Thấy tôi chấp nhận nghề "thầy dùi" của nó, Hải gầy khoái lắm. Nó hào hứng vạch một "chương trình hành động" dài dằng dặc và đầy quyến rũ. Nào là những lúc tôi lên bảng trả bài, nó sẽ quan sát ánh mắt của Việt An, coi thử Việt An chớp mắt mấy lần và nhìn trộm "dung nhan" tôi mấy cái, mỗi cái kéo dài mấy phút; nào là những lúc tôi trò chuyện với Việt An, nó sẽ rình coi Việt An có cười với tôi không, cười mấy kiểu, cười "lạnh lùng" hay cười "ấm áp", rồi khi Việt An cười, nó còn phải nhận xét miệng và mắt có "phối hợp đồng bộ" không, hay là miệng như hoa tươi mà mắt như hoa... héo. Căn cứ vào những "tư liệu" quí giá và sống động đó, nó sẽ phân tích và rút ra những kết luận có giá trị để vạch đường đi nước bước cho tôi.
Sai khi công bố dự định lớn lao và đầy hiệu quả (trên lý thuyết) của mình, Hải gầy kết luận thật "ngọt":
- Mọi chuyện sẽ đâu vào đấy! Cái gì của César phải trả lại cho César, Việt An của mày thì phải trả lại cho... tao!
Tôi nhăn mặt:
- Giỡn vô duyên!
- Xin lỗi, tao lộn! - Hải gầy bá vai tôi, cười hề hề.
Nhưng đúng như ông bà nói "mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên", chúng tôi bàn bạc với nhau đã đời, hôm sau đến lớp, chẳng thấy Việt An đâu.
Hôm sau nữa cũng vậy.
Tôi hỏi Hồng Hoa:
- Sao Việt An nghỉ học hai ngày nay vậy?
- Nó bệnh.
Tôi thấp thỏm:
- Bệnh gì vậy?
- Cảm. Chiều nay ông đi thăm nó đi!
Thấy tôi ngần ngừ, Hồng Hoa lại hỏi:
- Sao, đi không?
Tôi tặc lưỡi:
- Tôi ngại lắm.
Hồng Hoa nheo mắt:
- Có gì đâu mà ngại! Nếu ngại thì ông đi với tôi.
Chiều hôm đó, tôi theo Hồng Hoa đến nhà Việt An.
Nhà Việt An nằm trên một con đường nhỏ, có khoảnh sân rộng đằng trước. Ngay cổng có hai cây dừa cao thật cao, trĩu đầy những trái. Đi ngang qua, tôi cứ len lén nhìn lên, sợ trái rớt trúng đầu.
Việt An đang quấn chăn ngồi trên giường, thấy tụi tôi vô, liền đứng dậy.
Tôi giơ tay:
- Thôi, Việt An ngồi nghỉ cho khỏe! Đứng dậy chi!
Nói xong, tôi đặt mấy trái cam trên bàn rồi ngồi xuống ghế. Còn Hồng Hoa chạy đi pha nước.
Tôi nhìn Việt An, thấy nó xanh xao hơn thường ngày, tôi đâm ra "thương" nó ghê gớm, nỗi giận hờn trước đây bay vèo đâu mất. Tôi dịu dàng hỏi:
- Việt An đã đỡ nhiều chưa?
Việt An đưa tay vuốt tóc:
- Hơi hơi! Chắc ba, bốn bữa nữa mới đi học lại được.
Tôi nhìn mấy cuốn tập trên bàn:
- Mấy bữa nay có ai chép bài giùm Việt An không?
Việt An không trả lời thẳng câu hỏi của tôi. Nó nhìn ra cửa sổ, nói lơ lửng:
- Chừng nào hết bệnh, tôi mượn tập chép lại chứ lo gì!
Như vậy là chưa có ai "giành phần". Tôi ấp úng đề nghị:
- Việt An đưa tập tôi chép bài giùm cho!
Vừa nói tôi vừa liếc chừng Việt An, trong lòng thấp thỏm sợ nó từ chối. Nó đã từ chối thẳng thừng những đề nghị của tôi bao nhiêu lần rồi!
Nhưng lần này Việt An tỏ ra dễ dãi hơn. Chắc là do bị bệnh nên sức "đề kháng" của nó yếu đi so với ngày thường. Dòm vẻ mặt căng thẳng vì chờ đợi của tôi, Việt An mỉm cười:
- Tùy anh! Nếu anh rảnh!
Vậy tức là Việt An đã bằng lòng. Tôi hớn hở nhủ bụng: rảnh thì không rảnh, nhưng vì Việt An thì từ "bận" tôi chuyển thành "rảnh" mấy hồi!
Lúc này, tôi chỉ tiếc là không có "chuyên gia" Hải gầy ở đây. Nếu có, nó sẽ nghiên cứu giùm tôi nụ cười mím chi của Việt An vừa rồi là cười "nóng bỏng" hay cười "mát mẻ". Nhưng dù không giỏi "chuyên môn" bằng nó, chỉ với tư cách "người phàm mắt thịt" thôi, tôi cũng có thể "cảm nhận bằng trái tim" sự dịu dàng êm ái tỏa ra từ nụ cười của Việt An.
Bữa đó, tôi ôm chồng tập của Việt An về nhà như ôm "chiến lợi phẩm", mặt mày hí ha hí hửng.
Hải gầy hay tin, liền chạy tới nhà tôi "tham quan". Sau khi săm soi mấy cuốn tập của Việt An, nó gật gù nhận định:
- Nếu không có một tình cảm đặc biệt, Việt An sẽ không ày chép bài giùm đâu! Tụi con gái thường rất kỹ trong việc chọn mặt gởi... tập!
Khi phản đối chuyện tình cảm của tôi, Hải gầy phản đối tàn mạt. Còn khi đã tán vô, nó không ngại ngần đưa tôi lên tuốt mây xanh. Nhưng mặc dù biết vậy, khi nghe nó tán hươu tán vượn, tôi vẫn cảm thấy nở từng khúc ruột và trong tâm trạng cực kỳ phấn khởi đó, tôi đã tuyên bố cho luôn nó bộ cờ bằng ngà hiện nó đang mượn của tôi.
Kể từ giây phút đó, như một con ong thợ chăm chỉ, tôi lao vào chép bài đến rả cả tay. Việt An mới nghỉ có hai hôm mà tôi phải chép cả buổi trời. Nếu nó nghỉ thêm một tuần nữa, chắc tôi phải ngồi chép đến cụp xương sống mất!
Nghĩ đến vin ảnh đó, tôi đâm ngán nên sáng hôm sau đến lớp thay vì chép bài vô tập của tôi thì tôi chép bài thẳng vô tập của Việt An. Như vậy về nhà tôi khỏi phải mất công chép lại. Còn trong tập của tôi thỉnh thoảng thiếu một, hai bài là... chuyện thường tình! Những bài quan trọng thì sắp đến kỳ thi kiểm tra, tôi sẽ học chung với Hải gầy, không chạy đi đâu mà sợ!
Tính toán đâu đó kỹ lưỡng, tôi ung dung đi học "giùm" Việt An. Tập vở của tôi thì tôi nhét kỹ trong cặp, từ đầu giờ đến cuối giờ chẳng thèm lôi ra lấy một lần.
Không dè có một hôm, cô Hường nổi hứng kêu tôi lên bảng trả bài.
Sự "ưu ái" đầy bất ngờ này khiến tôi toát mồ hôi lạnh. Nấn ná một hồi chẳng biết làm sao, tôi đành xách tập lên bảng, trong bụng lo ngay ngáy.
Đúng như tôi nghĩ, vừa lật tập của tôi ra, cô Hường trố mắt:
- Bài học hôm trước đâu?
Tôi cắn môi không đáp.
Cô Hường lật thêm một vài tờ và lại kêu lên:
- Bài hôm trước nữa cũng không có!
Cô quay nhìn tôi:
- Sao em đi học mà không chép bài?
Tôi đáp lí nhí:
- Tại cây viết của em hết mực nửa chừng!
Cô Hường lắc đầu tỏ vẻ không tin. Cô lặng lẽ kiểm tra tiếp cuốn tập bê bối của tôi. Đột nhiên, cô nhíu mày:
- Bài học thì không chép, lại chép bậy bạ gì đây?
Tôi chưa kịp hiểu ra chuyện gì thì cô Hường đã đọc to lên:
- Lòng em như chiếc lá khoai
Đổ bao nhiêu nước ra ngoài bấy nhiêu!
Cô Hường đọc chưa dứt, cả lớp đã cười rần rần.
Có đứa nói:
- Bạn Thư đang thất tình, cô ơi!
Một đứa khác oang oang:
- Đổ trà đá mới ra ngoài chứ đổ xi-rô kem thử coi! Tụi con gái nó "đá bạo" liền!
- Đổ vàng cũng không thèm! - Tiếng một đứa con gái phản ứng.
Trong khi tụi bạn trong lớp hào hứng tranh nhau nói thì tôi đứng chôn chân tại chỗ, mặt đỏ rần đến mang tai.
Ngượng đến chín người, tai ù đặc, cô Hường nói với tôi câu gì đó tôi cũng không nghe rõ. Cầm lấy cuốn tập, tôi vội vã trở về chỗ ngồi, hai chân như muốn rời ra khỏi người.
Từ lúc đó cho đến khi tiếng trống hết giờ vang lên, tôi ngồi học mà không dám nhìn ai, kể cả Hải gầy.
Thế là lần đầu tiên trong đời tôi lãnh zero. Có phải vì Việt An?
tháng hè trôi qua trong chớp mắt.
Năm đó, tôi xin vào trường Sao Mai, học chung lớp với Tiểu Li.
Ngày khai giảng, mẹ tôi dẫn tôi đến trường. Đi bên cạnh tôi là Tiểu Li. Dọc đường, nó cứ liếc trộm tôi và cười khúc khích.
Tôi cau mày:
- Cười gì cười hoài vậy?
Nó rụt cổ, đáp:
- Anh giống như em bé.
Nói xong, nó lại nhe răng sún ra cười. Chắc nó chê tôi không dám rời mẹ lấy nửa bước! Tôi đoán thầm như vậy và lặng lẽ rút tay khỏi tay mẹ tôi. Nhưng mẹ tôi kéo tôi lại:
- Để mẹ dẫn đi! Xe cộ nườm nượp con không thấy sao!