Chương 8
Cơn gió độc địa
“Weeedon! Weedon!”
Charlie nghe thấy tiếng thét trong mảnh sân gạch bên dưới phòng ngủ chung. Nhảy phốc khỏi giường, nó phóng ra cửa sổ. Ở đó đã có năm sáu thằng bu lấy khung kính
“Đó là thầy Giám Sát Tài Phép”, một thằng năm nhất phấn khích la to.
“Xem đầy thủy tinh kìa,” một thằng khác quan sát.
“Ai đó ném gạch trúng cửa sổ,” Bragger Braine, đứa năm hai tiếp lời.
“Đồ ngu,” Dagbert phọt miệng. “Thủy tinh từ bên trong chứ không phải từ bên ngoài, nếu có gạch ném xảy ra.”
“Mày nghĩ mày thông minh thế à?” Rupe Small, nô ɭệ cúc cung của Bragger hằn học nói.
Một đống thủy tinh vỡ lấp loáng dưới sàn. Manfred đang chậm rãi đi vòng quanh, sục mũi giày về đống thủy tinh, ngồi xổm xuống dùng một cây bút chì chọc chọc vô. “Weedon!” hắn réo gào. “Lại đây mau!”
Ồn hiệu trưởng, giáo sư Bloor, mở cánh cửa sổ phía trên thư phòng của Manfred và hỏi, “Cái quái quỷ gì thế, hở?”
“Coi đây!” Manfred gào lên, bật đứng dậy. “Coi cái này này!” Hắn lại quăng tay chỉ vào đống thủy tinh vỡ.
“Sao lại có chuyện đó xảy ra?” cha của hắn chất vấn.
Charlie thấy Manfred ngần ngừ. Cái quái gì xảy ra tai nạn này thì hiện tại sẽ là bí mật của Manfred. “Làm sao tôi biết?” hắn quát, giọng hắn bị kích động lên tới nốt cuồng loạn.
“Ta cho rằng đó là một trong những thí nghiệm của anh,” giáo sư Bloor nói.
“KHÔNG phải!” Manfred rít rống. “Weedon đâu rồi?”
“Hắn đang lau dọn phòng của ta. Chứ còn ở đâu nữa?” Giáo sư Bloor thình lình phát hiện những gương mặt lô nhố trong khung cửa sổ phòng ngủ chung, bèn gầm vang, “Đi ngủ hết đi! Không ta sẽ cấm túc cả đám.”
Tức thì một trận chen chúc cuống cuồng tránh xa khỏi cửa sổ. Mười hai thằng bé lao về giường của chúng và kéo chăn lên tịt mít đầu. Chúng chờ bà giám thị đùng đùng xông vô, nhưng tối nay mụ ta đang có những việc khác chiếm lĩnh đầu óc.
Clearwen nằm úp trong những chiếc lá úa vàng giữa hai viên sỏi đồng màu. Nó thu mình nhỏ hết cỡ trong khi gã Weedon hốt mảnh thủy tinh xung quanh. Gã ụt ịt rêи ɾỉ trong họng khi cúi xuống quét những mảnh vụn vô cái đồ hốt rác.
“Đổ tất cả vô đây, Weedon.” Manfred chìa ra một cái túi nylon trong suốt.
“Ngài định làm gì với nó?” gã Weedon hỏi. “Dùng chúng để thực hiện nghệ thuật sắp đặt à?”
“Không phải việc của lão,” Manfred nạt, cả hắn cũng đang tỉ mẩn quét nước. “Và nhớ cho ta biết lão có thấy gì bất thường không.”
“Kiểu khác thường gì?”
“Ồ, lão thừa biết,” Manfred nóng nảy. “Bất cứ cái gì không phải thủy tinh: có lẽ một con ruồi, hay một con bướm.”
“A!” gã khụt khịt. “Giờ thì tôi hiểu rồi”
Gã gác cổng tiếp tục gác thêm nửa giờ nữa, nhưng nhiệt độ đang tụt xuống nhanh lẹ và chẳng bao lâu sau cả mảnh sân rải sỏi đã bắt đầu lóng lánh sương giá.
“Không hay rồi, ngài Manfred,” gã Weedon lầu bầu. “Tôi không thể phân biệt được thủy tinh với sương. Tôi chịu thua.” Gã đổ nhúm rác cuối cùng vô bap nylon rồi đi qua cánh cửa vô Tháp Phía Tây.
Manfred đứng thẳng lên, xoa xoa cái lưng. Chắc hắn vẫn còn đau do vết thương mà những con báo đã tặng hắn. Nhưng hắn chưa hề tính đến chuyện bỏ cuộc. Hắn không chịu tin con bướm đã trốn thoát khỏi hắn hoàn toàn. Không hòn nào thoát khỏi con mắt hung dữ của hắn.
Clearwen chờ. Trông cô nàng như một vật chết: một vân lá, một vân cỏ. Mãi đến khi Manfred từ bỏ cuộc tìm kiếm, cô nàng bò ra khỏi chỗ núp và di chuyển về phía bức tường nhà nguyện. Ở đó cô nàng nằm trong vũng sáng từ cửa sổ kính màu hắt xuống. Cô nàng biết mình phải tới được Charlie trước khi thằng bé lại cố chu du lần nữa, nhưng lộ trình tới phòng ngủ chung vừa dốc vừa nguy hiểm đối cới con sâu bướm tí nị mà cô nàng vừa biến thành. Để trón được Manfred, Clearwen đã phải thay đổi hình dạng lần nữa. Phải mất ít thời gian thì cô nàng mới trở lại là con bướm trắng như cũ
Chiều thứ Sáu, khi lũ trẻ đi thu xếp đồ đạc để ra về, Clearwen vẫn biệt tăm.
Trước đó Charlie đã tận dụng từng phút rảnh rỗi để lùng tìm con bướm của mình nhưng chả thấy tăm tích nó đâu. Và rồi lúc nó với Billy đang xếp hàng đằng sau cánh cửa đôi đồ sộ bằng gỗ sồi, chờ gã Weedon mở cửa, Tancred phóng bay tới từ phía sau Charlie, thì thào, “Charlie, Dagbert nói nó đã bắt được con bướm của em.”
“Cái gì!” Buông cái giỏ rớt xuống sàn, Charlie quay phắt lại và tìm dáo dác hàng con nít đằng sau mình.
“Nó không có ở đây,” Tancred bảo. “Nó đang học thêm với thầy Giám sát Tài Phép.”
“Em không quan tâm nó ở đâu,” Charlie nói lớn.
“Suỵt! Em bị cấm túc bây giờ.” Tancred cảnh báo. “Chờ đến khi tụi mình ra ngoài đã.”
Gã Weedon đã xuất hiện. Thở hồng hộc và càm ràm, gã tháo những cái then sắt to kềnh ra và lách cách tra chiếc chìa quá khổ vô ổ khóa. Cuối cùng cánh cửa mở toang và gã gác cổng quạu quọ đứng qua bên trong khi bọn trẻ tuôn qua người gã ra ngoài trời tự do.
Ba chiếc xe buýt đang đợi sẵn trên quảng trường. Charlie đứng chờ ở bậc thang trong khi bọn khoa Nhạc leo vô chiếc xe buýt xanh da trời đằng trước nó. Khi Tancred hiện ra, Charlie chụp lấy cánh tay anh.
“Thế, con bướm của em ở đâ?”
“Anh đã bảo em rồi,” Tancred lẳng tấm áo chùng xanh lá cây ra xa vai. “Dagbert nói nó bắt được con bướm. Nó đòi trao đổi con bướm với con nhím biển của nó.”
“Ý anh nói gì?” Charlie kêu to.
Sải bước về chiếc xe buýt xanh lá cây, Tancred nói, “Ý anh nói rằng nó sẽ đổi con bướm của em lấy con nhím biển bằng vàng của nó mà anh đã thu giữ vào cái đêm nó cố ý dìm chết em.”
“Vậy chừng nào anh định đổi nó? Charlie nhùng nhằng bám sát gót Tancred ra tới tận chỗ chiếc buýt xanh lá cây.
“Thì thế đó, Charlie. Anh không nghĩ mình chịu để nó có lại con nhím biển. Không có con nhím thì nó không qua nguy hiểm.” Tancred bắt đầu leo lên xe buýt.
“Ảnh phải đổi,” Charlie nhảy lên bậc thang cuối củ axe buýt.
“Em trễ xe buýt bây giờ,” Tancred nhắc nó. “Xuống mau đi, Charlie. Xe này đi hướng khác.”
“Mặc kệ.”
“Tụi mình sẽ tìm ra cách khác để lấy lại con bướm của em,” Tancred nói khi đi về phía cuối xe buýt.
“Xuống đi, cậu xanh da trời kia,” bác tài xế ra lệnh, “không tôi bảo ông gác trường điệu cổ cậu xuống bây giờ.”
Charlie nhảy xuống khi chiếc xe buýt xanh lá câ rùng rình ra khỏi quảng trường. Xe buýt của nó cũng đã bắt đầu chuyển bánh và nó chỉ vừa kịp nhảy lên. Cả Gabriel và Fidelio cùng kéo nó vô, thả nó nằm phì phò ở giữ lối đi, trong khi bác tài xế than thở rằng lũ trẻ chẳng hiểu được ai sinh ra và nuôi lớn chúng.
Gabriel gác giỏ xách của Charlie lên ngăn để hành lý, trong khi Charlie đứng dậy và ngồi phịch vô ghế bên cạnh Fidelio.
“Có chuyện gì thế?” Gương mặt lo lắng của Billy ngó vòng qua lưn ghế của Charlie.
“Để anh nói em biết sau,” Charlie nói, chìm nghỉm xuống. Nó quay qua Fidelio thì thầm, “Dagbert bắt được con bướm của em, nhưng nó đòi đổi lấy món đồ mà Tancred đã lấy của nó.”
Fidelio nhìn sững Charlie. “Anh ước gì có nơi nào đó cho đám tụi mình gặp gỡ. Anh phải diễn tập với dàn nhạc Trẻ suốt cuối tuần, nhưng anh sẽ rảnh vào tối Chủ nhật. Giờ em định làm gì khi quán cà phê Thú Kiểng bị đóng cửa?”
Từ hàng ghế phía sau chúng, Gabriel nói, “Làm cho quán cà phê mở của lại. Tôi sẽ đi gặp ông Onimous.”
“Nhưng ông ấy...” Charlie bắt đầu.
“Chưa chết,” Gabriel nghiêm nghị.
Chiếc xe buýt chạy ngoằn ngoèo khắp thành phố trong khi lũ trẻ nhảy xuống tại những trạm gần nhà chúng và biến mất vào trời tối. Đèn đường đã bật, nhưng ánh sáng không thể vươn tới những ngõ hẻm quanh co, tối hù, nơi tiếp giáp đường Đồi Cao.
Gabriel sống trên đường Đồi Cao, một con đường dốc đá nhìn xuống thành phố. Anh là người đầu tiên xuống trạm ở chân đồi, nhưng hôm nay anh đợi đến khi xe tới quãng đường hẹp dẫn vô quán cà phê Thú Kiểng mới xuống.
“Mẹ tôi đang ở đó,” ảnh bảo. “Mẹ tôi bảo sẽ không để bà Onimous một mình sau tất cả những chuyện xảy ra.”
Charlie nhìn Gabriel quẹo vô hẻm Ếch và co giò chạy. Trong tất cả bọn chúng, Gabriel là người gang gũi với gia đình Onimous nhất. Mẹ anh làm phục vụ trong quán, và gia đình chuột kiểng đông đúc của anh luôn là khách được chào đón ở đấy.
Charlie và Billy rời xa buýt ở đầu đường Filbert và đi bộ về nhà số 9. Khi chúng gần về đến nhà, Charlie thấy Benjamin đứng ở bậc cấp trên cùng nhà số 12. Benjamnin đang nhòm trừng trừng nhà của Charlie bên kia đường. Vừa nhác trông thấy Charlie, thằng này chui tọt vô nhà và đóng sầm cửa trước lại.
Charlie thở dài. “Nó sẽ không nói chuyện với anh nữa cho tới khi nó gặp lại Hạt Đậu.”
“Có lẽ em sẽ nhìn một chút vô bức tranh,” Billy nói.
“Quên đi, Billy. Nếu em bị bắt vô xứ Badlock, anh sẽ không bao giờ cứu em ra được đâu. Nếu không có Clearwen.” Bất thần Charlie nghĩ đến người khổng lồ. Không có Clearwen, có thể nó sẽ không bao giờ gặp lại tổ tiên của mình.
Hai thằng bé bước vô hành lang và hướng thẳng tới nhà bếp. Ngoại Maisie đang nấu món gì đó thơm lừng đến nỗi miệng chúng tứa nước.
Rủi thay, ngoại Maisie không phải là người duy nhất ở trong bếp. Nội Bone đang ngồi trong chiếc ghế bập bênh của mụ bên cạnh bếp lò.
“Aaa!” Bộ mặt cấm cẳn của nội Bone vỡ phụp ra một nụ cười. “Billy Raven, cuối cùng cũng tới. Ta đã tự hỏi khi nào thì mi sẽ lại tới thăm bọn ta đây.”
“Chào, bà Bone,” Billy lấm lét nói.
“Treo mũ áo trong hành lang á, lũ nhóc.” Nội Bone chỉ ra cửa. “Và đem giỏ sách lên lầu. Bọn ta không thích đem đồ ngoài đường vô nhà bếp ấm cúng của bọn ta phải không Maisie?”
“Tôi chẳng phiền gì,” ngoại Maisie nói, bắc một cái nồi lớn ra khỏi bếp lò.
Nội Bone mắng bà “Thì tùy đấy” rồi xua hai thằng bé đi.
“Ngoại Maisie, Hạt Đậu có...” Charlie bắt đầu.
“Theo bà biết thì, không có gì ra khỏi tầng hầm cả,” ngoại Maisie nói. “Chắc bà kia có thể nói cho con biết bà ta có thấy gì không.”
“Lũ nhóc áo chùng.” nội Bone quát.
Billy trở ra hành lang và Charlie theo sau, cố không vuột ra lời gì đó thô lỗ. Treo áo chùng xanh da trời lên mắc để mũ xong, hai thằng bé vù lên lầu thảy giỏ xách vô phòng Charlie rồi chạy ù xuống bếp.
“Dọn bàn, Charlie,” nội Bone ra lệnh, bệp bênh chiếc ghế tới lui. Hình như mụ đang phấn khích về cái gì đó.
Charlie vâng lời sắp bàn ra cho năm người ăn.
“Bốn thôi,” bà nội nó hằm hè. “Ông cậu Paton của mày không có ở nhà, ơn trời. Ăn dưới ánh nến khiến tao phát ớn.”
Charlie cất bớt một con dao và một cái nĩa đi, tất cả cùng ngồi xuống trong khi ngoại Maisie mang thịt cừu hầm lên bàn, và bắt đầu múc ra. Món náy tất nhiên là mê ly cư Charlie hy vọng rồi, nhưng bữa ăn bị ô nhiễm bởi sự có mặt lù lù của nội Bone – bởi tiếng húp xì xụp muh phát ra, bởi tiếng mụ ợ hơi và cái kiểu mụ hay đảo mắt nhìn đĩa của mọi người.
Bữa ăn sắp xong thì Charlie nghe thấy một chiếc xe lớn lái tới tấp vô lề dường bên ngoài nhà. Qua kẽ hở của những tấm rèm nó thấy một chiếc xe thùng màu trắng vừa đậu ngay trước cửa sổ nhà bếp. Nó ngạc nhiên khi Ông cậu Paton nhảy ra, đóng vội cửa xe lại và chhatj vô nhà, chiếc mũ phớt đen sụp xuống che mặt. Charlie thầm mong cho mọi sự êm thấm và nhìn đèn đường. Không có gì nổ tung.
“Phùù!” Charlie mừng húm ngay lúc cửa trước mở cái ình.
“Có ai làm ơn tắt đèn đi,” Ông cậu Paton gọi từ ngoài hành lang.
Ngoại Maisie buộc phải thắp nến lên trong khi Charlie phóng ra tắt đèn.
“Mi đã ở đâu mất mặt suốt cả tuần hả?” nội Bone hoạnh họe khi Ông cậu Paton bước vô.
Quăng cục lơ vào câu hỏi của mụ, Ông cậu Paton chép miệng “Có món gì thơm quá”. Ông đặt chiếc cặp táp sờn rách bên cạnh cửa và kéo một chiếc ghế tới bàn.
“Tao vừa hỏi mi đó,” nội Bone nói.
“Thì bà hỏi, Grizelda.” Ông cậu Paton xoa hai tay vào nhau khi ngoại Maisie đặt một đĩa thịt cừu bốc khói trước mặt ông. “Tôi khôn thấy lí do để trả lời câu hỏi của bà. Tôi làm gì là việc của tôi.” Ông quay qua Charlie. “Con chó chưa xuất hiệ phải không, Charlie?”
Charlie lắc đầu. “Hạt Đậu vẫn bị kẹt.”
“Nhưng có lẽ con có thể nói chuyện với nó,” Billy nói.
Ông cậu Paton nhíu mày. “Không được, Billy.” Ông bắt đầu xơi món cừu trong đĩa của mình.
“Nhưng có thể...” Billy nôn nóng nhoài người về trước.
“Không,” Ông cậu Paton dứt khoát. “Chúng ta sẽ tìm cách khác. Mặc dù ta thú thực rằng trong nghiên cứu của mình ta chưa bao giờ nghe nhắc đến việc chó bị kẹt trong tranh.”
“Nghiên cứu! Nghiên cứu!” bà chị của ông gầm gừ, rời bàn. “Thò mũi vô chuyện người khác thì có. Mĩ nghĩ điều đó sẽ đưa mi tới đâu?”
“Về cá nhân tôi thì không tới đâu cả, bà chị à. Tuy nhiên những gì tôi khám phá ra lại có ích cho khối người khác.” Ông cậu Paton liếc nhìn Billy Raven.
Charlie nhìn theo bà nội nó hằm hằm đi ra cửa. Ở đó mụ chần chừ, bàn tay phải suýt giơ lên bật công tắc đèn. Nó có thể thấy mụ hết sức ham muốn bật cái bóng đèn treo phía trên bàn lên. Nếu mụ mà bật thì Ông cậu Paton sẽ bị dội mưa thủy tinh và đĩa đồ ăn của ông sẽ đầy mảnh vụn. Nhưng mụ chỉ lần chần rồi, với một cái nhún vai nhẫn nhục, mụ rời khỏi phòng.
“Chính xác thì là ông nghiên cứu gì thế ạ, ông Yewbeam?” Billy hỏi.
“À, nghiên cứu của ta,” Ông cậu Paton mỉm cười, hình như với chính mình thì đúng hơn. “Ta đang viết về lịch sử dòng họ nhà ta, Billy à. Gia đinh YewBeam. Nhưng việc đào xới và khoan xoáy quá khứ lại dẫn ta đi sâu vô cuộc đời của nhiều người khác. Không thành phố nào trên đất nước này giống như thành phố này, con biết đấy. Trước hết, nó được xây dựng bởi một thầy pháp, hơn nữa, và một vị vua. Nhưng thầy pháp, những người tốt và kẻ xấu giờ đây nằm lẫn trong từng tấc đất của nơi này. Giống như một lớp vỉa quặng ăn liền vô đất trồng, đá và đất sét, đá vôi và đất mùn bên dưới bước chân chúng ta.”
Ngoại Maisie khẽ thốt lên “Chậc!” rồi lắc đầu bảo “Có cần thiết phải mua một chiếc xe moóc to như thế không, Paton?”
“Tổ tiên của chúng tôi ở rải rác khắp đất nước,” Ông cậu Paton đáp. “Tôi phải đi tới những nghĩa trang, thư viện, nhà riêng, văn phòng hội đồng, đại loại thế. Khi đêm xuống, tôi thường nhận ra mình ở xa nhà. Chắc chắn tôi không thể vô khách sạn được, với tất cả đèn đóm sáng trưng như thế. Tôi chỉ còn lựa chọn duy nhất là ngủ trên băng ghế công viên.”
“Và bị bóp cổ từ phía sau,” Billy nói.
“Bóp cổ, đúng. Chính xác, Billy.” Ông cậu Paton múc muỗm cuối cùng, tuyên bố đó là món hầm ngon nhất mình từng ăn, và ngồi ngửa lưng ra sau thở một cái thật khoan khoái.
“Ông đã tìm ra cái gì thú vị chưa ạ, ông YewBeam?” Billy hỏi tiếp.
Ông cậu paton nhìn Billy một thoáng, như thể đang quyết định xem có nên bộc lộ với thằng bé hay không. Cuối cùng ông đáp, “Có chứ, Billy. Có thật sự. Nhưng hiện tại những manh mối vẫn còn mũ mờ. Để tới lúc ta tháo gỡ được những chi tiết rối rắm, rồi thì...” Ông ngừng lại, “rồi thì sau đó, cuộc sống của nhiều người sẽ đột ngột thay đổi...đầy kịch tính.”
Charlie có ấn tượng là những lời nói của Ông cậu Paton rất có ý nghĩa với Billy, đúng là riêng với Billy, đến nỗi cuộc đời thằng bé có thể thay đỏi hoàn toàn. Phải chăng Ông cậu Patton đã phát hiện điều gì đó về cha mẹ thằng bé?
Ồn cậu Paton không nói gì thêm về nghiên cứu của mình nữa. Thay đổi đề tài, ông hỏi ngoại Maisie có gì xảy ra với bức tranh trong khi ông đi vắng không.
“Ông không nghĩ tôi nhìn vô tầng hầm đấy chứ?” bà bắt bẻ. “Sau những gì xảy ra với con chó tội nghiệp. Vả lại bà chị của ông khóa tịt cửa rồi.’
“Tôi chỉ tự hỏi, bà biết đây, xem bà có nghe thấy tiếng sủa hay tiếng tru...gì đó không,” Ông cậu Paton nói.
“Không.” Ngoại Maisie thu dọn đĩa và đem ra bồn rửa. “Nhưng tôi hay thấy Benjamin Brown cứ nhìn đau đáu qua bên đây như thể trái tim nó tan vỡ.”
“Con phải làm gì đây?” Charlie kêu lên, ụp hai tay che mặt. “Con sẽ cố cứu Hạt Đậu, cho dù không có Clearwen.”
“Con bị mất con bướm à?” Ông cậu Paton lo lắng.
“Con biết nó ở đâu? Nhưng con chưa thể lấy nó lại được.”
“Sao chưa?” ông cậu của nó nói.
“Quá phức tạp để giải thích.”
Ông cậu Paton chấp nhận câu trả lời này một cách miễn cưỡng. “Chừng nào chưa tìm thấy con bướm thì đừng nhìn vô tầng hầm. Đố là mệnh lệnh.” Ông đứng lên và đẩy ghế vô bàn. Chúc mọi người ngủ ngon, ông cắp cặp táp vô nách, lấy một cây nến từ trên tủ đựng ly chén và đi lên phòng riêng.
Khi ngoại Maisie nghe thấy tiếng cửa phòng Ông cậu Paton đóng lại, bà bật đèn bếp và giơ một chiếc khăn lau bát đĩa lên, “Nào các cậu bé. Ai sẽ lau đây?”
Billy xí lau bát đĩa, còn Charlie cất chúng đi. Ngoại Masie là người rửa chảo nồi sạch nhất.
Nửa giờ sau, khi Charlie và Billy đang leo lên cầu thang, một cơn gió lạnh quét qua hành lang. Lớp áo khoác trên mắc đu đưa trong cơn gió, hai bức tranh trên tường xệch qua bên, tấm thảm chùi chân đặt ở cửa bị nhấc lên một đầu, và chiếc mũ phớt của Ông cậu Paton vọt lên trần nhà, lật ngửa ra rồi rơi phịch xuống đất.
“Cái gì đó?” Billy bám chặt lấy thanh vịn cầu thang.
“Không biết.” Charlie tới nhặt chiếc mũ của ông cậu lên. Nó không hề nghe thấy tiếng gió ngoài đường, không có tiếng cửa lạch cạch, không có cây cối xào xạc. Nó ngó xuống hành lang dấn tới tầng hầm. Nó có thể đoán cơn gió độc từ đâu thổi tới nhưng quyết định không nói cho Billy biết.
Hay là cái bóng đã chạm tới chúng, ở ngay tại đây?