Con Chim Khát Tổ

Chưa có ai đánh giá truyện này!
Tác Giả: Đề Cử
Tình Trạng: Hoàn Thành
Robert Galbraith là một bút danh khác của tác giả bộ tiểu thuyết Harry Potter nổi tiếng J. K. Rowling. *** Khi cô người mẫu xinh đẹp nhiều tai tiếng ngã chết từ ban công căn hộ sang trọng cu …
Xem Thêm

Chương 13
Ngày hôm sau Eric Wardle gọi cho Strike.

“Đã gọi Deeby,” anh ta báo cáo cụt ngủn.

“Sao nữa?” Strike hỏi, ra dấu nhờ Robin chuyển cây viết và tờ giấy. Hai người vừa ngồi ở bàn của Robin, uống trà ăn bánh qui và nói về bức thư dọa gϊếŧ gần đây nhất từ Brian Mathers. Trong thư hắn ta hứa, không phải là lần đầu tiên, sẽ rạch bụng Strike và tè một bãi vô đó.

“Deeby nói và Somé gởi một cái áo thun dày liền mũ thiết kế riêng. Trước áo có đính khuy xếp hình khẩu súng còn sau lưng có vài dòng lời bài hát.”

“Chỉ một cái thôi hả?”

“Ừ.”

“Còn gì nữa không?” Strike hỏi.

“Anh ấy nhớ là có một cái dây thắt lưng, một cái mũ tròn và một bộ măng-sét.”

“Không có găng tay sao?”

Wardle dừng lại, có lẽ là kiểm tra trong ghi chép.

“Không, anh ấy không nhắc gì tới găng tay hết.”

“Vậy là rõ rồi,” Strike đáp.

Wardle không nói gì nữa. Strike đợi xem anh chàng cảnh sát sẽ dập máy hay nói thêm gì nữa.

“Điều tra chính thức bắt đầu từ thứ Năm này.” Wardle đột ngột nói. “Vụ Rochelle Onifade.”

“Vậy à.” Strike đáp.

“Anh không quan tâm sao?”

“Không.”

“Tôi tưởng anh chắc chắn vụ đó là án mạng?”

“Tôi chắc chứ, nhưng điều tra sẽ không rút ra kết luận gì cả. Có biết tang lễ lúc nào không?”

“Không,” Wardle nói, có vẻ bực bội. “Để làm gì vậy?”

“Tôi tính tới dự.”

“Để làm gì?”

“Cô ta có một bà cô, nhớ không?” Strike đáp.

Wardle dập máy, Strike ngỡ là vì anh cảnh sát hết chịu nổi hắn nữa.

Bristow gọi Strike ngay trong buổi sáng hôm đó, cung cấp thời gian và địa điểm đám tang Rochelle.

“Alison tìm ra được hết mấy thông tin đó,” ông ta nói với tay thám tử trên điện thoại. “Cô ấy thật là lanh lợi.”

“Rõ là vậy.” Strike đáp.

“Tôi sẽ đến dự. Thay mặt Lula. Đáng ra tôi phải giúp đỡ Rochelle mới phải.”

“Chuyện này cũng khó tránh khỏi, John à. Alison có đi cùng anh không?”

“Cô ấy cũng muốn đi,” Bristow nói, nghe giọng không tha thiết gì lắm.

“Gặp anh ở đó vậy. Tôi mong sẽ nói chuyện được với cô của Rochelle, nếu bà ta có đến dự.”

Khi Strike nói với Robin rằng bạn gái của Bristow vừa tìm ra thời gian và địa điểm tổ chức tang lễ, trông cô hơi thất vọng. Cô cũng đã cố tìm kiếm những thông tin đó theo yêu cầu của Strike. Robin có cảm giác như Alison vừa thắng “một-không” với mình.

“Tôi không biết là cô ganh đua tới vậy đó,” Strike nói, thấy tức cười. “Đừng lo. Chắc vì bả có lợi thế đi trước cô thôi.”

“Đi trước sao kia?”

Nhưng Strike lại đang nhìn cô, ra vẻ tính toán.

“Gì kia?” Robin hỏi lại, hơi bị tự ái.

“Tôi muốn cô đi cùng tôi tới đám tang Rochelle.”

“Ồ.” Robin ngạc nhiên. “Được thôi. Nhưng tại sao?”

Cô tưởng Strike muốn đi thành cặp để trông tự nhiên hơn, như hồi đi Vashti. Nhưng hắn lại nói:

“Có một chuyện tôi muốn nhờ cô làm ở đó.”

Sau khi hắn giải thích, rõ ràng và cụ thể việc mà hắn muốn nhờ làm, trông Robin vô cùng hoang mang.

“Nhưng tại sao?”

“Tôi không nói được.”

“Tại sao không?”

“Tôi cũng không nói được luôn.”

Robin không còn nhìn Strike bằng con mắt của Matthew như hồi đầu, không còn nghi ngờ rằng hắn đóng kịch hay ba hoa chích chòe hay làm ra vẻ thông minh. Nên cô không cho là hắn đang cố tỏ ra bí hiểm một cách không cần thiết. Robin lẩm bẩm lặp lại, như thể sợ nghe nhầm:

“Brian Mathers.”

“Đúng vậy.”

“Thằng cha chuyên gởi thư dọa gϊếŧ.”

“Đúng thế.”

“Nhưng,” Robin nói, “Cha đó thì dính gì đến án mạng của Lula?”

“Không dính gì hết,” Strike đáp, nghe cũng thành thật. “Chưa dính.”

Ba ngày sau, đám tang của Rochelle được cử hành ở nhà hỏa táng ở phía Bắc London, một nơi lạnh lẽo, không tên tuổi và nhuốm màu phiền muộn. Mọi thứ đều trung dung, trôi tuồn tuột qua mất, từ những dãy ghế gỗ sẫm màu và những bức tường trống trơn, không hề có một dấu hiệu tôn giáo nào cả; đến tấm tranh kính màu trừu tượng ghép từ những hình vuông nhỏ xíu như hạt cườm trên cửa sổ. Strike ngồi trên băng ghế cứng. Người chủ lễ giọng eo éo liên tục đọc nhầm tên Rochelle là “Roselle”. Mưa bụi rơi lấm tấm đầu khung cửa sổ lòe loẹt ngay trên đầu hắn. Giờ đây hắn mới thấy hết tác dụng của những bức tượng tiểu thiên sứ mạ vàng, các thể loại thần thánh tạc bằng thạch cao, những máng xối hình thù kỳ dị, những thiên thần trong Kinh Cựu Ước rồi những cây thập giá vàng đính đá quý. Tất cả những thứ đó tạo ra không khí uy nghiêm hoành tráng, như lời hứa hẹn chắc chắn về nước Chúa, cũng như làm cho người đi đưa đám phải nghĩ đến phẩm giá của người đã khuất. Rochelle, cô gái xấu số đã từng được nếm mùi thiên đường trên mặt đất, thiên đường có những món hàng hiệu, những người nổi tiếng để mà cô dè bỉu sau lưng và các anh lái xe đẹp trai để cợt đùa chút đỉnh. Rochelle từng khao khát thế giới đó, và đây là kết cục của cô ta: bảy người đưa đám và một vị chủ lễ còn không đọc đúng tên của cô.

Đám tang của Rochelle lạnh lùng đến mức trơ tráo. Người đi đưa có vẻ hơi ngượng ngùng, lúng túng tránh không nói gì về cuộc đời của Rochelle. Dường như không ai cảm thấy mình có quyền ngồi ngay hàng ghế đầu. Đến cả người đàn bà da đen béo phì mang kính dày và đội mũ len, mà Strike đoán là cô của Rochelle, cũng chọn ngồi cách miệng lò hỏa thiêu đến ba hàng ghế, tránh xa chiếc quan tài rẻ tiền. Ông nhân viên hói đầu mà Strike gặp ở nhà trọ St Elmo cũng đến dự, mặc áo sơ mi không cài nút cổ và áo khoác da. Ngồi sau là một gương mặt xa lạ - một thanh niên châu Á mặc complet gọn gàng, Strike đoán hẳn đây là bác sĩ tâm thần ở khu ngoại trú nơi Rochelle đi chữa bệnh.

Strike mặc complet màu xanh đen. Robin mặc váy đen và áo khoác hôm đi phỏng vấn. Hai người ngồi ở hàng ghế phía sau. Ở hàng ghế đối diện với bên kia lối đi là John Bristow, tái nhợt và rầu rĩ, ngồi cùng với Alison. Bà ta mặc một chiếc áo khoác đi mưa màu đen cổ bẻ, mấy giọt nước mưa đọng trên áo ánh lên dưới ngọn đèn lạnh lẽo.

Tấm màn đỏ rẻ tiền được kéo ra, rồi cỗ quan tài biến mất đằng sau đó, cô gái chết đuối giờ đây bị ngọn lửa thiêu trụi. Những người khách lặng lẽ gượng gạo mỉm cười khách sáo với nhau sau khi ra khỏi khu hỏa táng, nán lại thêm một chút để lễ tang vốn dĩ đã sơ sài không tàn cuộc quá nhanh đến bẽ bàng. Cô của Rochelle trông lập dị, gần như bất bình thường, tự giới thiệu tên là Winifred rồi lớn giọng tuyên bố, nghe như dọa nạt:

“Bên quán xẵng bánh mì kẹp rồi đó. Tui cứ tưởng có nhìu ngừ hơn.”

Bà ta dẫn đường đi ra ngoài, như thể không chấp nhận sự phản đối nào cả, ngược lên quán Red Lion. Sáu người còn lại đi theo sau, hơi cúi đầu tránh mưa.

Món bánh mì kẹp trông khô khốc và chẳng ngon lành gì sắp sẵn trên khay bằng giấy nhôm, có bọc ni lông kín, đặt trên một chiếc bàn nhỏ trong góc quản rượu cũ kỹ. Trên đường đến quán Red Lion, Cô Winifred đã kịp nhận ra John Bristow là ai. Khi vào trong quán bà ta kè kè đi theo ông luật sư, giữ ông ta đứng mãi ở quầy bar và nói liên tu bất tận. Bristow cố trả lời mỗi khi bà ta cho phép xen vào, nhưng thỉnh thoảng ông ta lại liếc nhìn Strike cầu cứu. Hắn vẫn đang nói chuyện với bác sĩ điều trị của Rochelle. Càng về sau Bristow càng liên tục liếc về phía hắn, trông vô cùng thống thiết.

Anh chàng bác sĩ tâm thần khéo léo né tránh mọi nỗ lực của Strike khi hắn cố moi thông tin về nhóm bệnh nhân ngoại trú. Cuối cùng trược một câu hỏi về Rochelle, anh ta lịch sự nhưng cứng rắn từ chối trả lời hắn, nhắc lại nguyên tắc bảo mật thông tin bệnh nhân.

“Anh có ngạc nhiên khi nghe tin Rochelle tự tử không?”

“Không, không ngạc nhiên mấy. Cô ấy có rất nhiều vấn đề, anh biết rồi đó. Rồi vụ Lula Landry cũng làm Rochelle bị sốc nặng.”

Không lâu sau đó anh ta chào tạm biệt rồi ra về.

Robin cố bắt chuyện với Alison ở bàn nhỏ cạnh cửa sổ, nhưng bà ta cứ trả lời nhát gừng. Cô bỏ cuộc, đi vào nhà vệ sinh.

Strike đi qua sảnh nhỏ, ngồi vào ghế Robin vừa đi khỏi. Alison nhìn hắn, không lấy gì làm thân thiện, rồi quay lại dán mắt về phía Bristow vẫn đang bị bà cô của Rochelle thuyết giáo. Alison không mở nút áo đi mưa. Một ly rượu nhỏ, có vẻ là rượu port đặt trên bàn ngay trước mặt bà ta. Miệng Alison thoáng cười khinh khỉnh, vẻ như mọi thứ xung quanh toàn là rơm rác. Strike vẫn còn đang nghĩ cách bắt chuyện thì bà ta đột ngột lên tiếng trước:

“Đáng ra sáng nay John phải đi họp với đại diện Conway Oates chứ. Ông ấy để Tony đi một mình. Tony giận lắm.”

Giọng bà ta như ám chỉ rằng Strike có trách nhiệm trong vụ này. Và hắn phải biết được hắn đã gây rắc rối như thế nào. Bà ta nhấp một ngụm port. Tóc Alison đổ xuống vai, đôi bàn tay to của bà ta khiến cái ly trông nhỏ xíu. Vẻ ngoài tầm thường thô kệch không khiến Alison chìm lẫn giữa đám đông, mà lại làm toát lên ở bà ta vẻ trịch thượng.

“Chị không nghĩ John đến dự đám tang vậy cũng là tử tế hay sao?” Strike hỏi.

Alison hừ một tiếng, cười nhạt.

“Có phải như ông ấy thân thiết gì con bé này đâu.”

“Thế tại sao chị lại đi cùng?”

“Tony muốn tôi đi.”

Strike để ý thấy vẻ lúng túng nhưng trìu mến trong cách bà ta gọi tên ông sếp.

“Tại sao vậy?”

“Cần để mắt đến John.”

“Tony nghĩ cần phải trông chừng John à?”

Bà ta không trả lời.

“John và Tony cùng dùng chị phải không?”

“Anh nói gì?” Bà ta hỏi, gay gắt.

Strike thấy nhẹ nhõm vì đã phá được cái vỏ bình tĩnh của bà ta.

“Ý tôi là họ cùng dùng chị làm thư ký đó?”

“À, ờ, không phải vậy. Tôi làm việc cho Tony và Cyprian; tôi là thư ký của thành viên cấp cao.”

“Ra vậy. Tại sao tôi cứ nghĩ chị cũng là thư ký của John nhỉ?”

“Tôi làm việc ở mảng hoàn toàn khác,” Alison nói. “John dùng tổ thư ký chung của công ty. Tôi không dính gì đến ông ấy trong công việc cả.”

“Vậy mà tình yêu nảy nở xuyên qua phòng ban và các tầng lầu?”

Bà ta đáp lại câu bông lơn rẻ tiền của hắn bằng cách im lặng, tiếp tục tỏ thái độ khinh khỉnh. Dường như Alison chỉ coi Strike như một tên ưa gây sự, du thủ du thực, không đáng phải giữ phép tắc trước mặt hắn.

Ông nhân viên nhà trọ đứng một mình trong góc, ăn bánh mì, rõ là đang cố gϊếŧ thời gian cho đến lúc có thể cáo lui một cách lịch sự. Robin đi ra khỏi nhà vệ sinh, ngay lập tức bị Bristow cầu cứu. Có vẻ như ông ta chịu hết nổi Cô Winifred.

“Vậy chị với John được bao lâu rồi?” Strike hỏi.

“Vài tháng.”

“Hai người bắt đầu quen nhau trước khi Lula chết, phải không?”

“Không lâu sau đó ông ấy ngỏ lời với tôi,” bà ta nói.

“Chắc lúc đó ông ấy buồn lắm nhỉ?”

“Suy sụp.”

Giọng bà ta chẳng có gì là cảm thông, mà hơi khinh thường.

“Trước đó ông ấy tán tỉnh chị có lâu không?”

Hắn nghĩ bà ta sẽ từ chối trả lời. Nhưng hắn sai. Mặc dù cố làm ra vẻ thản nhiên, câu trả lời của Alison tỏ rõ sự thỏa mãn, tự đắc không lẫn vào đâu được.

“Ông ấy đi lên lầu gặp Tony. Tony đang bận, nên John đứng chờ trong văn phòng của tôi. Rồi bắt đầu nói về cô em gái, rồi bị xúc động mạnh. Tôi đưa khăn giấy cho ông ấy, rồi ông ấy mời tôi đi ăn tối.”

Mặc dù Alison có vẻ chẳng tha thiết gì với Bristow, Strike vẫn cảm thấy bà ta hãnh diện trước lời mời ấy, như vừa được trao giải gì đó. Strike tự hỏi không biết trước Bristow đã có người nào mời bà ta đi ăn tối hay chưa. Một sự giao thoa giữa hai con người có nhu cầu không bình thường: Tôi đưa khăn giấy cho ông ấy, rồi ông ấy mời tôi đi ăn tối.

Ông nhân viên nhà trọ bắt đầu cài nút áo khoác. Bắt gặp ánh mắt của Strike, ông ta vẫy tay chào rồi ra về mà không nói gì với ai.

“Vậy ông sếp lớn thấy sao khi cô thư ký hẹn hò với cháu trai của mình?”

“Tony không có quyền ý kiến về chuyện riêng tư của tôi,” bà ta nói.

“Cũng đúng,” Strike nói tiếp, “Dù sao thì, Tony lấy tư cách gì mà lên án chuyện lẫn lộn giữa làm ăn và bồ bịch, phải vậy không? Nhất là khi ổng đang ngủ với vợ của Cyprian May.”

Giọng thản nhiên của Strike khiến trong giây lát Alison không kịp để ý thấy hắn vừa nói gì, toan mở miệng đáp trả. Và khi nhận ra ý nghĩa của câu nói, sự tự tin của Alison hoàn toàn bị bóp vụn.

“Không đúng!” Bà ta giận dữ nói, mặt bừng bừng. “Ai nói với anh vậy? Dối trá. Đặt điều. Không đúng. Không đúng tí nào cả.”

Trong sự phản đối của Alison có cả nỗi sợ hãi của một đứa trẻ.

“Vậy sao? Vậy thì tại sao Cyprian May lại sai chị đi xuống Oxford để tìm Tony vào ngày Bảy tháng Giêng?”

“Chuyện đó… chỉ vì… ông ấy quên đưa Tony ký mấy thứ giấy tờ quan trọng, có vậy thôi.”

“Và ông May không dùng máy fax hay chuyển phát nhanh bởi vì…?”

“Giấy tờ nhạy cảm.”

“Alison,” Strike lên tiếng, thích thú trước sự bối rối của bà thư ký, “cả hai chúng ta đều biết lý do chị đưa ra rất vớ vẩn. Cyprian nghi là Tony đã chuồn đi đâu với Ursula ngày hôm đó, không phải vậy sao?”

“Không phải! Không có chuyện đó!”

Ở quầy bar, Cô Winifred vừa nói vừa hăng hái vẫy tay như hai cánh quạt cối xay gió về phía Bristow và Robin. Hai người cười gượng chịu trận.

“Chị gặp Tony ở Oxford đúng không?”

“Không, bởi vì…”

“Chị tới nơi lúc mấy giờ?”

“Khoảng mười một giờ, nhưng ông ấy đã…”

“Hẳn là chị vừa đến công ty thì Cyprian sai đi ngay, đúng không?”

“Giấy tờ đó rất khẩn.”

“Nhưng chị không gặp được Tony ở cả khách sạn và trung tâʍ ɦội thảo?”

“Tôi lỡ mất ông ấy,” bà ta nói, tức tối bất lực, “vì ông ấy vừa quay lại London để thăm phu nhân Bristow.”

“À,” Strike đáp. “Đúng rồi. Ổng không nói với chị hay Cyprian là đang trên đường về London à, kể cũng hơi lạ nhỉ?”

“Ừ,” bà ta đáp, cố lấy lại vẻ trịch thượng lúc nãy. “Nhưng tôi liên lạc được. Ông ấy không tắt điện thoại. Có gì đâu.”

“Chị có gọi vào máy di động của ông ta không?”

Alison không trả lời.

“Chị gọi mà không ai bốc máy hả?”

Bà ta im lặng nhấp rượu port, mặt mày sưng sỉa.

“Thì cũng đúng thôi, khi đang hành sự mà phải nghe điện thoại của thư ký thì mất hứng quá còn gì.”

Hắn đoán bà ta sẽ thấy xúc phạm nặng nề. Hắn không phải thất vọng.

“Anh là cái đồ gớm ghiếc. Thật quá thể.” Giọng bà ta ồm ồm, gò má đỏ sẫm, xấu hổ nhưng vẫn cố khoác cái vẻ cao kỳ.

“Chị sống một mình à?” Hắn hỏi.

“Chuyện đó thì liên quan gì?” Bà ta hỏi lại, lúc này Alison đã hoàn toàn mất bình tĩnh.

“Hỏi vậy thôi. Vậy chị không thấy có gì kỳ lạ sao, Tony nhận phòng khách sạn ở Oxford trong đêm, rồi sáng hôm sau lái xe về London, rồi trở lại Oxford, chỉ vừa kịp trả phòng khách sạn ngày hôm sau?”

“Ông ấy trở lại Oxford để dự hội thảo buổi chiều,” Bà ta vẫn khăng khăng.

“Ồ, vậy sau? Chị có ở lại gặp ổng ở đó không?”

“Ông ấy có ở đó,” bà ta trả lời, lẩn tránh.

“Chị có bằng chứng à?”

Bà ta không nói gì cả.

“Vậy thì,” Strike nói, “chị thấy chuyện nào nghe được hơn, Tony lên giường với Ursula cả ngày hôm đó, hay bận về nhà hoạnh họe cô cháu gái?”

Ở quầy bar, Cô Winifred đưa tay vuốt chiếc mũ len và siết lại thắt lưng. Có vẻ như bà cô đang chuẩn bị ra về.

Trong vài giây Alison bình tĩnh lại. Và rồi, như giải tỏa một nỗi lòng bị kiềm nén lâu ngày, bà ta nói, giọng vẫn thì thầm nhưng bốc khói:

“Họ không có bồ bịch gì. Tôi biết là không có chuyện đó. Không thể được. Ursula chỉ quan tâm tới tiền, chỉ có vậy thôi, mà Tony thì không giàu có bằng Cyprian. Ursula đời nào cặp với Tony. Đời nào.”

“Ồ, nhưng biết đâu được. Nhục cảm cũng có thể lớn hơn lòng tham tiền chứ,” Strike nói, quan sát kỹ lưỡng Alison. “Cũng có thể lắm. Tôi là đàn ông thì hơi khó nhận xét, nhưng Tony trông cũng đâu đến nỗi nào, phải không?”

Hắn thấy sự đau đớn, giận dữ lộ rõ trên gương mặt Alison. Giọng bà ta nghèn nghẹn:

“Tony đã nói đúng… anh chỉ có lợi dụng thôi… chạy theo la liếʍ… John thì không bình thường… Lula nhảy lầu. Cô ta tự tử. Cô ta đã mất thăng bằng từ lâu. John rất giống mẹ, dễ bị kích động, tưởng tượng ra đủ chuyện. Lula dùng ma túy, cô ta là loại người như vậy, mất kiểm soát, lúc nào cũng gây chuyện để gây sự chú ý. Hư hỏng. Ném tiền qua cửa sổ. Cô ta muốn gì mà chẳng được, muốn ai mà không xong, nhưng bao nhiêu cũng không đủ cả.”

“Tôi không biết là chị rành Lula như vậy.”

“Tôi… Tony có nói.”

“Ông ấy không ưa gì Lula cả, đúng vậy không?”

“Ông ấy chỉ thấy đúng bản chất Lula thôi. Cô ta chẳng tốt đẹp gì. Nhiều người đàn bà,” bà ta nói, thở gấp gáp dưới chiếc áo khoác thùng thình, “chẳng ra gì.”

Một cơn gió lạnh thổi vào phòng, ngay khi cô của Rochelle vừa đẩy cửa đi ra. Bristow và Robin giữ nụ cười gượng gạo cho tới khi cánh cửa đóng hẳn, rồi nhẹ nhõm nhìn nhau.

Nhân viên quầy bar đã đi đâu mất. Trong phòng chỉ còn lại có bốn người. Strike nhận ra bản nhạc ballad thập niên 80 đang bật trong quán: bài The Power of Love của Jennifer Rush. Bristow và Robin tiến tới bàn của hai người.

“Tôi tưởng anh muốn nói chuyện với cô của Rochelle?” Bristow hỏi, trông tiu nghỉu như vừa phải chịu trận mà chẳng được gì.

“Không tới mức phải chạy theo gợi chuyện,” Strike hồ hởi trả lời. “Anh kể lại với tôi cũng được mà.”

Vẻ mặt của cả Robin và Bristow cho thấy cả hai đều nghĩ thái độ thờ ơ của Strike thật khó hiểu. Alison lục lọi gì đó trong túi xách, cúi mặt xuống.

Mưa đã tạnh, vỉa hè trơn trượt. Bầu trời ảm đạm như hứa hẹn sắp thêm một trận mưa xối xả nữa. Hai người phụ nữ đi đằng trước trong im lặng, trong khi Bristow thuật lại kỹ càng cuộc trò chuyện với Cô Winifred cho Strike. Tuy nhiên. Strike không nghe gì cả. Hắn mải nhìn tấm lưng của hai người phụ nữ đi đằng trước, đều mặc đồ đen – mới nhìn thoáng qua thì giống hệt nhau. Hắn nhớ đến chi tiết chạm trổ hình con hươu ở hai bên cổng Queen’s Gate vào công viên Hyde Park: không hề giống nhau, mặc dù con mắt lười quan sát sẽ thấy vậy. Một bên đực, một bên cái, cùng thuộc một loài nhưng khác nhau một trời một vực.

Khi Alison và Robin dừng bước bên cạnh một chiếc xe BMW mà hắn đoán là xe của Bristow, Strike cũng đi chậm lại, ngắt lời Bristow còn đang thao thao kể lại mối dây nhợ đầy sóng gió giữa Rochelle và gia đình cô ta.

“John, tôi muốn hỏi lại một chi tiết này với anh.”

“Anh cứ nói.”

“Anh nói là có nghe tiếng ông cậu đi vào nhà mẹ buổi sáng trước khi Lula chết?”

“Vâng, đúng vậy.”

“Anh có chắc người đó là Tony không?”

“Đương nhiên rồi.”

“Nhưng anh không thấy mặt, đúng không?”

“Tôi…” Gương mặt thỏ của Bristow trông như bị đánh đổ. “… không, tôi… tôi không nghĩ là có gặp cậu. Nhưng tôi nghe tiếng cậu đi vào. Tôi nghe tiếng cậu từ phòng khách.”

“Có khi nào, vì anh đang đợi Tony đến, nên anh cứ nghĩ người đó là Tony không?”

Lại im lặng.

Rồi, Bristow lạc giọng:

“Ý anh là Tony không có ở đó?”

“Tôi chỉ muốn biết anh có chắc người đó là Tony không.”

“Thì… cho tới bây giờ, tôi hoàn toàn chắc chắn. Ngoài Tony ra, không ai khác có chìa khóa vào nhà mẹ tôi. Không thể là ai khác ngoài Tony cả.”

“Vậy là anh nghe có người bước vào nhà. Anh nghe một giọng đàn ông. Người này nói chuyện với mẹ anh, hay với Lula?”

“Ơ…” Hai cái răng thỏ của Bristow lộ hẳn ra khi ông ta ngẫm nghĩ câu hỏi của Strike, “Tôi nghe tiếng ông ấy đi vào. Tôi nhớ là nghe ông ấy nói chuyện với Lula…”

“Anh có nghe tiếng ông ấy đi về không?”

“Có, tôi nghe tiếng ông ấy bước ngoài sảnh, nghe tiếng cửa đóng lại.”

“Khi Lula tạm biệt anh, cô ấy có nhắc gì đến Tony không?”

Lại im lặng. Bristow đặt tay lên miệng suy nghĩ.

“Tôi… nó ôm tôi tạm biệt, chỉ có vậy thôi… Tôi… Đúng rồi, tôi nhớ là nó nói có nói chuyện với Tony. Có không ta? Hay tôi cứ tưởng là nó đã nói chuyện với Tony vì tôi nghĩ…? Nhưng nếu người đó không phải là cậu tôi thì còn là ai được nữa?”

Strike chờ đợi. Bristow nhìn lên vỉa hè, suy nghĩ.

“Nhưng chắc phải là Tony. Lula ắt hẳn đã thấy có người vào, và thấy không có gì lạ thường, như vậy thì có thể là ai khác ngoài Tony? Còn ai nữa có chìa khóa?”

“Có bao nhiêu chìa khóa tất cả?”

“Bốn cái. Ba cái dự phòng.”

“Nhiều vậy.”

“Thì Lula, Tony và tôi mỗi người một cái. Mẹ tôi muốn tất cả tụi tôi đều có thể tự mở cửa ra vào được, nhất là khi mẹ tôi bị ốm.”

“Hiện giờ anh có biết tất cả các chìa khóa ở đâu không?”

“Biết chứ… tôi nghĩ vậy. Tôi đoán là chìa của Lula hẳn đã được trả lại cho mẹ tôi, cùng với tất cả đồ đạc của nó. Tony vẫn còn chìa của ông ấy, tôi có chìa riêng đây còn chìa của mẹ tôi… Tôi nghĩ chắc ở đâu đó trong nhà.”

“Vậy anh không nghĩ là có chìa nào bị lạc mất?”

“Không.”

“Và không ai trong số bốn người có cho người ngoài mượn chìa khóa?”

“Lạy Chúa, tại sao lại làm vậy?”

“Tôi chỉ nhớ lại file hình ảnh bị xóa từ máy tính của Lula lúc đã mang về nhà mẹ anh. Nếu có một chìa khóa nữa nằm ở đâu đó…”

“Không thể được,” Bristow nói. “Chuyện này… Tôi… tại sao anh lại nói là Tony không có ở đó? Ông ấy hẳn đã ghé qua. Chính ông ấy nói đã nhìn thấy tôi trong thư phòng kia mà.”

“Anh đi đến công ty sau khi rời nhà Lula đúng không?”

“Đúng vậy”

“Để lấy giấy tờ?”

“Đúng thế. Tôi chạy ào vào lấy. Cũng nhanh thôi.”

“Vậy anh trở lại nhà mẹ lúc…”

“Chắc chắn là chưa quá mười giờ.”

“Và cái người đi vào sau anh đó, ông ta tới đó lúc mấy giờ?”

“Chắc là… chắc là khoảng nửa tiếng sau? Thực tình tôi không nhớ rõ. Tôi không nhìn đồng hồ. Nhưng tại sao Tony lại nói là có ghé qua nếu không ghé?”

“Nếu ông ấy biết trước hôm đó anh làm việc ở nhà, ông ấy có thể dễ dàng nói rằng có ghé qua, không muốn quấy rầy anh, nên chỉ đi thẳng xuống nhà để nói chuyện với mẹ anh. Mẹ anh chắc đã xác nhận như vậy với cảnh sát rồi hả?”

“Tôi nghĩ vậy.”

“Nhưng anh không chắc?”

“Tôi không nghĩ là mẹ tôi có nhắc tới chuyện này với tôi. Lúc đó mẹ tôi rất mệt mỏi, đau đớn và mê man. Rồi sáng hôm sau thì có tin Lula…”

“Nhưng anh chưa bao giờ thấy lạ là Tony không ghé vào thư phòng để chào anh một tiếng sao?”

“Chẳng có gì lạ cả.” Bristow đáp. “Ông ta vẫn còn cay cú vụ Conway Oates. Nếu ông ta xởi lởi hơn thì mới đáng ngạc nhiên.”

“John, tôi không muốn làm anh sợ, nhưng tôi nghĩ cả anh và mẹ anh đều đang gặp nguy hiểm.”

Tiếng cười căng thẳng của Bristow nghe rất yếu ớt và không hề thuyết phục. Strike thấy Alison đang đứng cách đó khoảng bốn lăm mét, bà ta khoanh tay lại, phớt lờ Robin, tập trung quan sát hai người đàn ông.

“Anh… anh đùa à?” Bristow nói.

“Tôi nói rất nghiêm túc.”

“Nhưng… Cormoran, ý anh là anh đã biết ai gϊếŧ Lula?”

“Tôi nghĩ thế - nhưng tôi vẫn cần nói chuyện với mẹ anh, trước khi kết luận chính thức.”

Vẻ mặt của Bristow như muốn đọc hết những suy nghĩ trong đầu Strike. Cặp mắt cận của ông ta nhìn khắp mặt Strike, trông ông ta nửa sợ hãi, nửa tha thiết nài nỉ.

“Tôi phải có mặt ở đó,” ông ta nói. “Mẹ tôi yếu lắm rồi.”

“Đương nhiên rồi. Sáng mai được không?”

“Tony sẽ tức điên lên nếu tôi lại vắng mặt trong giờ làm việc.”

Strike chờ đợi.

“Được rồi,” Bristow nói. “Được rồi. Mười giờ rưỡi sáng mai vậy.”

Thêm Bình Luận