Chương 20: Bay
Cơn mưa lớn đổ ập xuống Hamburg, từ những khu vườn, mùi đất ẩm ướt sực lên. Mặt đường trải nhựa lấp lóa sáng, và những bóng đèn neon phản chiếu nhập nhòe trên những vỉa hè ướt. Một người đàn ông rảo bước trên con phố hoang vắng về phía Hiệu tạp hóa Bến cảng Harry.
“Không đời nào!” Con đười ươi rít lên. “Kể cả chúng mày có ngoáy năm mươi cái móng vào lỗ dom tao, tao cũng không mở cửa cho chúng mày đâu!”
“Nhưng không ai muốn đánh anh cả. Chúng tôi chỉ muốn anh giúp đỡ,” Zorba nài nỉ.
“Giờ bọn tao mở cửa là từ chín giờ sáng tới sáu giờ tối. Đó là quy định, và nó phải được tôn trọng.”
“Đồ sứa bầy nhầy! Mày không thể thành một gã trai tử tế chỉ một lần trong đời mày sao, đồ khỉ?” Bốn Biển ngoao lên.
“Làm ơn đi mà, ngài Khỉ,” Lucky van vỉ.
“Không là không! Quy định cấm tao chìa tay ra mở cánh cửa mà bọn khố rách áo ôm tay không ngón chúng mày không thể mở được,” Matthew rít lên đầy khinh bỉ.
“Mày là một con linh trưởng khủng khϊếp! Khủng khϊếp!” Einstein lẩm bẩm.
“Có một người đàn ông ngoài kia đang nhìn đồng hồ đeo tay,” Secretario la lên, trỏ trỏ chân qua cửa sổ.
“Ông nhà thơ đấy! Không còn thì giờ nữa đâu!” Zorba nói, lao hết tốc lực về phía cửa sổ.
Khi tiếng chuông của nhà thờ Thánh Michael bắt đầu ngân lên báo nửa đêm, con người trên phố giật bắn mình khi nghe tiếng kính vỡ. Con mèo đen, to đùng, mập ú nhảy phốc xuống mặt phố giữa đám mưa mảnh thủy tinh mù mịt, nhưng nó lại lấy đà, không hề chú ý tới vết rách trên đầu, rồi lại nhảy ngược lên khung cửa sổ mà nó vừa đâm xuyên qua.
Con người kia chạy lại đúng lúc mấy con mèo đang kéo con hải âu lên bậu cửa sổ. Đằng sau bọn mèo, một con đười ươi đang run rẩy lấy tay ôm mặt cố bịt mắt, bịt tai, bịt miệng cùng một lúc.
“Đón lấy con bé. Đừng để cho nó bị mảnh kính cắt phải,” Zorba lên tiếng nhắc.
“Nhảy xuống đây, cả hai bạn,” con người nói, ôm cả con mèo và con hải âu trong vòng tay.
Con người gấp rút rời khỏi cửa sổ hiệu tạp hóa. Bên dưới lớp áo mưa, ông mang theo một con mèo mun, to đùng, mập ú và một con hải âu có lớp lông màu bạc.
“Bọn cặn bã! Quân kẻ cướp! Chúng mày sẽ phải trả giá!” Con đười ươi rít lên.
“Cho mày đáng đời! Mày biết mai ông Harry sẽ nghĩ gì không? Rằng chính mày đã đập vỡ cửa kính,” Secretario nói.
“Hoan hô,” Đại Tá líu cả lưỡi. “Cho mày nhớ cái lần mày dám thụi tao.”
“Cá chuồn phi gấp! Chạy lên nóc nhà thôi, anh em ơi! Phải xem Lucky của bọn mình bay mới được,” Bốn Biển lên tiếng gọi.
Con mèo mun, to đùng, mập ú đang rất thoải mái dưới lớp áo mưa, tắm trong hơi ấm của con người đang sải những bước nhanh, mạnh. Chúng có thể nghe thấy tiếng ba trái tim đập với những nhịp điệu khác nhau, nhưng đều đang đập mãnh liệt.
“Anh có bị đau không, anh mèo?” Con người hỏi khi trông thấy những vết máu khô đọng trên vệt áo mưa.
“Chẳng đáng bận tâm. Chúng ta đang đi đâu đây?” Zorba hỏi.
“Má hiểu được con người đó nói gì hả má?” Lucky lép chép.
“Ừ. Ông ấy là một con người tử tế và sẽ giúp con bay,” Zorba trấn an con hải âu.
“Anh có hiểu được con hải âu nói gì không?” con người hỏi.
“Nói cho tôi hay chúng ta đang đi đâu đi,” Zorba lại nhắc thêm lần nữa.
“Chúng ta không đi đâu cả, chúng ta đang ở đó rồi,” con người đáp.
Zorba ló đầu ra. Họ đã dừng lại trước một tòa nhà cao vυ"t. Nó ngẩng lên và nhận ra đó chính là tháp chuông nhà thờ Thánh Michael, được chiếu sáng chói bởi hàng chục ngọn đèn pha. Ánh sáng tập trung vào một khối kiến trúc đơn giản với những lớp đồng mạ đã bị thời gian, mưa gió để lại lớp gỉ màu xanh.
“Xem chừng cửa bị khóa rồi,” Zorba ngao ngán bảo.
“Không phải tất cả các cửa đâu,” con người nói. “Ta thường lên đây vào những đêm bão tố để hút thuốc và suy ngẫm về nỗi cô đơn. Ta biết một lối vào.”
Họ ngoặt vào một góc rồi bước qua cánh cửa bên mà con người nậy ra bằng một lưỡi dao. Ông lôi từ túi ra một cái đèn pin và nhờ vào ánh sáng yếu ớt của nó, họ bắt đầu leo lên một cầu thang xoắn vòng tưởng chừng như không bao giờ hết.
“Con sợ,” Lucky thốt lên.
“Nhưng con muốn bay, phải không?” Zorba hỏi.
Từ tòa tháp chuông nhà thờ Thánh Michael, họ có thể nhìn thấy toàn bộ thành phố. Mưa bao phủ cả tháp truyền hình, và trên bến cảng, những chiếc cần trục trông như những con thú đang say ngủ.
Zorba trỏ về phía một ngôi nhà có ánh sáng. “Trông kìa, hiệu tạp hóa của Harry. Nơi bạn bè chúng ta đang đứng đấy,” Zorba nói.
“Má ơi, con sợ lắm!” Lucky lại kêu lên.
Zorba nhảy lên lan can bao quanh tháp chuông. Phía dưới, những phương tiện giao thông đang nhung nhúc bò như đám côn trùng với cặp mắt sáng chói. Con người nâng con hải âu trên bàn tay.
“Không! Con sợ lắm! Zorba! Zorba ơi!” Lucky òa lên khóc, mổ chong chóc vào bàn tay con người.
“Khoan đã! Đặt con bé xuống lan can đi,” Zorba nói với con người.
“Tôi không định thả nó xuống đâu,” con người đáp.
“Con chuẩn bị bay rồi, Lucky à. Hít một hơi thở sâu. Hãy cảm nhận làn mưa. Đó là nước. Trong cuộc đời, con sẽ có rất nhiều lý do để hạnh phúc. Một trong những thứ đó là nước, thứ khác là gió, thứ khác nữa là mặt trời, và đó luôn là món quà đến sau những cơn mưa. Hãy cảm nhận mưa đi. Dang đôi cánh của con ra,” Zorba điềm tĩnh nói.
Con hải âu xòe đôi cánh. Những chiếc đèn pha tưới nó đẫm trong ánh sáng, và nước mưa vương trên bộ lông nó như những viên ngọc trai. Con người và con mèo quan sát nó ngẩng đầu lên, mắt nhắm nghiền.
“Mưa. Nước. Con thích chúng,” nó nói.
“Con sắp bay,” Zorba nói thêm lần nữa.
“Con yêu má, Zorba. Má là con mèo tuyệt vời nhất thế giới,” Lucky nói, di chuyển về góc chót của dãy lan can bao quanh.
“Con sẽ bay. Cả bầu trời kia sẽ thuộc về con.”
“Con sẽ không bao giờ quên má và cả các bác mèo.” Lucky đã chấp chới vươn nửa bàn chân ra khỏi gờ lan can, đúng như bài thơ của Atxaga đã nói, nó mang trái tim của thần bay lượn.
“Bay đi!” Zorba la lên, chìa ra một bàn chân và hích con hải âu một cái thực là khẽ.
Lucky biến mất khỏi tầm nhìn, con người và con mèo sợ đến chết khϊếp. Nó rơi thằng xuống như một viên đá. Nín thở, họ vươn ra ngoài lan can, và rồi họ thấy con hải âu, đang đập cánh, lượn qua bãi đỗ xe, rồi họ dõi theo nó bay cao lên, cao hơn cả cái phong hướng tiêu mạ vàng đang tôn vinh vẻ đẹp độc nhất vô nhị nhà thờ Thánh Michael.
Lucky bay một mình trong đêm quanh thành phố Hamburg. Nó bay đi xa, đập nhanh đôi cánh của mình, cho tới khi đã bay cao vượt trên cả những cái cần trục ở cảng, cao vượt trên cả những cột buồm, và rồi nó quay trở lại, lướt đi, đảo hết vòng này đến vòng khác quanh tháp chuông nhà thờ.
“Con đang bay! Má Zorba! Con biết bay rồi!” Con hải âu la lên ngây ngất từ bầu trời xám xịt bao la.
Con người vỗ lưng Zorba. “Đó, anh mèo, chúng ta làm được rồi,” ông ta nói, thở phào.
Zorba ngẩn ra ngẫm nghĩ mất một lúc. “Phải. Từ chỗ không biết gì con bé đã thấu hiểu được điều quan trọng nhất,” Zorba.
“Ô, thế sao? Đó là cái gì?” con người hỏi.
“Chỉ những kẻ thực sự dám thì mới có thể bay.”
"Ta chuẩn bị đi xuống đây. Ta đợi anh bên dưới,” con người nói rồi bước đi.
Zorba ngồi đó, dõi theo con hải âu cho tới lúc nó không biết những giọt mưa hay nước mắt đã phủ mờ đôi mắt màu vàng của con mèo mun to đùng, mập ú… một con mèo tử tế, cao quý, một con mèo của bến cảng.
Laufenburg, Cánh Rừng Đen, 1996