giáp của Mục Như thế gia đột nhiên phát động, nhanh tới mức không sao tưởng tượng nổi. Vô số lưỡi đao sắc bén trong nháy mắt xen vào trong kỵ quân tám bộ, đẩy mạnh về phía trước, thế như chẻ tre, quân trận tám bộ như bị cắt nát rơi xuống ngựa, xung quanh đều là tiếng kêu thảm thiết. Họ nhanh chóng bị chia nhỏ, cung tiễn từ hai mặt phóng tới, tựa hồ căn bản không ai có thể vọt tới trước mặt Mục Như quân, họ đến mặt đối thủ còn chưa thấy rõ đã ngã xuống.
Mục Như quân cắt dọc, chặn ngang, bao vây, đột phá vào giữa. Như một cỗ máy nghiền nát máu thịt, xuất kích từng phương vị đều chuẩn xác không sai lệch, mấy trăm phân đội phối hợp tác chiến như áo trời không có đường may, trước sau không hề vượt quá cự li hai trăm thước giữa hai bên, cũng không xung đột đến chỗ đã từng qua, họ vụt qua vụt lại trong quân tám bộ, như vô số thanh chủy thủ cắt con mồi từng chút.
Giống như… Sau này Thạc Phong Hòa Diệp hồi tưởng lại, giống như bầy sói đang xé nhỏ bầy cừu, sau đó tàn sát. Đúng vậy, khi đó kỵ quân Hữu Kim trước mặt thiết kỵ Mục Như giống như cừu với bầy sói. Đây là sự chênh lệch giữa mục dân chỉ dựa vào sự dũng mãnh và quân kỵ binh được huấn luyện tinh nhuệ.
Lá cờ lớn màu tía kia vẫn luôn được phất lên nhẹ nhàng, điều hành trận gϊếŧ chóc này.
Trong một lúc lâu sau đó, Thạc Phong Hòa Diệp vẫn nhắm chặt mắt, lá cờ lớn màu tía vẫn đang được phất lên, còn có tiếng chém gϊếŧ đầy tai…
Kỵ binh Mục Như bộ phân ra truy sát tám bộ tộc đang tháo chạy, trên toàn thảo nguyên Hãn Bắc đều là tiếng chém gϊếŧ và màu máu. Thạc Phong Hòa Diệp không biết cậu đã chạy một hơi được bao xa, đến tận khi ngựa mệt chết. Cậu không muốn thừa nhận nhưng không thể không thừa nhận, khi đó cậu mười bốn tuổi, đã bị nỗi sợ hãi bóp chặt. Cậu chưa từng thấy chiến sự thảm liệt tới vậy, nhiều người bị chém thành từng mảnh từng mảnh chết đi như vậy, dưới móng ngựa tràn đầy bùn máu và xương vỡ, không nhìn ra được màu đen của đất nữa.
Phía trước những người già, phụ nữ và trẻ nhỏ trong bộ tộc đang vội vàng lùa đàn cừu chậm rãi, Thạc Phong Hòa Diệp chạy như điên tới, kêu: “Chạy mau, chạy mau! Mục Như bộ sắp tới.” Nhưng người trong các bộ tiếc đàn cừu, vẫn ra sức xua cừu, thiếu niên gấp đến mức sắp khóc. Lúc này phía sau cát bụi cuồn cuộn nổi lên, mọi người quay đầu nhìn, mấy trăm kỵ sĩ giáp đen xuất hiện nơi chân trời, đuổi theo như bay.
Các nam tử trong bộ định tới cản lại, Thạc Phong Hòa Diệp nghẹn giọng gào lớn: “Đừng đi!” Nhưng đã muộn, khi ngựa hai bên lao vào nhau, hơn mười cái đầu bay lên không trung.
Các kỵ binh Mục Như đuổi tới sát người trong tộc, giơ cao một lệnh bài chữ đỏ: “Thiên tử có lệnh: Hữu Kim Hãn Bắc làm phản, bao vây chém gϊếŧ các bộ khác, trời đất không tha, tru diệt toàn tộc!”
Sau đó chính là tiếng kêu thảm thiết và máu tươi.
Thạc Phong Hòa Diệp khi đó đã hoàn toàn không còn dũng khí chạy trốn, cậu ngơ ngẩn đứng đó, đột nhiên một lão nhân kế bên trùm lên người cậu một tấm da cừu, đẩy cậu vào đàn cừu.
Thạc Phong Hòa Diệp cuộn mình dưới chân đàn cừu, chặt cắn môi, thân thể phát run, không dám nghe gì cũng không dám nghĩ gì nữa. Những con cừu này từ tốn di chuyển quanh người cậu, nhìn cảnh chém gϊếŧ ngoài mấy mươi thước, chúng chỉ chạy trốn khi bầy sói tới. Sau này mỗi khi Thạc Phong Hòa Diệp nhớ lại thời khắc sỉ nhục này, sẽ cắn chặt môi nghĩ, ta từng sống như một con cừu đợi làm thịt, nhưng ta sẽ không vĩnh viễn sống như vậy.
Lần đuổi gϊếŧ lớn ấy giằng co trong một tháng, hơn mười vạn người tám bộ chạy tứ tán trong mấy ngàn dặm sa mạc lạnh lẽo, Mục Như quân cũng chia thành vài ngàn tiểu đội lùng diệt mọi nơi. Chẳng biết có bao nhiêu người chết trong đợt lùng diệt ấy, Thạc Phong Hòa Diệp chỉ biết trên đường chạy trốn lúc nào cũng có thể thấy vết máu và xác chết, đó là dấu vết cho thấy Mục Như quân đã đuổi qua.
Nhưng đột nhiên trận tiêu diệt ấy ngưng lại, đúng vào thời khắc tuyệt vọng của tám bộ tộc. Chẳng biết vì sao, Mục Như quân như biến mất trên thảo nguyên trong chớp mắt.
Sau này Thạc Phong Hòa Diệp mới biết đó là do Cửu đệ của Đoan triều hoàng đế Mục Vân Cần, Uyển Châu vương Mục Vân Loan ở Đông Lục khởi binh tạo phản, Mục Như thế gia phải về Đông Lục tác chiến. Mục Như phiêu kỵ tuy ở lại Bắc Lục, nhưng phải thay đổi chủ tướng, nên mới ngừng việc lùng diệt, triệu hồi về sắp xếp lại.
Nếu đợt lùng diệt còn kéo dài thêm ba ngày, có lẽ Thạc Phong Hòa Diệp sẽ đói rét mà chết trên băng nguyên. Chỉ có cách biệt ba ngày mà mười năm sau Đại Đoan triều phải nghênh đón thời khắc vong quốc.
Thạc Phong Hòa Diệp cuối cùng cũng tìm được tộc nhân của mình, cậu vừa cố duy trì trong đói rét đã lập tức cưỡi ngựa gầy đi khắp các trại, gào khàn cả giọng: “Các ngươi vẫn chuẩn bị dựa vào mấy ngọn cỏ khô sống qua ngày trên băng mạc này sao? Các ngươi vẫn dự định chăn cừu sống cả đời sao? Không thể nào, Mục Như quân sẽ quay lại bất cứ lúc nào, người muốn sống thì theo ta, chúng ta cần một đội kỵ binh chân chính, chúng ta phải huấn luyện chính mình thành một đội kỵ binh hung ác hơn lang sói, ác liệt hơn bão tố! Quên cừu của các ngươi đi, đường sống của chúng ta chỉ có thể dựa vào đao để giành lấy!”
Vô số thiếu niên các bộ trong lòng rực lửa thù lập tức chuẩn bị cho mình một con ngựa mới, tước cành cây thành đao gỗ đi theo Thạc Phong Hòa Diệp. Họ phân chia biên chế, bắt đầu huấn luyện trên thảo nguyên, không có bất kì sách vở binh pháp nào, chỉ dựa vào kí ức của Thạc Phong Hòa Diệp với lần đại chiến kia, kỵ quân Mục Như xuất kích thế nào, phân đội thế nào, chọc thủng quân đối phương thế nào, vây bắn thế nào. Còn nếu gặp phải sách lược như vậy thì phải đối phó thế nào, các thiếu niên đỏ cả mắt, ngày đêm thảo luận, vừa nghĩ ra cách đã lên ngựa huấn luyện. Ngã ngựa gãy chân, mắt bị côn gỗ ngộ thương, cũng không ai oán giận. Phụ mẫu từ xa nhìn họ, không tới làm gián đoạn, chỉ yên lặng để lại đồ ăn và sữa cừu.
Ai cũng hiểu rõ, các bộ Hãn Bắc có thể có tương lai không, phải trông vào những thiếu niên này.