Chương 2
Cong lưng lại Maryellen Bowman đổi tư thế nằm trên ghế sô-pha, chiếc gi ường tạm thời của cô. Phòng khách gia đình giống như một nhà giam khi thai kỳ bước vào giai đoạn cuối. Jon đã ra ngoài cùng với Katie, đứa con gái ba tuổi của họ, vì thế căn nhà trở nên vắng vẻ, yên bình đến lạ. Maryellen biết mình nên tranh thủ nghỉ ngơi để dưỡng sức. Nhưng ngặt một nỗi cô không thể ngủ được. Lo lắng bủa vây, tấn công cô từ mọi phía. Cô lo cho đứa con còn nằm trong bụng và thời kỳ mang thai khó khăn này. Cô lo lắng về áp lực mà chồng cô đang chịu đựng khi anh phải vất vả kiếm tiền nuôi sống gia đình, đặc biệt là khi nhà hàng Hải Đăng nơi anh từng làm đầu bếp bị thiêu rụi. Cô lo cho sự nghiệp nhϊếp ảnh của anh, cho cuộc hôn nhân của họ và cả những sai lầm mà cô đã gây ra. Trong đó, sai lầm lớn nhất lại xuất phát từ thiện chí tốt đẹp nhất. Maryellen cố hàn gắn vết rạn nứt, bất hòa giữa Jon và bố mẹ anh, và điều đó suýt làm hỏng mối quan hệ vợ chồng giữa họ.
Cô thấy thật khó mà nghỉ ngơi, dù đó là điều bác sĩ buộc cô phải thực hiện - dưỡng sức thật tốt trong giai đoạn cuối của thai kỳ. Cô tuyệt đối không được leo cầu thang hay làm lụng việc gì nặng nhọc. Thế nhưng làm sao cô có thế nghỉ ngơi và thư giãn khi có quá nhiều chuyện đau đầu đang ập đến cuộc sống của gia đình mình? Dựa lưng vào ghế sô-pha cô nhắm mắt lại và hít thở một cách khó nhọc. Khi mang thai bé Katie, cô không bị mệt mỏi nhiều như thế này. Giai đoạn thai nghén đó hết sức bình thường. Rồi cô bị sảy thai đứa con thứ hai. Dù biết trước lần mang thai này sẽ hết sức khó khăn nhưng cả hai vợ chồng cô đều tha thiết muốn có thêm một đứa con nữa. Maryellen chỉ cần làm theo chỉ dẫn của bác sĩ, là cố không lo lắng. Cô thầm cầu mong đứa trẻ này được sinh ra khỏe mạnh và lành lặn.
Vì Maryellen ch ỉ có thể nghỉ ngơi quanh quẩn bên giường, mọi người phải giúp đỡ cô rất nhiều. Đặc biệt là mẹ cô, bà hết lòng tiếp giúp con gái, ghé qua hai lần mỗi tuần mang theo bữa tối và trông chừng Katie trong khoảng thời gian rảnh rỗi mà cuộc sống bận rộn của bà cho phép. Điều này mang lại cho Jon và Maryellen những phút giây nghỉ ngơi thật sự cần thiết. Cô rất ghét phải làm phiền mẹ mình thế này, vì Grace - mẹ cô và Cliff vừa mới cưới và hiện đang gấp rút xây nhà. Grace cũng có những khó khăn riêng cần phải giải quyết.
Chuông điện thoại reng vang, Maryellen nhấc máy, háo hức vì có việc khiến cô dừng lại những suy nghĩ luẩn quẩn. “A lô”, cô nói, hy v ọng giọng mình không khiến người khác nhận ra cô đang gặp rắc rối.
“Ellen Bowman đây. Mọi việc ổn cả chứ?”.
Sự quan tâm của mẹ chồng khiến cô gần như bật khóc Maryellen cảm thấy sợ hãi. Cô ghét cái cảm giác này, nó đã gần như chiếm trọn cuộc sống của cô, cũng như trong suốt cuộc hôn nhân ngắn ngủi đầu tiên. “Con không sao”, Maryellen phải cố gắng lắm mới trả lời được như thế.
“Còn Jon?”. Ellen hỏi một cách ngần ngại. “Anh ấy...”. Maryellen có thể không sẵn sàng bày tỏ sự thật về tâm trạng và tình trạng sức khỏe của cô, nhưng cô không thể nói dối điều gì về chồng mình. “Không tốt lắm mẹ ạ. Anh ấy không ổn chút nào”.
Đầu dây bên kia im bặt. “Bố mẹ cũng nghĩ như thế. Mẹ biết cơn giận của Jon mà. Thái độ của nó rõ ràng cho thấy nó không hề muốn dính líu gì đến bố mẹ cả. Chính điều đó đang gϊếŧ dần gϊếŧ mòn ông ấy. Nhưng mẹ biết là con đã thử nói chuyện với nó, và bố mẹ rất cảm kích trước sự cố gắng của con, nhiều hơn những gì mà chúng ta có thể thốt lên thành lời”.
Maryellen đã phải trả một giá rất đắt vì trót xen vào giữa mối quan hệ của Jon và bố mẹ anh, cô không dám tái diễn điều đó nữa. Cô và Jon ly thân nhau một thời gian, ngay trước khi cô bị sảy thai, bởi những cố gắng của cô trong việc hòa giải họ không thành. Sau đó, vợ chồng cô đã hàn gắn và trở về bên nhau. Nhưng hồi đầu tháng, không lâu sau khi cô bắt đầu thực hiện chế độ nghỉ ngơi, Jon thừa nhận rằng họ không còn sự lựa chọn nào khác ngoài chuyện nhờ gia đình anh giúp đỡ.
Tuy vậy Maryellen biết anh vẫn chưa gọi điện cho bố mẹ mình, anh cũng không liên lạc với họ bằng cách này hay cách khác. Thay vào đó, họ cố gắng gượng qua ngày cho đến khi cô sợ hãi nhận thấy rằng cuộc sống của họ rệu rã như sắp nổ tung từ bên trong. Cả Jon và Maryellen, không ai có thể tiếp tục sống cùng với sự căng thẳng triền miên như thế này.
“Jon định gọi cho mẹ”, Maryellen nói. “Anh ấy bảo thế”.
“Thật sao?”. Giọng Ellen tràn đầy niềm phấn khởi.
“Nhưng anh ấy vẫn chưa gọi, bởi vì, à, bởi anh ấy ngại, con nghĩ vậy, và sĩ diện nữa. Quá sĩ diện”.
Ellen cười nhẹ nhàng. “Nó giống hệt bố mình ở điểm này”. Maryellen mỉm cười và cố thư giãn. Tình trạng căng thẳng, hồi hộp này không tốt cho đứa bé, cho cô và cho mọi thứ. Trong đợt khám thai cuối, bác sĩ Degroot nhấn mạnh tầm quan trọng của việc giữ bình tĩnh. Khi ông nói rằng cô nên cố gắng tránh xa tình trạng căng thẳng, cô gần như bật cười thành tiếng. Làm sao cô có thể không căng thẳng khi có bao chuyện dồn dập xảy ra như thế chứ?”.
“Bố mẹ có đặt tờ Bản tin vịnh Cedar ở Oregon”, Ellen nói, “và có đọc về trận hỏa hoạn ở nhà hàng Hải Đăng. Bố mẹ biết Jon đã từng làm việc ở đó”. “Vâng, chuy ện đó thật khủng khϊếp”. Không còn làm đầu bếp ở đó, Jon chỉ có thể kiếm tiền nuôi gia đình bằng thu nhập từ nghề chụp ảnh. Các bức ảnh của anh được đặt trong một phòng trưng bày ở Seattle và bán rất chạy, nhưng số tiền mà anh kiếm được vẫn không đủ chi trả cho các khoản sinh hoạt phí, đặc biệt giờ đây khi Maryellen không còn bảo hiểm y tế nữa.
“Thế Jon không còn làm việc ở chỗ nào khác à?”. “Các b ức hình anh ấy chụp bán cũng chạy lắm”, Maryellen cảm thấy mình bắt buộc phải nói thế. “Anh ấy rất có tài”. Nhờ những tác phẩm nghệ thuật này mà Maryellen biết đến Jon Bowman. Anh mang những tấm ảnh mình chụp đến trưng bày tại phòng trưng bày trên phố Harbor, nơi Maryellen làm quản lý. Chúng nằm trong số những bức ảnh nổi tiếng nhất được trưng bày ở đây.
Không giống như những người làm nghệ thuật khác, Jon không thích nói nhiều về mình. Mãi đến khi sinh Katie, cô mới biết được người mình yêu từng có thời gian ngồi tù. Để cứu em trai Jon, bố mẹ anh đã nói dối và Jon bị kết án cho cái tội mà mình không hề gây ra.
“Bố mẹ muốn giúp đỡ các con”, Ellen nói với giọng cầu khẩn. “Chúng ta có thể làm gì?”. “Con không ch ắc...”. Cô cảm thấy không thoải mái khi nói ra sự thật - rằng cô cần có ai đó ở đây với mình, trong ngôi nhà này, đế trông chừng Katie, nấu ăn và dọn dẹp.
“Có chuyện gì đó không ổn với các con”, chợt Ellen nói mạnh mẽ. “Có chuyện gì vậy?”. “Con... l ần mang thai này gặp nhiều vấn đề khó khăn quá”, cô thừa nhận. “Giờ con chỉ có thế nằm nghỉ một chỗ thôi”. Đứa bé đạp vào bụng cô một cái thật mạnh như để nhắc nhở mẹ.
“Vậy còn Katie thì sao? Con không thể chăm sóc nó nếu phải nằm trên giường suốt”. “Con không thể lo cho nó được. Nó đã ra ngoài với Jon”, Maryellen nói. Jon đang cố hết sức mình để vừa kiếm tiền, vừa chăm sóc con, làm việc nhà và mọi thứ khác.
“Nh ưng làm thế nào Jon làm đuợc?”. Ellen hỏi rõ ràng là đang lo lắng. “Anh ấy không thể”. Maryellen không muốn giải thích thêm nữa. “Bố mẹ sẽ tới đó”, Ellen quyết định. “Cả hai con cần sự giúp đỡ của bố mẹ”.
Maryellen thở dài, vừa cảm thấy nhẹ nhõm, vừa lo lắng về phản ứng của chồng nếu anh biết tin này. “Con không thể nhờ bố mẹ điều đó”. “Con có đòi hỏi gì ở chúng ta đâu”, Ellen nói. “Nhưng chúng ta muốn giúp. Con trai của chúng ta chỉ phải gạt bỏ tính sĩ diện ngớ ngẩn ấy đi thôi. Các con đang gặp khó khăn. Như mẹ được biết, đây là cách Chúa mang tất cả chúng ta gần lại với nhau. Giờ Jon không thể phớt lờ bố mẹ được nữa. Nó là con của bố mẹ, Katie và đứa trẻ sắp sinh này là cháu của bố mẹ”. Ellen nói một cách hùng hồn.
“Để con nói chuyện với anh ấy trước đã”, Maryellen thuyết phục. “N ếu đó là điều con muốn thì cứ làm, nhưng nó sẽ không thay đổi suy nghĩ của Jon nhiều đâu. Bố mẹ sẽ đến vịnh Cedar, và không gì có thể ngăn cản được ý định đó. Hãy để mẹ lo mọi chuyện, Maryellen ạ”, bà nài nỉ bằng giọng quả quyết. “Mẹ sẽ liên lạc lại sau”.
Họ kết thúc cuộc nói chuyện và Maryellen cảm thấy dễ chịu hơn đôi chút. Cô không biết mình sẽ nói gì với Jon. Có lẽ cô sẽ không đề cập đến vấn đề này. Có lẽ cô sẽ để cho bố mẹ chống mình giải quyết mọi chuyện. Cô quá mệt mỏi khi phải tranh cãi với anh về mối bất hòa giữa anh và bố mẹ. Duy nhất có một, lần anh tỏ ra bớt gay gắt và có vẻ nhân nhượng, đống ý nhờ gia đình giúp đỡ, nhưng rồi anh lại không làm gì cả. Cô không thể đối mặt với trận chiến đó thêm một lần nữa. Trong lúc cô đang mông lung suy nghĩ thì Jon và Katie trở về nhà, cô nghe tiếng xe tiến vào trong sân. Cố tỏ ra thư thái và thoải mái, cô nở một nụ cười, chờ chồng và con gái bước vào nhà.
Nhưng thay vào đó là tiếng chuông cửa.
Khách đến thăm ư? Vào giữa trưa thế này?
Trước khi Maryellen có thể di chuyển ra khỏi ghế sô-pha, cánh cửa bật mở. Rachel Pendergast cùng với Teri Miller bước vào, mang theo không khí mùa xuân ấm áp và những tràng cười tươi tắn, thoải mái. Họ làm việc tại tiệm Get Nailed, nơi Maryellen thường đến làm tóc và móng. Đúng hơn là đã tìm đến...
“Rachel? Teri?”. Maryellen không thể ngạc nhiên và vui mừng hơn thế. “Mấy cậu làm gì ở đây vậy?”.
“Bọn tớ đi làm từ thiện”, Rachel nói. Cô đặt một chiếc túi trắng đựng thức ăn mang về lên bàn trước mặt Maryellen rồi nắm tay Maryellen. Lắc đầu, Rachel thở dài vẻ cám cảnh. “Nhìn bộ móng tay này xem”, cô lầm bầm.
“Còn tớ thì nghĩ đã đến lúc cậu nên cắt tóc”, Teri nói vui. “Và vì đến thăm cậu, bọn tớ quyết định mang bữa trưa cho cả ba chúng ta luôn”. Maryellen muốn phá lên cười và òa khóc cùng một lúc. “Làm thế nào mà các cậu biết tớ mong mỏi được chăm sóc đặc biệt vậy nhỉ?”, cô thì thầm, cố kìm lại để không bật khóc.
“Con chim non bé nh ỏ bảo chúng tớ đấy”, Rachel nói, mỉm cười toe toét. Rồi cô bước vào nhà bếp lấy ra ba cái dĩa. “Nơi này đẹp thật”, Teri nói. Tay chống hông, cô đưa mắt nhìn quanh. “Rachel nói Jon tự mình trang trí mọi thứ. Cậu có một người chồng hết sức tài năng đấy, bạn ạ”.
Maryellen hoàn toàn đồng ý với nhận xét này. Cô quý hai nguời phụ nữ này vô cùng. Rachel làm móng cho cô suốt nhiều năm liền, còn Teri dạo gần đây bắt đầu cắt tóc cho Maryellen. Teri có vẻ gì đó rất đặc biệt, lạ và thú vị. Hơn nữa, cô ấy còn là một người tốt bụng, giàu lòng trắc ẩn, mà cuộc thăm nom ngày hôm nay là một ví dụ điển hình.
Qua nhiều năm, Maryellen đã có dịp tìm hiểu họ khá rõ, và từng có một lần định mai mối Teri cho Jon. Giờ đây cô thấy kinh ngạc với chính bản thân mình khi từng nghĩ ra chuyện như thế. Teri và Jon hoàn toàn không hợp nhau, nhưng lúc đó Maryellen thậm chí không cân nhắc đến điều đó. Khi ấy cô đấu tranh tư tưởng rất dữ dội, cô gạt bỏ mối thiện cảm dành cho anh đang nhen nhóm trong lòng mình. Cô cũng thuyết phục bản thân mình rằng nếu anh để ý đến người nào khác, anh sẽ quên cô và ngược lại. Tuy nhiên, Jon chỉ chú ý đến cô.
“Bọn tớ mang cho cậu gà rán trộn sốt teriyaki cùng với cơm và một ít rau”, Rachel nói khi lôi các hộp đựng thức ăn từ trong túi trắng ra.
Mấy tuần nay gần như Maryellen không còn thèm ăn nữa. Jon phải dỗ dành cô ăn từng bữa. Nhưng đột nhiên lúc này cô lại thấy đói cồn cào. “Nghe h ấp dẫn quá nhỉ”.
“Tốt”. Rachel đưa cho Maryellen một dĩa đầy thức ăn và một đôi đũa.
Maryellen ng ồi xếp bằng trên ghế sô-pha trong khi hai người bạn ngồi trên ghế dài có đệm phía bên kia của chiếc bàn nhỏ đặt ở phòng khách. Cả ba người ăn ngấu nghiến trong lúc Teri giải thích bữa trưa được mua ở một nhà hàng bán thức ăn mang về nằm ở vùng ngoại ô của vịnh Cedar. Họ đồng ý với nhau là thức ăn rất ngon và đáng để quay lại đó lần nữa. Teri đã rất chu đáo khi mang theo tờ thực đơn cho Maryellen. “Để dành khi các cậu muốn đặt họ mang đến tận nhà”.
“Tớ nghĩ cậu nên cắt tóc ngắn”. Teri nói tiếp. “Thật ngắn ấy. Cậu có nhiều việc khác đáng quan tâm hơn chuyện phải mệt mỏi với mái tóc của mình”. Maryellen mỉm cười. “Jon sẽ không thích thế đâu”.
“Này, anh ấy có phải gội và chải nó hằng ngày đâu”, Teri nói. “Rồi anh ấy sẽ quen với nó thôi”. Maryellen có th ế tưởng tượng phản ứng của Jon. Lần cô tỉa tóc lại cho gọn là không lâu sau khi sinh Katie. Trước đó, Maryellen để tóc dài, mái tóc đen bóng, thẳng mượt ngang lưng, cỡ như tóc cô hiện giờ. Thật ra Jon chưa bao giờ nói anh không thích kiểu tóc mới của cô, nhưng cô cảm nhận rằng anh có vẻ thất vọng. Anh thường bảo cô rằng anh rất yêu mái tóc dài óng mượt của cô, và rằng anh thấy nó rất đẹp.
“Được thôi, ý cậu nói ngắn là thế nào?”, Maryellen hỏi.
Đôi mắt nâu thẫm của Teri sáng lấp lánh. “Cậu hãy đợi rồi xem”. “Tớ mong các cậu hiểu là tớ không có khả năng chi trả cho chuyện này”, cô thấy mình buộc phải nói ra điều đó với các cô bạn.
“Cậu không phải bận tâm”, Rachel nói nhanh. “Tất cả đã được thanh toán hết rồi”.
“Và”, Teri thêm vào, “ngoài tiền công còn có thêm một khoản boa rộng rãi nữa”. “Ai trả vậy?”. Maryellen hỏi, dù cô có thể đoán ra người đó.
“Người bố nuôi tốt bụng của cậu”, Rachel bảo. “Tớ sẽ chỉ nói thế thôi”.
“Cliff ư?”. Quả thật Maryellen đang nghĩ người làm việc này là Cliff. Bố dượng của cô - Cliff Harding - đã sắp xếp chuyện này.
“Như tớ đã nói”, Rachel nói, dùng hai ngón tay bắt chéo ngang miệng mình, “môi tớ bị kéo khóa rồi nhé”. Hai giờ kế tiếp là những phút giây đầy niềm vui. Teri gội đầu cho Maryellen, và trong lúc cô cắt tóc sấy khô và chỉnh kiểu, Rachel làm móng cho Maryellen. Chúa phù hộ cho Cliff vì đặc ân này - và vì nhiều sự quan tâm khác của Cliff nữa. Kể từ khi mẹ cô gặp Cliff, cô luôn thấy ấn tượng với người đàn ông chu đáo và hết sức đáng yêu này.
“Tám chuyện gần đây nhất cho tớ nghe đi nào”, Maryellen nói khi hai cô bạn tiếp tục việc chăm sóc sắc đẹp cho mình.
“À”, Teri nói, thở dài, “tin hấp dẫn nhất là Nate Olsen đã trở lại thành phố”. Nate là anh chàng chu ẩn uý trẻ trong lực lượng hải quân mà Rachel đang gặp gỡ. Cô bạn của Maryellen có mối quan hệ nhập nhằng với người đàn ông góa vợ Bruce Peyton, mối quan hệ này đã kéo dài được ba, bốn năm gì đó. Rồi anh lính hải quân này bước vào cuộc đời cô. Maryellen băn khoăn không biết cuối cùng Rachel sẽ chọn nguời nào.
“Cậu có thôi ngay đi không!”. Rachel kêu toáng lên. “Nate và tớ chỉ gặp gỡ nhau hết sức bình thường, chỉ vậy thôi”.
Maryellen nghi ngờ chuyện “bình thường” của Rachel nhưng cô không bình luận gì. “Th ế còn Bruce thì sao?”, cô hỏi, dù biết rõ Rachel thân thiết với Jolene, con gái của Bruce như thế nào. “Tớ và anh ấy chỉ là bạn”. Rachel gạt ngan câu hỏi của bạn mình, giọng điệu có vẻ mất kiên nhẫn, nhưng Maryellen nghi ngờ rằng tình cảm Rachel dành cho Bruce sâu sắc hơn những gì Rachel nhận thấy.
“Cậu biết tớ không hiểu điều gì không?”. Teri hỏi, xoay kéo một cách điệu nghệ. “Rachel có hai người đàn ông để lựa chọn, còn tớ thì chẳng có ma nào”. “ Đáng lẽ ra cậu nên tham gia đấu thầu trong cuộc đấu giá những người đàn ông độc thân ấy”, Rachel chọc, ám chỉ sự kiện từ thiện nơi cô đã “mua” - câu được anh chàng Nate.
“Mấy gã đó quá đắt so với túi tiền của tớ”, Teri lầm bầm, tiếp tục cắt tóc. Tùng lọn tóc dài rơi xuống nền nhà.
Cô cúi xuống để gom tóc Maryellen lại. “Cậu muốn hiến mớ tóc này làm bộ tóc giả cho bệnh nhân ung thư không?”, cô hỏi. “T ất nhiên rồi”. Maryellen cảm thấy hạnh phúc khi giúp được một ai đó - đặc biệt khi bản thân đã nhận quá nhiều lòng tốt của mọi người. “Ý này hay đó”.
Vài phút sau, Teri b ật tivi lên xem bản tin dự báo thời tiết dịp cuối tuần. “Này”, cô nói, bước ra màn hình khi chương trình thời sự địa phương kết thúc. “Sắp tới sẽ có giải đấu cờ vua lớn tổ chức ở Seattle”.
“Cậu có thích chơi cờ không?”, Maryellen hỏi.
Teri nhún vai. “Tớ không biết nhiều về bộ môn đó. Nó giống môn cờ đam phải không?”. Rachel và Maryellen đưa mắt nhìn nhau.
“À không hẳn thế”, Rachel trả lời. “Nó phức tạp hơn một chút”.
Không lâu sau khi hai cô bạn của Maryellen hoàn thành phần việc của mình, thu xếp mọi vật dụng và rời đi, Jon và Katie về đến nhà. Trông Jon dường như rất mệt mỏi, cả Katie cũng vậy. Khi nhìn thấy Maryellen, Jon chớp chớp mắt.
“Anh có thích ki ểu tóc mới này không?”, cô ngập ngừng dò hỏi, đặt tay lên đầu. Rồi cô tiếp tục giải thích nó làm thay đổi diện mạo của cô thế nào và bày tỏ sự hài lòng của mình khi hiến tóc cho bệnh nhân bị ung thư.
Jon g ật đầu. “Tuyệt lắm”, anh nói. “Và anh thích em trong diện mạo mới này. Anh luôn yêu mái tóc dài của em nhưng cái này... cũng đẹp lắm. Đẹp mà”, anh lặp lại. “Nó hợp với em và anh thấy rằng nó thiết thực hơn nhiều đấy”.
Maryellen rất vui khi nghe chồng trả lời như vậy, điều này với cô thì cực kỳ có ý nghĩa. Katie bò vào lòng cô rồi dựa đầu vào vai cô. Vài phút sau, con bé ngủ thϊếp đi. Maryellen đặt Katie nằm xuống ghế sô-pha bên cạnh mình.
Cô không hỏi Jon một ngày của anh trôi qua thế nào. Nét mặt và dáng vẻ của anh đã nói lên tất cả. Anh đã có một ngày vô cùng mệt mỏi - mua thực phẩm, chụp ảnh, đến thư viện.
“Ng ồi xuống đây với em một lát đi nào”, cô giục anh ngồi thẳng lên. “Anh có việc phải làm rồi”.
Cô vỗ vỗ xuống chỗ trống kế bên mình. “Jon”, cô thì thầm. “Chút xíu thôi mà”". Anh l ưỡng lự, và cô biết anh cảm thấy bị giằng xé giữa nhu cầu cần phải làm việc trong lúc Katie chợp mắt và khao khát được ở bên trò chuyện với vợ. Nụ cười của cô ắt hẳn đã làm anh xiêu lòng, anh quyết định ngồi xuống bên cạnh cô, choàng tay qua vai cô.
“Em yêu anh l ắm”, cô nói.
Jon hôn lên trán cô. “Anh cũng yêu em”.
“Vài tháng nữa thôi, chuyện này sẽ kết thúc”.
“Có vẻ như nó sẽ tiếp diễn thế này mãi”, anh lầm bầm.
“Vượt qua những tuần cuối cùng của thai kỳ sẽ là khoảng thời gian khó khăn nhất. Mọi việc thường có chiều hướng xấu trước khi nó trở nên đẹp hơn”. Anh thở dài, tiếng thở sâu và như bị dồn nén. “Chúng ta sẽ ổn thôi”. “Em cũng nghĩ vậy”. Cô quay đầu lại nhìn thẳng vào mắt anh. “Mẹ kế anh gọi điện cho em chiều nay”, cô nói mà không cần mào đầu.
Jon im lặng không nói gì. Rồi anh hỏi. “Bà ấy gọi hay là em gọi?”. “Bà ấy gọi”, Maryellen khẳng định lại, cô cảm thấy không vui trước câu hỏi của Jon. “Họ đọc được tin tức trận hỏa hoạn tại nhà hàng Hải Đăng vì họ có đặt tờ Bản tin. Bà gọi để xem chúng ta có ổn không”.
Anh không nói n ăng gì trong một lúc lâu. “Vậy họ biết anh không còn làm việc nữa hả?”, cuối cùng Jon cũng cất tiếng hỏi. “Ý anh là, làm đầu bếp tại nhà hàng đó?”.
“Họ biết”, cô nói. “Em có nói với bà về những khó khăn trong lúc mang thai thế này”.
Cô biết anh không vui vì cô đã nói với mẹ kế những điều đó, cô có thế đoán biết, nhưng anh không nói ra. “Em không nhờ bà ấy làm như vậy, em muốn anh hiểu điều đó”. “Làm gì?”.
“Đến đây giúp chúng ta. Ellen năn nỉ mãi. Bà nói bọn trẻ là cháu của bà và chúng ta cần sự giúp đỡ”.
Jon vẫn không đưa ra lời bình luận nào. “Nói gì đi chứ anh”, cô nói, sợ hãi truớc phản ứng của anh. Hơn tất cả những thứ khác, cô không thể chịu đựng được cơn giận của anh. Nó sẽ khiến cô ngã quỵ mất.
“Họ không thể ở lại đây”.
Cô gật đầu.
“Anh không muốn họ ở gần khi anh về nhà”. Cánh tay anh nặng trĩu trên vai cô.
“Em sẽ giải thích cho họ hiểu điều đó”.
Anh thở dài. “Anh không thích chuyện này, nhưng sẽ làm vì em, Katie và vì đứa con sắp chào đời của chúng ta”. “Cảm ơn anh”, cô thì thầm.
“Nó không thay đổi được bất kỳ điều gì đâu, Maryellen ạ”.
“Em biết”. Cô dựa đầu vào người anh. Chỉ một lúc sau, cô lại cảm thấy thoải mái. “Tình yêu khi ến nguời ta làm được như thế phải không?”.
“Sao cơ?”, cô hỏi nhỏ.
“Làm được những chuyện mà mình không muốn làm và không bao giờ nghĩ là mình sẽ làm, chỉ để người mình yêu hạnh phúc”. Maryellen hi ểu ý anh. Jon đã thề rằng anh không cho phép gia đình bước vào cuộc đời anh thêm một lần nữa sau tất cả những gì họ đã làm với anh. Vậy mà giờ đây, anh đã bỏ qua mối hiềm khích sâu sắc đó bởi tình yêu với vợ. Anh đồng ý để họ bước vào ngưỡng của cuộc sống của anh vì lợi ích của Maryellen và Katie. Có lẽ trong tim anh không có sự tha thứ, nhưng anh đã bỏ qua cơn giận mang nặng trong lòng để làm hài lòng vợ mình.
“Tình yêu khiến chúng ta đặt lợi ích của người mình yêu lên hàng đầu”, cô nói. “Ý anh không phải thế sao?”. Đó không phải là tình yêu sao?
Justine gần như không thể đứng nhìn đống tro tàn trước mặt, nơi từng là nhà hàng H ải Đăng của mình. Hầu hết các khung sườn đều đã đổ sập. Tàn tích của nó chỉ như một vệt mờ chấm trên phông nền xanh thẫm của mặt nước vịnh. Dây rào hiện trường vàng rực căng quanh bãi đỗ xe. Ngay cả lúc này, hai tuần sau đám cháy, mùi hăng hắc của gỗ cháy và khói vẫn lơ lửng bay lên, khiến bầu không khí trở nên hết sức ngột ngạt.
Seth đứng bên cạnh Justine và Robert Beckman, nhân viên phụ trách thanh toán bảo hiểm. Ông ta ghi chú thông tin trên bìa kẹp hồ sơ khi khảo sát hiện trường. Leif, cảm ơn Chúa, đang học trong trường, Justine muốn tránh cho con trai mình khỏi mớ bòng bong này.
C ơn bệnh kinh hoàng hồi tuần trước khiến cô run rẩy. Cô không kể cho Seth về chuyện gặp lại Warren. Tốt hơn hết là cô không nên kể. Biết cô thân với người đàn ông khác, Seth chỉ buồn phiền hơn mà thôi, mặc dù chồng cô chẳng có gì phải lo lắng gì hết. Tình yêu cô dành cho Seth và gia đình mình không gì có thể phá vỡ được. Warren rất tử tế với cô và cô rất biết ơn anh ta về điều đó. Anh ta mời cô đi ăn trưa, nhưng cô đã từ chối và không nói chuyện với anh ta từ dạo đó đến giờ.
“Cuộc điều tra sẽ mất bao lâu nữa?”. Seth h ỏi, tiếp tục bước đi cùng với nhân viên bảo hiểm. Justine nắm lấy cánh tay anh thay cho lời khẩn nài. Seth vẫn còn gay gắt và mất kiên nhẫn, anh nói huyên huyên về chuyện vực dậy sau trận hỏa hoạn và phẫn uất trước mọi sự trì hoãn. Anh đã nói đến chuyện xây dựng lại nhà hàng, anh nôn nóng với công việc làm ăn và mong muốn cuộc đời họ sẽ mau chóng trở lại bình thường. Hơn cả sự nôn nóng, anh bị ám ảnh. Mỗi một trở ngại, mỗi một câu hỏi đều khiến anh thất vọng. Anh không ngủ được, tình trạng căng thẳng bắt đầu ảnh hưởng đến sức khỏe và tinh thần của anh.
“Tôi biết nó có vẻ mất nhiều thời gian”, Robert nhẹ nhàng nói. “Nhưng...”. “Đã hơn hai tuần trôi qua rồi”, Seth độp lại. “Còn gì phải điều tra nữa chứ?”.
“Mong ông hãy bỏ qua cho chúng tôi, ông Beckman ạ”, Justine nói nhỏ nhẹ. “Như ông có thể hình dung đấy, trận hỏa hoạn này khiến chúng tôi lâm vào tình cảnh hết sức khó khăn”.
“Tôi rất hiểu”, người đàn ông lớn tuổi trấn an cô. “Như tôi nói lúc nãy, tôi biết có vẻ mất nhiều thời gian, nhưng tôi xin hứa là chúng tôi sẽ làm việc một cách nhanh chóng nhất có thể”.
“Tôi không có ý n ạt nộ ông”. Seth nhún vai. “Chỉ là mỗi ngày trôi qua, nếu chúng tôi không mở ra làm ăn thì sẽ mất biết bao nhiêu khách, và nhân viên sẽ bỏ đi”.
Sáng nay, có người nói trưởng nhóm phục vụ của họ đã tìm được công việc khác ở Tacoma. Không ai có thể đợi chờ quá lâu mà không được lĩnh lương. “Công ty chúng tôi hi ểu điều đó, nhưng chúng tôi không thể làm bất kỳ điều gì cho đến khi Cảnh sát trưởng phòng cứu hỏa cho chúng tôi cơ hội khảo sát thiệt hại một cách tỉ mỉ. Và bởi vì đây là một vụ điều tra tội phạm, nên lẽ đương nhiên là sẽ mất thêm nhiều thời gian”.
Justine biết rằng Seth đã gọi không biết bao nhiêu cuộc điện thoại đến chỗ Cảnh sát trưởng, nhằm thúc đẩy cuộc điều tra nhanh hơn. “Tôi đã liên lạc với kiến trúc sư”, Seth giải thích, và Justine gần như không thể giấu được vẻ sững sờ trên nét mặt. Cô không hề hay biết gì về chuyện này. “Chúng tôi đã bàn bạc về các bản vẽ thiết kế”, anh nói tiếp, “và tôi muốn sắp xếp lịch xây dựng. Tôi không thể làm điều đó cho đến khi Cảnh sát trưởng cho giải phóng hiện trường”.
“À... có lẽ anh phải đợi một thời gian thôi”.
“Vậy đến khi nào chúng tôi có thể xây dựng lại?”, Seth hỏi. Robert Beckman chầm chậm lắc đầu. “Vì đám cháy này bị tình nghi là do phóng hỏa, công ty chúng tôi muốn đưa một điều tra viên vào tìm hiểu về nguyên nhân và nguồn gốc”. Ông dừng lại. “Tức là anh ta sẽ làm việc biệt lập với bên cảnh sát”.
“Anh ta sẽ làm những gì?”. Justine hỏi. “Điều tra viên của công ty ông ấy?”. “M ục đích đầu tiên của điều tra viên là khẳng định lại bước điều tra sơ bộ về hung thủ phóng hoả. Các điều tra viên của chúng tôi làm điều đó bằng cách khảo sát đường đi của ngọn lửa để tìm xem bắt nguồn từ đâu”.
“Người ta có thế nói lên điều gì từ một đống lửa tàn chứ?”. Sự mất kiên nhẫn lộ rõ trong giọng của Seth. “ Đáng ngạc nhiên là thông tin họ thu thập được lại có từ hiện trường. Họ có thế nhận biết chính xác ngọn lửa bắt nguồn từ đâu. Họ có thế xác định chất hóa học phản ứng trong đám cháy. Đôi khi họ có thể thu lượm được các manh mối khác bằng cách sàn rây những mảnh vỡ còn sót lại. Đã có nhiều cuộc điều tra như vậy dẫn đến kết quả là nhận dạng rồi kết tội những kẻ phóng hỏa. Tôi nhớ có một trường hợp khi mà...”.
“Tốt thôi, nhưng tôi phải nói gì với kiến trúc sư đây?”, Seth chen ngang. Anh luồn tay vào mái tóc của mình, vẻ bất lực, mệt mỏi. Justine c ảm thấy sợ khi biết Seth đã bàn bạc với kiên trúc sư và tự hỏi không biết anh làm điều này từ khi nào. Anh ra ngoài hai lần vào buổi chiều nhưng không hề đề cập đến chuyện đi đâu hoặc đi với ai. Mà Justine cũng không hỏi anh. Thành thật mà nói, việc anh ra khỏi nhà giúp cô dễ thở hơn một chút. Seth cảm thấy bứt rứt không yên khi chỉ ở một chỗ. Lúc ở nhà, anh xồng xộc chạy đi chạy lại hết phòng này tới phòng khác, anh không thể làm được bất kỳ chuyện gì hoặc thậm chí đọc cái gì đó trong vài phút. Dĩ nhiên là anh không thể có được những giây phút nghỉ ngơi hay thư giãn.
“Các điều khoản bao gồm tổn thất thu nhập trong một năm”, Robert Beckman nói tiếp, lật giở một trang trên bìa kẹp hồ sơ. “Nếu thời gian xây dựng vượt mốc đó, chúng ta có thể xin gia hạn”.
“Vậy là chúng ta bắt đầu sớm chừng nào tốt chừng đó, ông có đồng ý không?”. Seth hỏi. “Tôi lo cả công ty của ông và cả cho chúng tôi”. Robert ân cần trả lời, nhưng ông ta có vẻ muốn kết thúc không muốn nghe thêm nữa. Justine bước ra bãi đỗ xe để đứng ở một góc xa nhất, nơi có thế nhìn xuống vịnh. Trong một ngày tiết trời u ám như thế này, gió mang hơi nước mằn mặn bao phủ mùi hăng hắc của khói.
M ỗi lần nhìn ra vịnh, lòng cô đều thấy ấm áp và dịu lại. Cô lặng lẽ bước đi, phong cảnh tĩnh lặng của vùng nước trước mặt xoa dịu con tim đang đập liên hồi trong cô. Seth tự mình nhúng tay vào giải quyết mọi vấn đề mà không hề nói với cô một tiếng nào, anh ấy đã bàn bạc với kiến trúc sư cả rồi. Ngày xưa, khi họ có ý tưởng mở nhà hàng Hải Đăng, Justine đều tham gia vào từng bước của dự án. Giờ thì Seth cho cô ra rìa.
Trận hỏa hoạn xảy ra, và hậu quả của nó tệ hơn rất nhiều so với những gì cô có thế tưởng tượng. Chồng cô đã biến thành một người xa lạ, một người mà Justine chưa từng biết, chưa từng cảm mến. Ý nghĩ bỏ đi, cuốn quần áo vào valy rồi biến mất càng ngày càng lớn trong cô, như một cám dỗ khó cưỡng lại Warren đã đề nghị cô dọn đến căn nhà nghĩ dưỡng của anh ta ở kênh đào Hood. Ở đó rất yên bình với bờ biển trải rộng, khoáng đạt đến vô cùng. Leif sẽ rất thích đi dọc theo bãi biển, khám phá, đùa nghịch trong làn nước mát. Lúc này đây cô có thể mường tượng ra cảnh ấy, rằng con trai mình sẽ đào cát tìm sò bằng chiếc xẻng nhỏ, tiếng cười của thằng bé sẽ hòa vào trong gió. Kể từ lúc Leif chào đời đến giờ, gia đình họ chưa từng đi nghỉ mát lần nào. Nhà hàng Hải Đăng đã chiếm trọn quỹ thời gian của họ. Chỉ khi nhà hàng không còn nữa, cô mới bắt đầu nhận thấy nó đã thâu tóm cuộc sống của họ thế nào.
“Justine”. Seth đặt tay lên vai cô khi bước đến từ phía sau. “Mọi việc sẽ ổn thỏa thôi, em yêu ạ”, anh nói, giọng êm dịu như muốn hòa giải. “Em biết”. Trận hỏa hoạn, sự sụp đổ nhà hàng... tất cả không còn là mối bận tâm lớn của cô nữa. Điều khiến cô lo lắng chính là sự tác động, ảnh hưởng của nó lên chồng cô.
“Anh nhận ra dạo gần đây anh gàn dở và hay cáu giận vô lý quá”. Cô mỉm cười và đặt tay mình lên mu bàn tay anh. Thú nhận mình gàn dở chỉ là một cách nói giảm, nói tránh thôi. Sự thật thì Seth đã xử sự tồi tệ hơn thế nhiều.
“Mọi việc rồi sẽ ổn”, anh lặp lại, “một khi chúng ta tìm ra kẻ đã làm chuyện này”.
“Có thật thế không?”, cô hỏi, nhưng dường như Seth không nghe thấy vì anh không trả lời.
Justine nghiêng đầu qua một bên để kề má mình lên tay anh. “Anh đã nói về chuyện xây dựng lại”. Cô lầm bầm.
“Dĩ nhiên rồi. Anh muốn bắt tay làm lại từ đầu càng sớm càng tốt. Em không muốn sao?”.
Cô nhún vai. “Em cũng chẳng biết nữa”. “Ý em là sao mà nói là mình không biết?” Anh cười phá lên và dường như chỉ nghĩ cô đang đùa anh. “Chúng ta kinh doanh nhà hàng. Đó là cách ta kiếm sống. Nếu chúng ta không xây dựng lại thì sẽ không kiếm được khoản thu nhập nào đâu”.
“Vâng, nhưng...”.
Chồng cô im lặng một lúc. “Anh không thể quay lại nghề đánh cá được, Justine ạ”. một người thợ đánh cá chuyên nghiệp luôn phải sống một cuộc sống vô cùng khó khăn, nguy hiểm, và họ đã thống nhất với nhau rằng tốt hơn hết Seth nên bỏ nghề. Bố anh đã động viên anh đi đến quyết định đó.
“Em không muốn anh trở lại nghề đánh bắt cá”, cô nói, xoay người để có thể ôm ngang người chồng. “Em chỉ không chắc mình có muốn làm chủ nhà hàng nữa không”.
Seth ghì chặt hai vai cô, mấy ngón tay bấu chặt vào thịt cô. “Ý em không phải như vậy phải không? Em không biết mình đang nói gì đâu”. “Em... em biết”, cô phản ứng. “Ít ra thì em nghĩ ý em là thế. Chúng ta bước vào con đường kinh doanh mà hoàn toàn không biết chúng ta đặt hết tâm sức, trí óc vào đó để làm gì. Chúng ta hoàn toàn ngây thơ và mờ mịt, chúng ta đã không lường trước được việc làm chủ nhà hàng sẽ lấy đi những gì ở chúng ta”.
Theo thống kê, tám trong số mười cơ sở kinh doanh mới đều làm ăn thua lỗ dẫn tới đóng cửa, kinh doanh nhà hàng đứng đầu danh sách đó. Lý do duy nhất dẫn đến thành công của họ là những nỗ lực đạt hiệu quả tuyệt đối kết hợp với một mức độ may mắn.
“Chúng ta mắc vài lỗi”, Seth nói, rồi thêm vào bằng nụ cười nhăn nhó, “được rồi, chúng ta mắc nhiều sai lầm trong giai đoạn đầu, nhưng chúng ta đã nhanh chóng rút ra bài học kinh nghiệm và đã vượt qua được một chặng đường dài rồi đấy thôi”.
“Chúng ta hầu như không còn thời gian để dành cho nhau, như một gia đình đúng nghĩa nữa”. Đ ây chính là điều khiến Justine buồn bã và lo lắng nhất.
Seth không đồng ý cũng không phản đối.
“Anh ở nhà hàng cả ngày lẫn đêm, cả em cũng vậy”. Cô cho rằng giờ không phải là lúc thích hợp để đề cập đến những mối lo ngại buồn phiền của mình, trong lúc Seth vẫn còn quá đau buồn.
“Anh phải ở đó. Em biết mà”. “Em không hề trách cứ anh về điều này”, Justine bảo, nhìn vào đôi mắt xanh hằn lên sự căng thẳng của Seth. Anh cau mày, và cô đọc được trong đôi mắt anh sự bối rối và đau đớn.
“Ý em nói anh không phải là một người chồng tốt?”, anh hỏi.
“Không! Ý em không phải thế. Em yêu anh và anh yêu em. Em chưa bao giờ nghi ngờ điều đó”. Rồi cô nói một cách miễn cưỡng. “Em lo sợ, Seth ạ”.
“Lo sợ ư? Lo sợ chuyện gì?”.
“Em không chắc nữa. Tuần rồi em bị bệnh gì đó khủng khϊếp lắm, nó khiến em xây xẩm mặt mày. Lúc đầu em không biết mình bị làm sao. Em cảm thấy như mình không có đủ dưỡng khí và sắp bị xỉu đến nơi”.
Sự lo lắng làm mắt anh tối sầm lại. “Khi nào vậy? Sao em không nói sớm?”. “Làm sao em có thể chứ? Anh chưa nguôi cơn giận và cứ bồn chồn mãi. Em không muốn anh phải lo lắng thêm”. Anh vòng tay ôm lấy cô, kéo cô lại gần.
“Anh xin lỗi, em yêu. Xin lỗi em”.
“Em cũng xin lỗi. Về mọi thứ”.
Anh ngẩng đầu lên. “Sao em lại xin lỗi?”.
“Vì em không nghĩ mình có thể quay trở lại cuộc sống trước kia, khi anh phải ra ngoài suốt. Khi em phải đến nhà hàng gần như mỗi ngày. Em không muốn con trai chúng ta phải ở nhà suốt đêm bên người giữ trẻ. Em không muốn quay lại chuỗi ngày lo lắng về chuyện tiền bạc và đến kỳ trả lương. Lúc nào cũng có chuyện gì đó, phải vậy không?”. Khi cô bắt đầu liệt kê những điều mình lo lắng, duờng như cô không thể dừng lại. “Điều này chưa từng là kế hoạch của chúng ta, anh nhớ không? Lúc đầu ta định là em sẽ làm sổ sách và thỉnh thoảng đến trông coi giúp anh, nhưng rồi cái “thỉnh thoảng” ấy lại trở thành việc thường xuyên mỗi ngày. Leif được nuôi dạy bởi những người lạ, còn anh thì càng lúc càng ít có thời gian dành cho chúng ta”.
Seth nhìn cô cau có. “Trước đây em chưa hề nói bất cứ điều gì như thế cả”. “Đó là bởi hiếm khi em được gặp anh, mà gặp được, chúng ta thường chỉ nói về nhà hàng. Chúng ta đã muốn có thêm một đứa con, vậy mà lần lựa mãi”. “Nhưng...”. “Thực tế chúng ta không có thời gian để vun đắp gia đình chúng ta thành một gia đình đúng nghĩa. Sẽ không hợp lý chút nào khi chúng ta sinh thêm một đứa con”. Cô nhìn anh chằm chằm. “Em biết anh đang nghĩ gì”.
“Thật sao?”.
“Anh đang nghĩ sẽ không đời nào để công sức khó nhọc của mình phải uổng phí. Rằng anh không phải cày như trâu trong suốt năm năm qua để rồi kết thúc trắng tay như thế này”.
Anh có vẻ giật mình, như thể nhận xét của cô khiến anh ngạc nhiên. “Cả hai chúng ta cần phải cùng nhau xem xét việc gì là thật sự quan trọng”, cô nói, giọng gần như nghẹn lại. “Làm việc một ngày mười ba, mười bốn tiếng đồng hồ có đáng với những gì nó tác động đến chúng ta, con trai chúng ta và cuộc hôn nhân của chúng ta không?”.
“Nó đáng đó”, anh khẳng định không một chút lưỡng lự. “Em đang thổi phồng sự việc quá đấy, Justine ạ. Đâu phải tất cả mọi chuyện đều xấu”. “Em đồng ý, nhưng đối với em, mặt xấu nhiều hơn mặt tốt, nó lấn lướt mặt tốt. Giờ đây em không còn chắc mình hy sinh như thế có đáng không nữa. Em yêu anh nhiều lắm”, cô thì thầm, đặt hai tay lên mặt anh, cố kìm lại những giọt nước mắt sắp trào ra khỏi khóe mi. “Em muốn chồng em trở lại như trước - như người đàn ông em đã cưới. Người đàn ông đã chứng minh cho em thấy mình có thể yêu và được yêu. Em muốn tìm lại những gì mà chúng ta tìm cùng nhau chia sẻ và em lo sợ bây giờ mới tính đến chuyện đó thì có lẽ đã quá muộn”.
Seth nhanh tay kéo cô về phía anh rồi ôm cô thật chặt. Cô cảm thấy người anh rung lên, và anh im lặng trong một lúc lâu. “Anh không hề biết em cảm thấy như thế này”. Cuối cùng anh cất tiếng. “Chính em cũng không biết cho đến khi nhà hàng bị cháy”, cô thừa nhận. “Vậy em thực sự muốn gì?”.
“Điều đó cũng là ẩn số đối với em đấy”, cô nói, cố gượng cười, một giọng cười run rẩy. “Em đoán là em muốn cả hai chúng ta phải suy nghĩ cho thật kỹ trước khi quyết định có nên xây dựng lại nhà hàng Hải Đăng hay không”.
Từ trạng thái căng thẳng bất ngờ của anh, cô đoán rằng anh không muốn phải cân nhắc gì nữa, mà anh muốn bắt đầu tiến hành kế hoạch xây dựng lại nhà hàng càng nhanh càng tốt. Justine cố nén cảm giác thất vọng, cô ngập ngừng vài giây tự hỏi liệu những gì mà mình vừa nói có khiến lay động một chút nào không.
“Anh không hứa bất cứ chuyện gì hết”, Seth bảo cô.
“Nhưng chúng ta có thể nói chuyện, bàn bạc với nhau được không?”, cô hỏi. “Được thôi” chồng cô đồng ý.