Tôi có một giấc ngủ trưa tuyệt vời kéo dài những năm tiếng đồng hồ sau khi Jean bưng lên phòng phục vụ tận răng một đĩa súp kem gà ngon nhất trần đời. Chắc hẳn cái vụ xỉu đột ngột chẳng qua do tôi... đói quá mà thôi. Sau bữa ăn "
moules et frites" với tên Việt kiều keo kiệt, tôi tức quá nuốt không nổi một món nào nữa cả. Phần vì tiếc gần năm chục euro của mình, tôi muốn nhịn những bữa khác để bù lỗ vào, phần giận quá mất luôn cảm giác đói. Vậy là tôi đã nhịn luôn một lèo từ tối thứ bảy đến nguyên cả ngày chủ nhật hôm qua. Nhớ lại, tôi chỉ uống sữa cầm hơi và ăn snack khoai tây chiên mà thôi.
Sáng nay, sau khi được "trai" bế lên giường rồi cuối cùng bác sĩ đến khám bệnh, tôi được mọi người xúm xít quan tâm đến là ngại. Bác sĩ nhìn trẻ măng, ăn mặc khá tầm thường, ông phải đi bằng xe điện ngầm đến khiến tôi nhớ lại bài học của chị Linh vừa truyền tối qua. Bác sĩ mà còn phải đi xe công cộng, cỡ tôi làm sao có tài xế riêng? Bác sĩ khám sơ, đo huyết áp, hỏi vài câu rồi phán tôi bị hạ huyết áp. Nguyên do là tôi ăn quá ít, uống nước không đủ, lúc ngủ lại bật nhiệt độ quá cao làm mất nước và thiếu ô-xi không thở nổi. Giờ tôi chỉ việc ăn uống ngủ nghỉ cho nhiều vào thì mọi chuyện OK cả. Bác sĩ khuyên tôi nghỉ làm hôm nay. Sáng mai trước khi đi làm tôi sẽ được ông ghé qua đo huyết áp và khám sơ một lần nữa.
Jean cảm ơn bác sĩ rồi tiễn ông về, dặn dò gởi mọi hóa đơn vô phòng Nhân Sự của công ty Van Lattel. Anh rút điện thoại gọi cho thư ký bà Barro báo tin tôi bệnh phải nghỉ một ngày. Sau đó anh chàng Bỉ đích thân xuống restaurant của khách sạn Ibis mua súp gà đem lên cho tôi, thay vì chỉ cần bốc điện thoại đặt món.
_ Cảm ơn Jean, anh tử tế quá! - Tôi "úp mặt" ngồi ăn súp đến muỗng cuối cùng - Chúa ơi, không có anh chắc em chết rồi. Em may mắn quá. Cảm ơn anh lần nữa nhe. Em rất cảm kích.
Tôi thật lòng cảm động nhưng có lẽ mặt tôi trông gian quá, tôi cứ nhìn Jean dò xét lom lom với câu hỏi khó giải đáp "anh là ai?" khiến anh chàng nghi ngại.
_ Sao em đột nhiên dịu dàng đến vậy? – Jean nhíu mày dù ánh mắt tỏ vẻ phấn chấn – Suốt cả tuần qua anh luôn tử tế với em mà chỉ toàn thấy em cáu gắt? Bệnh hạ huyết áp cũng làm em hạ luôn bản tính cộc cằn?
_ Chúa ơi! Anh lại bắt đầu gây chiến! – Tôi kêu lên – Anh đừng bắt lỗi này nọ nữa được không?
_ Nếu em nói "xin vui lòng" – Jean gợi ý với vẻ mặt trêu chọc.
_ Xin vui lòng, đừng bắt lỗi em nữa được không? – Tôi vừa cố nhũn, vừa đang muốn điên lên trở lại.
_ OK! OK!
Jean bật cười tươi hết cỡ. Tôi nhìn kỹ anh chàng Bỉ khờ. Jean không phải là một người đẹp trai nếu so với tụi Tây bên đây. Nhưng nếu so với dân Việt Nam, dù sao anh cũng mũi cao, mắt sâu, tóc mềm. Đương nhiên là không tệ. Nhưng gương mặt của Jean cũng không có gì nổi bật, không có một bộ phận nào làm điểm nhấn. Dường như người có "nhan sắc" vô thưởng vô phạt như thế thì bản tính cũng rất đơn giản, tâm hồn đơn điệu, dễ làm cho người đối diện mau nhàm chán.
_ Jean nè! – Tôi dò hỏi – Anh là manager hả?
_ Đúng rồi! – Jean trả lời liền không do dự.
_ Manager gì vậy? – Tôi thót tim.
_ CG manager!
_ Là gì? – Tôi ngơ ngác với cái chức danh lạ hoắc.
_ Là Coffee Gentleman manager – Jean nhún vai giải thích – Người phụ trách bưng cà phê phục vụ những cô gái cáu bẳn.
Tôi xấu hổ ghê gớm. Mặt nóng bừng bừng. Anh ta để bụng tất cả những lúc tôi quạu quọ, thật không ra thể thống gì hết.
_ Mặt em đỏ rực kìa – Jean kêu lên – Vậy cũng tốt cho một bệnh nhân đang bị hạ huyết áp như, giờ chắc huyết áp em tăng lên rồi, máu từ tim chảy ngược lên mặt.
_ Jean, xin vui lòng... - Tôi thều thào.
_ OK! OK! – Jean mỉm cười ra vẻ tử tế - Chỉ cần em nói "xin vui lòng", anh làm hết mọi điều em mong muốn.
_ Vậy thì xin vui lòng – Tôi cố gắng moi thêm thông tin – Anh làm chức gì trong Van Lattel vậy?
_ Anh tự hỏi sao hôm nay em lại thắc mắc? – Jean nhún vai – Theo em thì anh làm chức gì?
_ Thôi mà – Tôi năn nỉ - Nếu biết thì em đâu có hỏi.
Jean nhún vai, không đáp. Ánh mắt anh vụt trở nên lém lỉnh, tia nhìn sáng rỡ ấy chỉ tồn tại trong tích tắc rồi vẻ mặt anh nhanh chóng trở lại vẻ "thiếu i-ốt" đến phát nản. Đã vậy, tôi cũng không thèm hỏi. Sáng mai khi đi làm tôi sẽ tìm hiểu thêm ở thư ký bà Barro hay những đồng nghiệp khác. Chắc chắn họ sẽ cho tôi biết Jean làm đến chức gì trong Van Lattel mà lại chịu cam lòng làm tài xế riêng cho tôi trong thời gian tu nghiệp.
_ Thôi anh về công ty làm việc đây – Jean đứng lên khỏi ghế - Em cứ nghỉ ngơi đi nhé. Tối nay chịu khó xuống restaurant ăn uống cho đàng hoàng vào.
_ OK! – Tôi vui vẻ - Cảm ơn Jean, em thật cảm kích sự quan tâm của anh. Chắc mai em sẽ khỏe lại thôi mà.
_ À! – Jean quay lưng đi ra cửa nhưng phút cuối chợt nhớ ra điều gì – Không có ý tò mò, nhưng hình như cuối tuần qua em có hẹn đi dạo Bruxelles với Quang. Vui vẻ chứ?
_ Không! Chán lắm! – Tôi buộc miệng thành thật – Giá mà em đi với anh!
_ Vậy cuối tuần sau mình đi chung nhé! – Jean đề nghị - Hy vọng anh sẽ làm vui hơn và chuyến tu nghiệp sang Bỉ không chỉ có công việc ở Van Lattel. À, em muốn đi Bruges không? Thành phố Venise phương Bắc đó. Niềm tự hào của người Bỉ. Rồi em sẽ thấy!
_ Cảm ơn Jean! – Tôi vui vẻ - Em sẽ đi cùng anh.
Jean đi rồi tôi mở toang cửa sổ nhìn xuống phố Marché aux Herbes. Đã gần mười một giờ nên nắng đã lên cao, ấm áp. Gió thoảng phất qua nhè nhẹ, mang một chút lạnh còn sót lại của buổi sớm mai, thật là dễ chịu. Bầu trời trong xanh không gợn một tí mây, mang cảm giác tươi mới tuyệt đối. Tôi hít căng l*иg ngực một hơi thật sâu, thấy tâm hồn vui tươi, thanh thản. Nhiệt độ lúc này hẳn cũng lên đến gần hai mươi. Thật lý tưởng nếu muốn thong dong dạo phố với chiếc áo khoác nhẹ trên vai. Phía dưới phố khách du lịch đã đi lại dập dìu trong các ngõ, họ túa ra Quảng Trường Lớn như những dòng sông nhỏ tìm đường ra đại dương. Tôi chợt quyết định, mình phải tìm được một học bổng du học ở Bruxelles hoặc ít ra ở bất kỳ thành phố nào của Bỉ. Học gì cũng được, miễn là thỏa chí tan bồng sống cuộc đời du học sinh ở vùng đất thanh bình này.
Thế rồi vẫn để cửa sổ mở rộng như thế, tôi lên giường ngủ một giấc sâu. Trong mơ, tôi thấy mình đã tìm được học bổng sang Bỉ. Những ông giáo sư hiền lành, những bạn sinh viên cùng lớp ngờ nghệch, một anh tài xế đưa đón tôi đến giảng đường mỗi ngày. Không phải Jean thiếu i-ốt, anh ta là manager bận rộn trong Van Lattel cơ mà. Tiềm thức tôi lặp đi lặp lại điều đó. Cuối cùng tôi cố nhìn mặt người tài xế qua chiếc kính chiều hậu. Chúa ơi! Hắn có đôi mắt sáng quắc linh hoạt, nụ cười nửa miệng kiêu hãnh. "Việt kiều dễ thương của em đây!", tên tài xế quay lại cười khoe khuôn mặt đẹp trai. Tôi choàng tỉnh, nhận ra mình đang lạnh run.
Gió ngoài cửa sổ đưa vào buốt giá. Tôi vội đóng sập cửa lại, nắng chói chang đã tắt nhưng những vệt vàng óng ả vẫn đang vắt ngang những mái nhà ngói đen.Gần đến mùa xuân rồi nên mặt trời càng ngày càng chiếu lâu hơn. Đã bốn giờ chiều, thời điểm này đi dạo cũng rất tuyệt vì nhiệt độ vẫn chưa quá thấp, chắc khoảng mười tám độ. Tôi khoác áo, mang giày, hăm hở xách máy chụp hình đi ra phố.
Từ Marché aux Herbes, tôi loanh quanh vài con phố hẹp là tìm được phố rue de I"Etuve, giao với phố rue du Chêne. Nơi đây có bức tượng thằng bé cầm chim đái Manneken Pis nổi tiếng của Bỉ. Trước khi sang đây, mấy ông sếp Bỉ ở Van Latte cứ căn dặn tôi "Nhớ đến chụp hình trước Manneken Pis nhé. Chưa đến đấy thì chưa gọi là đã đến Bruxelles!". Thế mà giờ đây tôi đang đứng trước bức tượng bằng đồng đen bé tí xíu chỉ cao có sáu mươi centimet. Xung quanh tôi khách du lịch khác cũng đang "bật ngửa" vì bất ngờ. Họ cười hóm hỉnh "Chúa ơi, vậy mà cũng quảng cáo um xùm, làm tưởng to lắm chứ!". Ai đó đáp lại "Đâu phải cái gì to cũng tốt. Có những thứ không đo được bằng kích thước". Tôi nhìn chằm chằm vào cái vật thằng bé Manneken Pis đang cầm để đi pipi. Chả có tí gì đặc biệt. Đúng là chỉ có nghệ thuật Marketing với bao nhiêu câu chuyện thêu dệt mới khuếch trương được thằng bé tồng ngồng này thành biểu tượng của Bruxelles. Dù sao, tôi cũng bị tâm lý bầy đàn ảnh hưởng. Thấy mọi người thay phiên nhau chụp hình, tôi cũng nhờ mấy anh Mỹ chụp giùm vài tấm trước Manneken Pis rồi tiếp tục dạo bộ vòng quanh khu phố cổ.
Bruxelles lác đác lên đèn, các cửa hiệu dần đóng cửa. Tôi ngạc nhiên nhận ra mình không có chút hứng thú nào khi lang thang một mình ngoài phố. Thật lạ, trước chuyến đi tôi vẫn mường tượng sẽ rong ruổi khắp Bruxelles trong một tinh thần phấn chấn cao độ. Được ở một mình nơi không ai quen biết, được tự do tuyệt đối, được làm bất cứ điều gì do chính mình quyết định. Thế mà giờ đây tôi nhận ra, Bruxelles không dành cho người lẻ loi. Sẽ tuyệt hơn biết bao nếu tôi có ai đó hướng dẫn tôi thăm thú phố phường, sẽ bất ngờ nắm lấy bàn tay tôi sưởi ấm khi một cơn gió rét phất qua. Chúa ơi, lần đầu tiên trong đời, ở tuổi hai mươi bốn, tôi nghĩ mình muốn có bạn trai!
Nhưng đào đâu ra một boy friend ở giữa Bruxelles này chứ?