Tải app Android hoặc iOS để đọc truyện nhanh hơn

Hỗ trợ: Fanpage TruyenHD

Cô Gái Trong Lồng

Chương 37

« Chương TrướcChương Tiếp »
Carl ngồi vào bàn ăn sáng với thực quản bỏng rát vì dịch vị trào ngược và đôi vai nặng trĩu do buồn ngủ. Cả Morten lẫn Jesper đều không nói lời nào với anh. Chuyện này là bình thường đối với thằng

con riêng của vợ anh, nhưng khá đáng ngại đối với người khách thuê nhà của anh.

Tờ báo sáng đang nằm gọn ghẽ nơi góc bàn, và câu chuyện trang nhất là vụ từ chức của Tage Baggesen vì lý do sức khỏe. Morten vẫn im lặng cắm mặt xuống đĩa, nhai nuốt một cách đều đặn, khi Carl giở đến trang sáu và ngỡ ngàng nhìn hình ảnh của mình.

Đó vẫn là hình ảnh được tờ Gossip sử dụng hôm trước, nhưng lần này bên cạnh nó là một tấm ảnh ngoài trời chụp Uffe Lynggaard. Bên dưới hai bức ảnh là những dòng chữ không hề dễ nghe chút nào:

“Lãnh đạo đơn vị Q người phụ trách việc điều tra các vụ án được đảng Tổ quốc xếp vào diện “cần xem xét đặc biệt”, đã thu hút sự chú ý của báo giới trong hai ngày vừa qua, theo cách vô cùng thảm hại”.

Bài báo không tập trung vào vụ việc được tờ Gossip nêu ra, nhưng người viết đã thực hiện một số cuộc phỏng vấn với những nhân viên làm việc tại Egely, và tất cả đều phàn nàn về lối làm việc thô bạo của Carl. Họ cũng quy trách nhiệm cho anh về vụ biến mất của Uffe. Y tá trưởng tỏ ra vô cùng tức giận. Bà ta dùng những từ ngữ như “lạm dụng sự giúp đỡ của chúng tôi” “bạo hành tâm lý” và “gian lận”. Bài báo kết lại bằng câu: “Đến khi bài báo này lên khuôn, chúng tôi vẫn chưa nhận được bất kỳ bình luận gì từ sở cảnh sát”.

Ngay cả trong các bộ phim cao bồi viễn tây cũng khó có thể tìm ra một kẻ gian xảo hơn Carl Mørck. Một nỗ lực viết báo đáng khen, căn cứ theo những gì đã thực sự diễn ra.

- Hôm nay con có kỳ thì cuối học kỳ. - Jesper lên tiếng, lôi Carl về với thực tại. Anh hé nhìn thằng bé qua mép trên của tờ báo.

- Môn gì thế?

- Toán ạ.

Nghe chừng không ổn.

- Con ôn bài chưa?

Jesper nhún vai đứng dậy. Như thường lệ, thằng bé không mảy may quan tâm đến chỗ dao nĩa được nó sử dụng để phết bơ trát mứt và đống hỗn độn mà nó bỏ lại trên bàn.

- Khoan đã, Jesper. - Carl nói. - Thái độ này là sao? Jesper quay lại nhìn anh.

- Nếu con không thì tốt, con sẽ không vào được trường trung học. Chán!

Carl hình dung ra khuôn mặt đầy trách móc của Vigga và hạ tờ báo xuống. Chổ acid trào ngược bắt đầu làm anh thấy đau thực sự.

Ngay từ bãi đậu xe, Carl đã nghe thấy người khác đùa cợt về vụ phá hoại dữ liệu hôm qua. Hai người trong số họ không biết phải làm gì ngày hôm nay. Công việc của một người là cấp giấy phép xây dựng, còn việc của người kia liên quan tới chỉ trả bảo hiểm y tế. Cả hai người họ vãn thường phải ngồi làm việc trên máy tính cả ngày.

Đài radio trên xe ra rả những chỉ trích của các thị trưởng về việc tổ chức lại các đơn vị hành chính của chính phủ, điều khơi mào cho toàn bộ những rắc rối hiện tại. Nhiều người dần gọi đến đài để càm ràm về tình trạng khốn khổ vốn đã trầm trọng do quá tải của các nhân viên hành chính cấp thành phố. Nếu thủ

phạm của vụ hack dữ liệu dám thò mặt tới một trong các tòa thị chính bị ảnh hưởng nặng nề thì khoa cấp cứu của bệnh viện gần nhất chắc chắn sẽ có việc để làm ngay.

Tại trụ sở cảnh sát, mọi người đang khấp khởi hi vọng. Kẻ phá hoại đã bị bắt giữ. Ngay sau khi buộc bà ta - một phụ nữ lớn tuổi từng là lập trình viên trong Bộ Nội vụ - giải thích cách khắc phục thiệt hại, họ sẽ công khai toàn bộ sự việc. Chỉ vài giờ nữa tất cả sẽ trở về bình thường. Sự kiểm soát mà nhiều người đang kêu ca của đám công chức chính phủ đã được tái lập.

Người đàn bà tội nghiệp.

Thật lạ khi Carl có thể đi xuống hầm mà không chạm mặt bất kỳ đồng nghiệp nào. Càng tốt. Nhưng anh thừa biết tin tức về vụ việc xảy ra tại dưỡng trí viện ở bắc Zealand đã được truyền tới mọi ngõ ngách trong tòa nhà đồ sộ này.

Anh chỉ hi vọng rằng cuộc họp sáng thứ Tư giữa Marcus Jacobsen với giám đốc sở và các sếp cảnh sát khác sẽ không hoàn toàn tập trung vào chuyện của anh.

Carl tìm thấy Assad trong phòng làm việc của anh chàng và lập tức nổi trận lôi đình.

Assad đã tỏ ra choáng váng chỉ sau vài giây. Anh chàng trợ lý vui vẻ chưa bao giờ chứng kiến khía cạnh dữ dội trong con người của sếp mình.

- Anh đã nói dối tôi, Assad. - Carl quát to, mắt nhìn thẳng vào anh ta. - Anh chưa bao giờ nhắc tới vụ án mạng người đi xe đạp với Hardy. Anh đã tự rút ra các kết luận, và chúng không sai, nhưng anh đã không nói với tôi. Đây là chuyện không thể chấp nhận được, anh có nghe không? Tôi sẽ không bỏ qua.

Carl gần như có thể nghe thấy tiếng răng rắc trong đầu Assad. Điều gì đang diễn ra trong đó? Anh ta có đang cảm thấy tội lỗi hay không?

Carl quyết định bồi thêm cú nữa.

- Đừng nói gì cả, Assad! Anh sẽ không lừa bịp tôi được nữa đâu. Thực ra anh là ai? Tôi rất muốn biết. Anh làm gì trong những lúc giả vờ đi thăm Hardy? - Carl gạt phắt khi Assad mở miệng định phản đối. - Phải rồi, tôi biết anh có đến đó, nhưng không bao giờ ở lại lâu cả. Anh giải thích đi, Assad. Chuyện này là thế nào?

Im lặng không thể che giấu được sự căng thẳng của Assad. Carl nhìn thấy trong vẻ mặt điềm tĩnh của anh ta hình ảnh của một con thú bị săn đuổi. Nếu không phải là đồng nghiệp, chắc Assad đã lao vào siết cổ anh.

- Khoan đã. - Carl nói. Anh quay về phía máy tính và mở trang Google lên. - Tôi có một vài câu hỏi dành cho anh. Hiểu chưa?

Assad không đáp.

- Anh có nghe tôi nói không đấy?

Assad lí nhí gì đó không rõ trong tiếng rì rì của máy tính. Hình như anh ta đáp có.

- Hồ sơ của anh cho thấy anh cùng vợ và hai con gái tới Đan Mạch vào năm 1998. Cả gia đình ở trong trại tị nạn từ năm 1998 cho tới năm 2000, khi được chấp thuận cho lưu trú tại Đan Mạch.

Assad gật đầu.

- Nhanh ghê nhỉ.

- Hồi đó như vậy là bình thường mà sếp. Giờ tình hình đã khác.

- Anh đến từ Syria. Cụ thể là thành phố nào? Trong hồ sơ không thấy ghi. Carl quay lại và thấy khuôn mặt của Assad sa sầm hơn bao giờ hết.

- Tôi đang bị thẩm vấn à?

- Có thể nói như vậy. Anh định phàn đối sao?

- Có nhiều chuyện tôi không muốn cho anh biết. Hãy tôn trọng điều đó. Tôi đã có một cuộc sống tệ hại.

Nhưng nó là của tôi, không phải của anh.

- Tôi hiểu. Nhưng anh đến từ thành phố nào? Câu hỏi khó trả lời đến vậy sao?

- Tôi đến từ ngoại ô Sab Abar.

Carl nhập cái tên đó vào ô tìm kiếm.

- Nó ở giữa đồng không mông quạnh.

- Thì tôi có nói ngược lại đâu?

- Từ Damas tới Sab Abar là bao xa?

- Đi mất một ngày trời. Hơn hai trăm cây số.

- Một ngày đi đường cơ á?

- Ở đó cái gì cũng mất thời gian. Đầu tiên phải đi qua thành phố, sau đó là qua núi.

Địa hình trùng khớp với những gì Carl thấy trên Google Earth. Thật khó mà tìm được nơi nào hoang vu hơn thế.

- Tên anh là Hafez el-Assad. Ít nhất thì nó cũng được ghi như thế trong hồ sơ của Sở Di trú. - Carl nhập cái tên đó vào Google và tìm thấy ngay lập tức. - Không phải đấy là một cái tên mang tới xui xẻo hay sao?

Assad nhún vai.

- Tên của nhà độc tài đã cai trị Syria từ hai mươi năm nay! Cha mẹ của anh có phải là thành viên đảng Baath không?

- Có.

- Vậy là anh được đặt tên theo ông ta?

- Có thể nói là trong gia đình tôi có nhiều người được đặt tên như vậy.

Carl nhìn vào đôi mắt đen của Assad, chủ nhân của chúng rõ ràng không ở trong tình trạng thường lệ.

- Ai là người kế tục Hafez el-Assad? - Carl đột ngột hỏi. Assad trả lời không chớp mắt:

- Con trai ông ta, Bashar. Chúng ta có nên dừng chuyện này lại không? Chẳng hay ho gì đâu.

- Có thể anh đúng. Anh cho tôi biết tên của người con trai cả của ông ta, người bị chết trong một tai nạn xe hơi vào năm 1994.

- Ngay lúc này thì tôi không nhớ được.

- Anh không nhớ? Lạ nhỉ. Ở đây có viết rằng anh ta là người được cha mình lựa chọn để kế tục sự nghiệp. Tên anh ta là Bassel. Tôi tưởng mọi người Syria ở tuổi anh đều có thể dễ dàng nói cho tôi biết tên của anh ta.

- Đúng. Tên anh ta là Bassel. - Assad gật đầu. - Nhưng tôi đã quên nhiều thứ. Tôi không muốn nhớ chúng.

Tôi đã… - Anh loay hoay tìm một chữ phù hợp.

- Xóa bỏ chúng?

- Vâng, tôi nghĩ là vậy.

Nếu thế thì mình sẽ không thể tiến xa hơn được, Carl nghĩ bụng. Anh bèn thay đổi chiến thuật.

- Anh có biết tôi nghĩ gì không, Assad? Tôi nghĩ anh đang nói dối. Tên của anh không phải là Hafez el- Assad. Đó chỉ là cái tên đầu tiên hiện lên trong óc khi anh xin tị nạn. Tôi nói thế có đúng không? Tôi có thể hình dung cái tay làm giấy tờ giả cho anh đã bật cười ha hả vì cái tên này, đúng không? Thậm chí anh ta cũng có thể chính là người đã giúp chúng ta xử lý danh bạ điện thoại của Merete. Tôi có nhầm không?

- Tôi nghĩ chúng ta nên dừng ở đây.

- Thực ra anh từ đâu tới, Assad? Ồ, tôi đã quen với cách gọi như vậy, trong khi đó chỉ là họ của anh. Có phải vậy không, Hafez?

- Tôi là người Syria, và tôi đến từ Sab Abar.

- Ý anh là ngoại ô của Sab Abar?

- Phải, phía đông bắc của thành phố.

Tất cả nghe rất đáng tin, nhưng Carl chưa chịu chấp nhận mọi thứ một cách đơn giản như vậy. Mười năm trước, khi anh chưa trải qua hàng trăm buổi thẩm vấn thì có thể. Giờ thì không. Bản năng cảnh sát trong anh đang sôi sục. Phản ứng của Assad có gì đó không ổn.

- Thật ra anh đến từ Iraq, đúng không? Và anh có những bí mật có thể làm anh bị trục xuất khỏi Đan Mạch, nếu tôi không nhầm?

Nét mặt của Assad lại thay đổi. Những nếp nhăn trên trán anh ta giãn ra. Hoặc anh ta đã nhìn thấy lối thoát, hoặc anh ta chỉ nói sự thật.

- Iraq? Không hề. Anh đang tỏ ra ngớ ngẩn đấy. - Assad tỏ ra khó chịu. - Mời anh đến nhà tôi xem tận

mắt. Khi rời bỏ quê hương, tôi có mang theo một chiếc va li. Anh có thể nói chuyện với vợ tôi. Cô ấy hiểu được chút ít tiếng Anh. Hoặc với các con gái của tôi. Anh sẽ thấy những gì tôi đang nói với anh đều đúng sự thật. Tôi là một người tị nạn chính trị, và tôi đã trải qua nhiều điều tồi tệ. Tôi không muốn nhắc đến chúng, nên tôi xin anh, hãy để tôi yên có được không? Đúng là tôi đã không ở bên Hardy lâu như cách nói của tôi, nhưng Hornbæk xa đây lắm, đi tới đó mất nhiều thời gian lắm. Tôi đang cố giúp cậu em trai tới Đan Mạch, và chuyện đó cũng tốn nhiều thời gian. Tôi xin lỗi. Từ nay về sau, tôi sẽ nói thẳng với anh mọi chuyện.

Carl ngửa người ra sau. Anh chỉ muốn nhúng bộ óc hoài nghi của mình vào món nước trà ngọt như đường mà Assad vẫn pha.

- Tôi không hiểu làm thế nào anh có thể thích nghi với công việc của cảnh sát nhanh như vậy. Tôi rất trân trọng sự giúp sức của anh. Anh là một người tinh ranh, nhưng có kỹ năng. Những cái đó từ đâu mà ra vậy?

- Tinh ranh? Nghĩa là sao? Nó có liên quan với yêu tinh hay ma quỷ à?

Assad nhìn Carl với ánh mắt ngây thơ. Phải, anh ta có kỹ năng. Có lẽ đó là một năng khiếu. Có lẽ mọi điều anh ta nói đều là sự thật và anh đã trở thành một kẻ đa nghi nhiễu sự.

- Trong hồ sơ của anh không thấy ghi gì về học vấn. Anh học chuyên ngành gì vậy? Assad nhún vai.

- Tôi có học hành gì nhiều đâu. Bố tôi là chủ một công ty nhỏ buôn bán đồ thiếc. Tôi biết một lon cà chua

hầm có thể chịu được nhiệt độ 50 độ c trong bao lâu.

Carl gượng cười.

- Thế rồi anh đã tham gia chính trị, và cái tên của anh đã làm anh mang họa. Có phải thế không?

- Phải, đại loại là như thế.

- Người ta đã tra tấn anh?

- Vâng. Sếp à, tôi không muốn nhắc tới chuyện đó. Anh không biết khi buồn tôi sẽ thế nào đâu. Tôi không thể nói về chuyện đó, OK?

- OK. - Carl gật đầu. - Nhưng từ giờ trở đi, anh sẽ báo cáo với tôi tất cả những gì anh làm trong giờ làm việc. Anh hiểu chưa?

Assad giơ một ngón tay cái.

Ánh mắt của Carl thôi không nhìn xoáy vào Assad nữa. Rồi anh giơ tay lên để đập tay một cái với người trợ lý. Anh chàng hưởng ứng ngay.

Mọi chuyện thế là xong.

- Được rồi, Assad. Ta tiếp tục thôi. Chúng ta còn những việc khác phải làm. - Carl nói. - Chúng ta cần phải tìm ra gã Lars Henrik Jensen này. Tôi hi vọng ta sẽ sớm truy cập được vào hệ thống dữ liệu, nhưng từ giờ cho tới lúc đó, hãy cố tìm ra mẹ của hắn, Ulla Jensen. Một người ở Risø… - Anh thấy Assad tỏ ra ngơ ngác không biết Risø là gì, nhưng chưa vội giải thích. - … Ông ta đã cho tôi biết bà ta sống ở phía nam Copenhagen.



- Ulla Jensen có phải là một cái tên thông dụng không? Carl lắc đầu.

- Giờ thì chúng ta đã biết tên công ty của chồng bà ta, chúng ta có nhiều hướng để đi tìm lắm. Trước hết, tôi sẽ gọi cho Cục quản lý Doanh nghiệp. Chúng ta chỉ có thể hi vọng bọn họ không bị hack dữ liệu. Trong lúc đó, anh hãy tìm kiếm trong danh bạ cái tên Ulla Jensen. Thử với Brøndbyerne, rồi đi dấn xuống phía nam. Vallensbaek hoặc Glostrup, Tåstrup, Greve-Kildebrønde chẳng hạn. Đừng tìm xuống tới Køge, vì đó là nơi đặt trụ sở cũ của công ty. Nó sẽ nằm về phía bắc so với chỗ đó.

Assad nom có vẻ nhẹ nhõm. Khi sắp bước ra khỏi cửa, anh chàng bỗng quay lại và ôm Carl một cái. Hàm râu cắt ngắn của Assad châm chích như những mũi kim, loại nước thơm anh dùng sau khi cạo râu là một thương hiệu rẻ tiền, nhưng sự chân thành của anh là rõ ràng.

Carl xúc động ngồi yên tại bàn làm việc một lúc, sau khi Assad đã quay về cái buồng bé tí của mình ở bên kia hành lang. Anh có cảm giác như đã tìm lại được ê-kíp làm việc cũ.

Câu trả lời đến từ cả hai nguồn. Cục quản lý Doanh nghiệp không hề bị gián đoạn hoạt động trong vụ tấn công mạng, và chỉ mất năm giây thao tác với bàn phím là họ đã tìm ra các thông tin về HJ Industries. Nó

thuộc sở hữu của Trabeka Holding, một công ty của Đức, và họ sẵn lòng tìm thêm thông tin về công ty mẹ này nếu Carl quan tâm. Họ không rõ người chủ sở hũu công ty là ai, nhưng có thể tìm ra nếu liên hệ với các đồng sự bên Đức. Sau khi được cung cấp địa chỉ của HJ Industries, Carl gọi với sang cho Assad để bảo anh ngừng tìm kiếm, nhưng Assad nói rằng mình cũng đã tìm được vài địa chỉ.

Hai người đối chiếu các kết quả với nhau. Không còn nghi ngờ gì nữa, Ulla Jensen vẫn sống tại địa chỉ của HJ Industries sau khi nó phá sản, nằm trên đường Strøhusvej, ở Greve.

Carl nhìn lên bản đồ. Nó chỉ cách xa lộ Landevej nơi Daniel Hale bị cháy thành than có vài trăm mét.

Anh vẫn còn nhớ lúc mình đứng đó quan sát đồng ruộng xung quanh cùng với Assad.

Anh cảm thấy adrenaline chảy rần rật. Giờ đây họ đã có một địa chỉ. Và họ chỉ mất hai mươi phút để lái xe tới đó.

- Chúng ta có nên gọi cho họ trước không sếp? - Assad đưa cho Carl số điện thoại.

Anh ngây ra nhìn anh chàng trợ lý. Không phải lúc nào Assad cũng nói ra những lời khôn ngoan.

- Ý hay đó, Assad, nếu chúng ta muốn tham quan một căn nhà trống.

Trước kia hẳn nơi đây từng là một nông trại bình thường với một ngôi nhà để ở, một chuồng lợn và kho thóc nằm vầy quanh khoảng sân lát đá. Ngôi nhà nằm gần đường đến nỗi họ có thể nhìn vào trong các phòng. Phía sau các ngôi nhà quét vôi trắng là ba hay bốn tòa nhà lớn hơn. Hai trong số đó hình như chưa bao giờ được sử dụng, nhất là một công trình cao chừng mười đến mười hai mét, với những cái lỗ toang hoác lẽ ra được lắp cửa sổ. Không thể hiểu được tại sao chính quyền tại đây lại cho phép một thứ như thế được xây dựng. Nó hoàn toàn phá hỏng quang cảnh thôn quê, nơi màu vàng hoa cải được phối với những trảng cỏ xanh rì theo cách mà không bức vẽ nào diễn tả được.

Carl quan sát một lúc nhưng không thấy ai cà. Kể cả khu vực gần các tòa nhà cũng vậy. Mảnh sân dường như cũng bị bỏ bê giống như những thứ khác. Lớp vôi quét trên các bức tường bong tróc loang lổ. Nằm ở xa hơn một chút về phía đông, ngay bên cạnh con đường, là những đống rác và xà bần. Nếu không có những khóm bó công anh và những cái cây ăn quả đang đơm hoa vươn cao trên lớp mái tôn sống xi mãng thì toàn bộ chỗ này trông thật ảm đạm.

- Trong sân không có chiếc xe nào. - Assad lên tiếng. - Chắc đã từ lâu nơi này không có người ở.

Carl nghiến răng, cố đè nén sự thất vọng. Lars Henrik Jensen không sống ở đây, tiếng nói trong anh thì thầm như thế. Chết tiệt. Chết tiệt. Chết tiệt.

- Assad, ta vào trong xem qua một vòng nào.

Nói đoạn Carl dừng xe bên vệ đường, cách ngôi nhà khoảng năm mươi mét.

Hai người im lặng bước đi. Vượt qua hàng dậu thấp, họ tiếp cận phía sau nhà và một khu vườn, nơi các bụi cây ăn quả tranh giành lãnh thổ với cỏ dại. Những ô cửa sổ của ngôi nhà bám đầy bụi bẩn và ngả màu xám vi thời gian. Mọi thứ dường như đã chết.

- Anh nhìn này. - Assad thì thào, mũi áp vào một tấm kính cửa sổ.

Carl ghé mắt quan sát. Bên trong nhà dường như cũng bị bỏ hoang. Nom nó giống như lâu đài của công chúa ngủ trong rừng, ngoại trừ việc nó xấu hơn nhiều và không có các bụi cây gai. Bụi phủ dày trên những chiếc bàn, sách báo và các loại giấy tờ. Trong một góc phòng nằm chất đống nhiều thùng giấy chưa mở cùng những cuộn thảm trải sàn.

Nơi đây, cuộc sống của một gia đình đã bị gián đoạn giữa một thời kỳ hạnh phúc hơn bây giờ.

- Assad, tôi nghĩ họ đang dọn đến đây thì vụ tai nạn xảy ra. Ông kỹ sư ở Risø cũng nói như vậy.

- Vâng, nhưng anh nhìn đằng kia kìa.

Assad chỉ về phía một khung cửa mờ phía bên kia phòng. Ánh sáng đang tràn trề, và mặt sàn bên kia cửa sạch bóng.

- Phải rồi. - Carl đáp. - Nhìn nó khác hẳn.

Họ băng qua một vườn rau, nơi những con ong đang vờn quanh các bụi hành tăm nở hoa, và sang phía bên kia của ngôi nhà nằm trong góc sân.

Carl di chuyển lại gần những ô cửa sổ chốt chặt. Qua lớp kính, anh thoáng nhìn được những bức tường trống và vài chiếc ghế. Anh áp trán vào kính và trông thấy căn phòng rõ hơn. Chắc chắn có người đang

sống ở đây. Anh ghi nhận hai chiếc áo sơ mi vứt dưới sàn, chăn gối trên nệm giường bị xô lệch, và vắt trên đó là một bộ quần áo ngủ mà anh chắc chắn đã nhìn thấy trong một catalogue trước đó không lâu.

Carl tập trung kiểm soát hơi thở và theo bản năng đặt tay vào thắt lưng, nơi anh đeo khẩu súng công vụ trong nhiều năm. Nhưng đã mấy tháng nay anh không mang nó theo.

- Ai đó đã ngủ trên cái giường kia mới đây. - Carl nói khẽ với Assad, người lúc này đang nhòm qua cửa sổ cách chỗ anh đứng một quãng.

- Ở bên này cũng có người ở. - Assad thông báo.

Carl tiến lại gần và nhòm vào trong. Assad nói đúng. Căn bếp sạch sẽ và ngăn nắp. Qua cánh cửa phòng nằm đối diện với họ, Carl và Assad có thể thấy phòng khách phủ đầy bụi bặm mà lúc nãy đã quan sát từ phía bên kia. Nó giống như một lăng mộ. Một nơi linh thiêng không ai được xâm phạm.

Nhưng căn bếp rõ ràng mới được sử dụng gần đây.

- Một tủ đông, cà phê trên bàn, một ấm điện. Có hai chai Coca Cola đầy ở trong góc kia nữa. - Carl nói.

Anh quay về phía chuồng lợn và các tòa nhà khác. Hai người có thể tiếp tục kiểm tra mà không cần xin lệnh khám xét của tòa án, nhưng sau này mọi hậu quả họ sẽ phải gánh chịu, vì họ không thể tuyên bố rằng mình sẽ đánh mất cơ hội nếu quay lại nơi này vào một dịp khác. Tất nhiên họ có thể chờ cho đến sáng mai. Thậm chí có khi còn tốt hơn nếu họ quay lại vào ngày mai. Biết đâu ai đó sẽ có mặt ở nhà vào lúc ấy.

Carl gật đầu. Có lẽ tốt nhất là chờ đợi và làm theo đúng quy trình pháp luật. Anh hít một hơi thật sâu.

Thật ra, anh chẳng biết mình nên làm thế nào.

Trong lúc anh đang đứng nghĩ, Assad bỗng di chuyển. Anh chàng nhanh nhẹn một cách đáng kinh ngạc, bất chấp một thân hình đồ sộ và chắc nịch. Assad mau chóng băng qua sân rồi ra ngoài đường để vẫy một người nông dân đang lái máy kéo.

Carl vội vã đuổi theo.

- Vâng. - Anh nghe thấy người nông dân đáp sau khi dừng chiếc máy kéo lại. - Bà mẹ và người con trai vẫn còn sống ở đây. Cũng hơi lạ, nhưng hình như bà ta thu xếp chỗ ở trong tòa nhà đằng kia. - Ông ta chỉ về phía tòa nhà trong cùng. - Chắc họ đang ở nhà. Sáng nay tôi đã thấy bà ta ở bên ngoài.

Carl chìa phù hiệu cảnh sát cho ông ta thấy. Ông ta lập tức tắt động cơ.

- Người con trai ấy, - Carl nói, - tên anh ta có phải là Lars Henrikjensen không? Người nông dân nheo mắt ngẫm nghĩ.

- Không, tôi không nghĩ đó là tên của cậu ta. Một người cao gầy, khá ngộ. Tên cậu ta là gì nhỉ?

- Vậy là không phải Lars Henrik?

- Không, không phải.

Lòng vòng rồi lại quay về chỗ cũ. Carl đã kinh qua cái trò tàu lượn siêu tốc này nhiều lần trước đây. Anh phát ốm và mệt mỏi vì nó rồi.

- Ông bảo là họ sống ở trong tòa nhà đằng kia á? - Carl chỉ tay.

Người nông dân gật đầu và nhổ một bãi nước bọt qua mũi chiếc máy kéo Ferguson mới cáu cạnh.

- Họ làm gì để sống? - Carl khoát tay chỉ quang cảnh đồng ruộng quanh đó.

- Tôi không biết. Tôi thuê vài mẫu đất của họ. Kristoffersen cũng thuê vài mẫu đằng kia. Họ có vài mảnh đất bỏ không để kiếm thu nhập, và bà ta chắc cũng có một ít tiền trợ cấp. Mỗi tuần hai lần, một chiếc xe mang tới các món đồ bằng nhựa để họ lau chùi, tôi đoán thế. Nó cũng đem thức ăn cho họ. Tôi nghĩ hai mẹ con cũng xoay xở để sống được bằng cách nào đó. - Ông ta bật cười. - Đây là vùng đất nông nghiệp mà. Chúng tôi có mọi thứ mình cần.

- Chiếc xe của dịch vụ công ạ?

- Không, chắc chắn là không. Nó là của một xưởng đóng tàu hay gì đó. Nó có cái dấu hiệu ở bên hông mà thỉnh thoảng các anh vẫn thấy trên các con tàu trong phim ảnh, nhưng tôi không biết nó đến từ đâu. Hàng hải là lĩnh vực mà tôi không quan tâm.

Sau khi người nông dân đã lái máy kéo chạy về phía cối xay gió, Carl và Assad kiểm tra các tòa nhà ở phía sau khu chuồng lợn. Lạ một điều là họ không nhận ra chúng từ ngoài đường, dù chúng khá lớn. Có lẽ là do hàng dậu cây mọc quá khít và đã bắt đầu trổ lá do khí hậu ấm áp.

Ngoài ba tòa nhà bao quanh khoảng sân và công trình xây dựng dang dở, còn có ba tòa nhà thấp mái bằng nằm sát nhau, bên cạnh một mảnh sân rải sỏi. Có lẽ trước kia người ta đã từng dự tính trải nhựa cho nó. Giờ đây cỏ dại đã mọc khắp nơi, chỉ chừa lại một lối đi rộng nối các tòa nhà với nhau.

Assad chỉ vào hai vệt bánh xe trên lối đi, nhưng Carl đã nhìn thấy nó trước khi được chỉ. Bề ngang của bánh xe hẹp như bánh xe đạp, nhưng chúng chạy song song với nhau. Nhiều khả năng là dấu vết của một chiếc xe lăn.

Điện thoại di động của Carl réo vang ngay khi họ tiến đến gần tòa nhà mà người nông dân đã chỉ. Anh trông thấy vẻ mặt của Assad trong lúc tự rủa mình vì đã không tắt chuông điện thoại.

Người gọi là Vigga. Không ai có năng khiếu hiện hình vào những lúc bất tiện nhất như cô ta. Vigga từng gọi điện bảo anh mua kem sữa về nhà để pha cà phê giữa lúc anh đang đứng cạnh các xác chết thối rữa. Cô ta cũng từng gọi cho anh lúc di động của anh nằm trong túi áo bên dưới một cái túi để trên xe cảnh sát, trong khi anh đang truy đuổi ráo riết một nghi phạm. Vigga rất giỏi làm chuyện đó.

Anh từ chối cuộc gọi rồi tắt chuông điện thoại.

Khi ngẩng đầu lên, mắt anh chiếu thẳng vào mắt một thanh niên cao gầy ngoài hai mươi tuổi. Đầu của cậu ta bị kéo dài một cách kỳ lạ, gần như biến dạng, và một nửa khuôn mặt bị sẹo co kéo do bỏng.

- Anh không thể vào đây. - Người thanh niên nói với một chất giọng không ra người lớn cũng chẳng ra trẻ con.

Carl giơ phù hiệu cảnh sát ra, nhưng người thanh niên có vẻ như không hiểu ý nghĩa của nó.

- Tôi là cảnh sát. - Carl nói với giọng thân thiện. - Chúng tôi muốn nói chuyện với mẹ cậu. Chúng tôi biết bà ấy sống ở đây. Tôi sẽ rất biết ơn nếu cậu xin phép mẹ cho chúng tôi được vào trong nhà một lát.

Người thanh niên tỏ ra không hể nao núng trước cái phù hiệu lẫn hai người đàn ông. Có lẽ cậu ta không phải dạng ngơ ngáo như ban đầu tỏ ra.

- Tôi sẽ phải đợi bao lâu? - Carl độp luôn.

Người thanh niên khựng lại. Sau đó cậu ta biến vào trong nhà.

Vài phút trôi qua. Carl lại cảm thấy sức ép trong l*иg ngực tăng lên. Anh rủa thầm vì đã không lấy súng công vụ của mình ra khỏi kho vũ khí ở sở cảnh sát khi quay trở lại làm việc sau đợt nghỉ ốm.

- Anh đứng sau lưng tôi nhé, Assad. - Anh nói, trong đầu thầm nghĩ đến một cái tít báo đại loại như: “Thanh tra cảnh sát đưa trợ lý ra thí mạng trong vụ nổ súng. Ngày thứ ba liên tiếp, phó chánh thanh tra cảnh sát Carl Mørck gây lùm xùm”.

Anh đẩy Assad ra sau lưng để nhấn mạnh tính chất nghiêm túc của tình thề rồi tiến đến đứng vào vị trí bên cạnh cửa. Nếu người trong nhà xuất hiện mang theo súng ngắn hay thứ gì tương tự, ít nhất đầu của Assad cũng sẽ không phải là thứ đầu tiên bị nòng súng chĩa vào.

Sau đó người thanh niên bước ra và mời họ vào nhà.

Người phụ nữ ngồi trên xe lăn, hút một điếu thuốc. Thật khó để đoán tuổi của bà ta, vì tóc bà ta bạc trắng, da dẻ nhăn nheo và xuống sắc, nhưng căn cứ theo tuổi của người con trai, bà ta không thể lớn hơn sáu mươi mốt, sáu mươi hai được. Bà ta ngồi còng lưng, đôi chân bà ta trông thật lạ lùng, tựa như hai cành cây bị bẻ đôi rồi gắn bừa lại với nhau. Vụ tai nạn xe hơi đã để lại những dấu vết đáng buồn trên thần thể của bà ta.

Carl nhìn quanh. Đó là một gian phòng rộng ít nhất hai trăm năm mươi mét vuông, trần nhà cao bốn mét, nhưng bất chấp điều đó, không gian vẫn nồng nặc mùi khói thuốc. Anh nhìn theo sợi khói xoắn xuýt từ đầu điều thuốc lên đến những ô cửa sổ trên trần. Chỉ có khoảng mười cửa sổ như vậy, nên gian phòng khá tối.

Không hề có tường ngăn cách các phòng. Gian bếp nằm gần cửa ra vào nhất, phòng vệ sinh nằm bên cạnh nó. Tiếp đến là khu tiếp khách dài khoảng mười lăm, hai mươi mét, được trang bị đồ IKEA và lót thảm rẻ tiền trên nền xi măng, kết thúc bằng không gian có lẽ được dùng để ngủ.

Ngoài mùi khói gây buồn nôn trong không khí, mọi thứ rất ngăn nắp. Đây là nơi bà ta xem ti vi, đọc báo và sử dụng phần lớn thời gian trong ngày, có lẽ vậy. Chồng đã chết, nên bây giờ bà ta phải xoay xở trong phạm vi khả năng của mình. Ít ra bà ta cũng còn được người con trai đỡ đần.

Carl trông thấy mắt Assad chậm rãi xem xét gian phòng. Có gì đó tinh ranh trong đôi mắt ấy, khi chúng lướt qua mọi thứ, thỉnh thoảng dừng lại để ghi nhận các chi tiết. Assad đang cực kỳ tập trung, hai tay buông lỏng bên người và chân đặt vững vàng trên mặt sàn.

Người phụ nữ tỏ ra khá thân thiện, mặc dù chỉ bắt tay Carl. Anh tự giới thiệu và nói bà ta không cần phải căng thẳng, vì người mà anh cần gặp là người con trai lớn Lars Henrik. Anh muốn hỏi anh ta vài câu cho đúng quy trình chứ không có gì nghiêm trọng cả. Bà có thể cho anh biết Lars Henrik hiện đang ở đâu không?

Bà mẹ mỉm cười.

- Lasse đi biển. - Bà ta nói. Vậy ra bà ta gọi con trai mình là Lasse. - Nó hiện không có nhà, nhưng sẽ quay về sau một tháng nữa. Anh có danh thϊếp không, để tôi chuyển cho nó?

- Không ạ, tiếc quá. - Carl cố nặn một nụ cười ngây thơ, nhưng không lừa được ánh mắt suy xét của bà ta.

- Tôi sẽ gửi danh thϊếp cho bà khi về đồn. Tất nhiên rồi.

Anh lại cố mỉm cười. Lần này thì nụ cười hợp lý hơn. Quy tắc vàng chính là hãy nói điều gì đó tích cực trước, sau đó mỉm cười để làm cho nó có vẻ thành thật. Đảo ngược lại thì hàm ý sẽ bị thay đổi. Xu nịnh, tán tỉnh. Để cao bản thân. Người phụ này rất sõi đời, ít nhất là vậy.

Carl làm như thể chuẩn bị ra về và nắm ống tay áo Assad.

- Được rồi, bà Jensen, cứ như thế đã. À mà con trai bà làm việc cho tàu nào vậy? Bà ta cũng đã nhận ra trình tự nói và cười của anh.

- Ồ, giá mà tôi nhớ được. Nó làm việc trên rất nhiều con tàu khác nhau.

Nói đoạn bà ta mỉm cười. Carl chưa từng thấy hàm răng nào vàng như răng của bà ta.

- Lasse là lái tàu ạ?

- Không, nó là đầu bếp. Nó nấu ăn ngon lắm. Nó luôn giỏi chuyện đó.

Carl cố gắng hình dung ra thằng bé với cánh tay đặt trên vai Dennis Knudsen. Kẻ được gọi là Atomos vì người cha quá cố chế tạo thứ gì đó cho các lò phản ứng hạt nhân. Đứa con phát huy năng khiếu nấu nướng khi nào? Tại nhà của gia đình tiếp nhận, nơi nó bị đánh đập chăng? Hay là ở Godhavn? Hay là hồi bé, lúc ở nhà với mẹ? Carl đã từng kinh qua nhiều thứ trong đời, nhưng anh không thể tráng nổi một quả trứng. Nếu không có Morten Holland thì không biết anh sẽ xoay xở thế nào.

- Con cái thành công là niềm hạnh phúc đối với người mẹ. Cậu có mong ngóng ngày gặp lại anh trai mình không? - Carl hỏi người thanh niên đang nhìn hai vị khách với ánh mất nghi ngờ như thể họ sắp ăn trộm thứ gì đó.

Ánh mắt anh chuyển sang bà mẹ, nhưng nét mặt bà ta không hề thay đổi. Vậy là đã rõ: con trai bà ta sẽ không hé răng nửa lời.

- Hiện tại thì con trai lớn của bà đang đi tàu ở biển nào?

Bà ta nhìn Carl, những chiếc răng vàng từ từ biến mất sau đôi môi khô nẻ.

- Lasse rong ruổi rất nhiều ở biển Baltic, nhưng tôi nghĩ ngay lúc này nó đang ở biển Bắc. Đôi khi nó ra đi trên một con tàu và trở về trên một tàu khác.

- Hẳn phải là một hãng tàu lớn. Bà không nhớ tên sao? Bà có thể mô tả biểu trưng của hãng tàu được không?

- Không, tôi xin lỗi. Tôi không giỏi những chuyện như thế.

Một lần nữa Carl liếc nhìn người thanh niên. Rõ ràng cậu ta biết về điều mà họ đang trao đổi với nhau.

Cậu ta có thể vẽ cái logo chết tiệt đó nếu được mẹ cho phép.



- Nhưng nó được sơn trên chiếc xe tải vẫn đến đây hai lần mỗi tuần mà. - Assad xen vào.

Một sự chen ngang không đúng lúc. Giờ thì đôi mắt của người con trai tỏ ra lo lắng, trong khi mẹ cậu ta rít một hơi thuốc dài. Khuôn mặt bà ta bị che khuất bởi đám khói thuốc dày đặc phả ra.

- Thật ra, chúng tôi không chắc về chuyện đó. - Carl tìm cách chữa cháy. - Một người hàng xóm của bà đã trông thấy nó, nhưng ông ta có thể nhầm lẫn. - Anh kéo tay Assad. - Cảm ơn bà vì đã tiếp chuyện chúng tôi hôm nay. Hãy nói Lasse gọi cho chúng tôi khi anh ấy về nhà. Khi đó chúng tôi có thể giải quyết dứt điểm một vài câu hỏi.

Họ đi ra cửa. Người phụ nữ lăn xe đi theo.

- Đẩy mẹ ra ngoài, Hans. - Bà ta nói với cậu con trai. - Mẹ cần chút không khí trong lành.

Carl biết thừa bà ta muốn quan sát cho đến khi họ rời khỏi khu nhà. Nếu có một chiếc xe trong sân trước hoặc ở đây, ngay chỗ họ đứng, thì anh đã cho rằng bà ta che giấu việc Lars Henrik Jensen đang ở trong một tòa nhà quanh đây. Nhưng bản năng mách bảo anh điều ngược lại. Người con lớn của bà ta không có nhà. Bà ta chỉ muốn tống khứ họ đi.

- Các tòa nhà ở đây rất đồ sộ. Có phải trước kia nơi này từng là một nhà máy?

Người phụ nữ đang ở ngay phía sau họ, hút một điếu thuốc khác trong khi chiếc xe lăn chầm chậm trên lối đi. Cậu con trai đẩy nó với hai bàn tay siết chặt trên tay cầm. Có vẻ như phía sau gương mặt bị tàn phá kia, cậu ta đang rất chộn rộn.

- Chồng tôi có một nhà máy sản xuất các thùng chứa đặc biệt dành cho lò phản ứng hạt nhân, chúng tôi vừa mới chuyển từ Køge về đây thì ông ấy qua đời.

- Vâng, tôi còn nhớ câu chuyện đó. Tôi rất lấy làm tiếc. - Carl chỉ tay về phía hai tòa nhà thấp trước mặt. - Có phải đó là nơi đặt dây chuyền sản xuất không?

- Phải. Ở đó và trong tòa nhà lớn. - Bà ta vừa nói vừa chỉ tay. - Kia là xưởng hàn, nơi thử áp suất đằng kia, và việc lắp ráp được tiến hành trong tòa nhà lớn. Nơi tôi ở lẽ ra được dùng để trữ các sản phẩm hoàn chỉnh.

- Sao bà không sống trong ngôi nhà nhỉ? Có vẻ nó khá xinh xắn. - Carl nói và nhận thấy một hàng xô màu xám đen ở phía trước một trong những tòa nhà. Chúng có vẻ lạc lõng so với khung cảnh. Có lẽ người chủ cũ đã bỏ chúng lại ở đó. Ở những nơi như thế này, thời gian dường như trôi đi với tốc độ sên bò.

- Ồ, tôi cũng không biết nữa. Có nhiều thứ trong ngôi nhà đó thuộc về một thời đã xa. - Còn mấy cái ngạch cửa nữa. Tôi không thể di chuyển qua chúng được. - Bà ta vừa nói vừa đập vào tay tựa của chiếc xe lăn.

Carl nhận thấy Assad đang cố kéo anh sang một bên.

- Xe của chúng ta ở kia, Assad. - Anh vừa nói vừa hất đầu về hướng ngược lại.

- Tôi chỉ muốn đi qua hàng dậu ở bên này để ra đường cho tiện. - Assad nói, nhưng Carl nhận ra ánh mắt anh chàng chiếu vào đống phế liệu nằm trên một nền bê tông.

- Chỗ rác đó đã nằm ở đó khi chúng tôi tới đây. - Người phụ nữ nói với giọng cáo lỗi, như thể nửa container rác đó có thể làm hại đến ấn tượng chung vốn đã thế thảm của chốn này.

Đó là một đống đó phế thải hỗn tạp. Trên đỉnh của nó là nhiều cái xô màu xám đen khác. Chúng không được gắn nhãn, nhưng trông giống như từng được dùng để đựng dầu, hoặc thức ăn với lượng lớn.

Carl lẽ ra đã ngăn Assad lại nếu anh đọc được suy nghĩ của anh ta, nhưng trước khi anh kịp phản ứng thì Assad đã nhảy qua mấy thanh sắt, mớ dây thừng và ống nhựa.

- Tôi rất xin lỗi bà. Cộng sự của tôi là một anh chàng thích nhặt nhạnh đồ phế thải. Anh tìm gì thế, Assad? - Carl gọi với theo.

Nhưng lúc này Assad không màng đến vai trò của mình. Anh đang lùng sục thứ gì đó. Anh đá vào đống phế liệu, xới tung vài chỗ cho đến khi thọc một tay vào và dùng sức lôi ra một tấm kim loại mỏng. Đó là một tấm biển rộng khoảng năm mươixen-ti-mét và dài ít nhất bốn mét. Anh lật nó lại. Trên đó là dòng chữ: “InterLab A/S”.

Assad nhìn Carl và nhận được một cái gật gù tán thưởng. Một phát hiện tài tình. InterLab A/S, công ty của Daniel Hale, giờ đây đã được chuyển tới slangerup. Như vậy đây là mối liên hệ trực tiếp giữa nhà Jensen và Daniel Hale.

- Công ty của chồng bà hình như không phải tên InterLab, đúng không? - Carl hỏi. Anh mỉm cười với đôi môi mím chặt của bà ta.

- Không. Đó là công ty đã bán lại cho chúng tôi khu đất và nhà xưởng này.

- Anh trai tôi làm việc tại Novo. Tôi còn nhớ anh ấy từng nhắc đến nó. - Carl thầm xin lỗi ông anh của mình, người vào lúc này có lẽ đang cho chồn ăn ở một trang trại nuôi chồn vizon tại Frederikshavn. - InterLab. Họ sản xuất enzyme thì phải?

- Nó là một công ty nghiên cứu thí nghiệm.

- Hale. Có phải tên anh ta là Daniel Hale không?

- Vâng, người đã bán lại cơ ngơi này cho chồng tôi mang họ Hale. Nhưng không phải Daniel Hale. Lúc đó

cậu ta chỉ là một cậu bé. Họ dời InterLab lên phía bắc, tới một địa điểm khác, và sau khi ông già mất, họ lại dời địa điểm một lần nữa. Nhưng đây là nơi họ khởi nghiệp. - Bà ta chỉ tay về phía đống rác.

Nếu đây là nơi họ bắt đầu gây dựng mọi thứ thì rõ ràng InterLab đã rất thành công.

Carl quan sát kỹ người phụ nữ trong khi bà ta nói chuyện. Mọi thứ đều cho thấy bà ta rất khép kín, trong khi bà ta nói rất nhiều. Bà ta có vẻ không căng thẳng mà ngược lại, rất điểm tĩnh. Bà ta kiểm soát cảm xúc rất tốt và cố tỏ ra bình thường, nhưng chính điều đó lại bất thường.

- Này, chẳng phải anh ta là người bị thiệt mạng cách nơi này không xa hay sao? - Assad đột ngột hỏi.

Lần này thì Carl thực sự muốn đá cho Assad một cú. Họ sẽ phải thảo luận về những câu nói vô ý vô tứ của anh chàng sau khi đã quay về trụ sở.

Anh quay lại nhìn các tòa nhà. Chúng ẩn chứa nhiều thứ ngoài câu chuyện về sự khánh kiệt của một gia đình. Những bể mặt xám xịt dường như mang thêm nhiều sắc thái khác. Như thể các tòa nhà đang nói chuyện với anh. Chỗ acid trong dạ dày anh dường như nhộn nhạo thêm trong lúc anh quan sát chúng.

- Hale chết rồi à? Tôi không biết đấy. - Carl liếc mắt cảnh báo Assad rồi quay về phía người phụ nữ.

- Thật hay khi tôi được tham quan nơi khởi nghiệp của InterLab. Anh tôi sẽ rất thích khi được nghe tôi kể chuyện này. Anh ấy thường xuyên nói dự định khởi nghiệp của mình. Chúng tôi xem mấy tòa nhà kia được không ạ? Chỉ ngó qua cho biết thôi, dĩ nhiên rồi.

Người phụ nữ nở một nụ cười hơi thân thiện quá mức, nó cho thấy bà ta đang suy nghĩ ngược lại. Bà ta không muốn anh nấn ná lâu thêm. Anh nên cuốn gói đi ngay.

- Ồ, tôi rất sẵn lòng, nhưng con trai tôi đã khóa cửa lại hết rồi, nên tôi không thể cho anh vào xem được. Nhưng khi nào gặp nó, anh có thể yêu cầu nó cho anh tham quan một chút. Và dẫn cả anh trai của anh theo nữa.

Assad không nói không rằng khi họ lái xe ngang qua tòa nhà còn lưu dấu vết của vụ tai nạn khiến Daniel Hale thiệt mạng.

- Chỗ này có điều gì đó rất kỳ lạ. - Carl nói. - Chúng ta cần phải quay lại cùng với lệnh khám xét.

Nhưng Assad dường như không nghe thấy. Anh chàng chỉ ngồi nhìn vào khoảng không khi họ về đến Ishøj, nơi các tòa nhà bê tông đồ sộ bắt đầu xuất hiện. Assad cũng không phản ứng khi di động của Carl rung lên và anh mò mẫm cắm tai nghe.

- Alo. - Carl lên tiếng, chờ đợi nghe một tràng liến thoắng chói tai từ Vigga. Anh biết tại sao cô ta gọi điện. Lại có chuyện không Ổn. Buổi khai trương đã được dời sang ngày hôm nay. Cái buổi khai trương chết tiệt. Anh hoàn toàn không cần mấy miếng snack và thứ rượu vang rẻ tiền mua ngoài siêu thị đó, chưa nói tới cái gã con hoang mà cô ta đã lựa chọn để hợp tác.

- Là tôi, Helle Andersen ở Stevns đây. - Giọng nói ở đâu dây bên kia lên tiếng. Carl cho xe chạy ở số thấp hơn, tai dỏng lên nghe.

- Uffe đang ở đây. Tôi đang đến thăm ông buôn đồ cổ ở nhà cũ của Merete thì một chiếc taxi chở cậu ta từ Klippinge đến vài phút trước đây. Người tài xế đã từng lái xe cho Merete và Uffe trước kia, nên ông ta nhận ra Uffe khi cậu ta đi lang thang bên cạnh đường cao tốc, gần lối ra ở Lellinge. Uffe hoàn toàn kiệt sức. Cậu ta đang ngồi trong bếp, uống hết ly nước này đến ly nước khác. Tôi nên làm gì đây?

Carl nhìn đèn giao thông. Một luồng phấn khích cuộn lên trong lòng anh. Anh chỉ muốn quay đầu xe và đạp chân ga cật lực.

- Cậu ta ổn chứ? - Carl hỏi.

Helle tỏ ra hơi lo lắng, giọng điệu cô kém vui vẻ hơn thường lệ.

- Tôi cũng chẳng biết nữa. Người ngợm cậu ta bẩn thỉu như chui từ dưới cống lên ấy. Nhưng Uffe có vẻ khang khác.

- Ý cô là sao?

- Hình như cậu ta đang ngồi nghĩ. Cậu ta cứ nhìn quanh căn bếp như thể không nhận ra nó.

- Chuyện đó không làm tôi ngạc nhiên.

Carl hình dung trong đầu những chiếc chảo đồng treo đầy trên các vách tường của căn bếp, từ sàn lên đến trần nhà. Những hàng ly pha lê, lớp giấy dán tường màu nhã với họa tiết hoa trái nhiệt đới. Uffe cảm

thấy lạ lẫm cũng là điều đương nhiên.

- Ý tôi không phải là do sự thay đổi nội thất. Tôi không thể giải thích được. Cậu ta có vẻ sợ hãi khi ở đây, nhưng không chịu lên xe đi cùng tôi.

- Cô định đưa Uffe đi đâu?

- Tới đón cảnh sát. Tôi sẽ không để cậu ta chạy mất một lần nữa. Nhưng cậu ta không chịu đi với tôi, ngay cả khi ông buôn đồ cổ đã yêu cầu một cách nhã nhặn.

- Cậu ta có nói gì không? Có phát ra âm thanh gì không? Carl cảm thấy cô gái lắc đầu.

- Không, không có gì cả. Nhưng cậu ta run rẩy. Thằng con trai lớn của tôi cũng từng bị như thế khi không thể có được thứ nó muốn. Tôi còn nhớ có lần ở siêu thị…

- Helle, cô cần phải gọi điện cho Egely. Uffe đã trốn khỏi đó từ năm ngày nay. Họ cần được biết là cậu ta vẫn ổn.

Anh tìm số điện thoại cho cô. Đó là việc đúng đắn duy nhất để làm. Nếu anh can dự vào chuyện này thì không hay chút nào. Báo chí lá cải sẽ tha hồ xoa hai bàn tay lấm mực in của mình.

Lúc này những tòa nhà nhỏ và thấp bắt đầu xuất hiện dọc theo tuyến xa lộ cũ của Køge. Họ chạy ngang một quầy bán kem kiểu truyền thống, một cửa hiệu đồ điện cũ giờ đây là chốn dung thân của hai cô nàng ngực bự chuyên gây rắc rối cho cảnh sát phòng chống tệ nạn.

Carl liếc nhìn Assad và nghĩ đến việc huýt sáo để xem liệu anh chàng có còn sống hay không. Anh chưa bao giờ nghe chuyện người ta có thể chết bất đắc kỳ tử không kịp nói hết câu với đôi mắt mở to như thế này.

- Assad! - Anh lên tiếng, không chờ đợi một lời hồi đáp.

Carl vươn tay qua chỗ anh chàng trợ lý ngồi để mở cốp phụ và lấy ra một gói Lucky Strike còn phân nửa.

- Carl, anh không hút thuốc có được không? Hôi hết cả xe. - Assad nói với giọng tỉnh táo một cách đáng kinh ngạc.

Nếu chút khói thuốc lá làm phiền Assad thì anh ta có thể đi bộ về nhà.

- Anh dừng xe lại đi. - Assad nói tiếp. Chắc anh chàng đang có cùng ý tưởng với Carl. Carl đóng cốp phụ lại và dừng xe gần một lối rẽ xuống bãi biển.

- Chuyện này hoàn toàn không ổn. - Assad vừa nói vừa quay sang nhìn Carl với đôi mắt đen kịt. - Tôi đã nghĩ về những gì chúng ta nhìn thấy ở đó. Tất cả mọi thứ đều không ổn.

Carl chậm rãi gật đầu. Không có gì qua được mắt anh chàng này.

- Có đến bốn cái ti vi trong ngôi nhà đó.

- Thật á? Tôi thấy có mỗi một cái.

- Còn ba cái cỡ vừa đặt cạnh nhau, ở phía cuối giường của bà ta. Chúng được phủ vải che, nhưng tôi có thể thấy ánh sáng phát ra từ chúng.

Anh chàng này hẳn là có đôi mắt của diều hâu lai cú, Carl nghĩ bụng.

- Ba cái ti vi đang bật được phủ vải á? Anh thực sự có thể nhìn thấy từ khoảng cách xa đến vậy sao? Cái nhà đó tối om mà.

- Chúng ở cuối phòng, gần chiếc giường, được kê sát vào tường. Không phải loại màn hình lớn. Mà giống như… - Assad tìm từ. - Giống như…

- Màn hình giám sát? Assad gật đầu.

- Anh biết không, tôi đang dần hiểu ra mọi thứ trong đầu. Đó là ba, hoặc bốn màn hình giám sát. Anh có thể nhìn thấy ánh sáng xuyên qua tấm vải che. Chúng ở đó làm gì? Tại sao chúng được bật, và vì sao bọn họ che chúng lại như thể muốn giấu chúng ta?

Carl nhìn những chiếc xe tải đang chạy trên đường theo hướng tiến vào thành phố. Đó là những câu hỏi rất hay.

- Còn một chuyện này nữa, sếp.

Giờ thì đến lượt Carl không tập trung. Anh gõ ngón tay trên vô lăng. Nếu họ về trụ sở và làm theo đúng quy trình, thì sẽ phải mất ít nhất hai tiếng đồng hồ trước khi có thể quay lại chõ đó.

Điện thoại di động của anh lại rung lên. Nếu là Vigga thì anh sẽ cúp ngay. Sao cô ta có thể nghĩ rằng anh luôn sẵn sàng hầu chuyện cả ngày lẫn đêm như thế nhỉ?

Hóa ra người gọi là Lis.

- Marcus Jacobsen muốn anh lên phòng gặp ông ấy. Anh đang ở đâu vậy?

- Ông ta sẽ phải đợi thôi, Lis. Tôi đang trên đường đi điều tra. Là chuyện bài báo à?

- Tôi không chắc lắm, nhưng có thể. Anh biết ông ấy mà. Marcus trở nên im lặng một cách lạ lùng mỗi khi có ai đó viết xấu về chúng ta.

- Vậy thì hãy nói với ông ta là Uffe Lynggaard đã được tìm thấy, và cậu ta ổn. Bảo ông ta là chúng tôi đang điều tra một vụ.

- Vụ nào?

- Vụ việc sẽ làm mấy tờ báo khốn khϊếp đó phải viết bài khen tôi và Đơn vị Nói đoạn anh đánh lái, quay đầu xe, và cần nhắc việc bật đèn hiệu.

- Lúc nãy anh bảo gì tôi ấy nhỉ, Assad?

- Chuyện thuốc lá.

- Tức là sao?

- Anh đã hút cùng một loại thuốc từ bao lâu rồi?

Carl nhíu mày. Lucky Strike đã tồn tại được bao lâu rồi?

- Người ta không dễ mà đổi loại thuốc hút, đúng không? Và bà ta có mười gói Prince trên bàn. Mới nguyên chưa bóc. Những ngón tay của bà ta vàng ệch, nhưng cậu con trai thì không.

- Vậy thì sao?

- Bà ta hút thuốc Prince có đầu lọc, còn con trai bà ta không hút thuốc lá. Tôi gần như chắc chắn điều đó.

- Rồi sao?

- Tại sao những mẩu thuốc lá nằm trong gạt tàn lại không có đầu lọc? Đến đây thì Carl bật đèn và còi hiệu.
« Chương TrướcChương Tiếp »