Chương 11
Cụ Bittermouse
Tiếng sủa lay Charlie tỉnh giấc. Ban đầu nó chịu không biết tiếng đo phát ra từ đâu. Nó nhìn qua giường của Billy. Hình như trống trơn. Charlie nhổm dậy nhìn sát hơn. Đúng, rõ ràng Billy không có ở trên giường. Ráp các sự việc lại với nhau, cộng với tiếng chó sủa khiến Charlie dấy lên niềm hy vọng. Nilly đã tìm cách cứu được Hạ Đậu rồi chăng?
Charlie lật đật xỏ chân vô đôi dép lê và chạy xuống tầng hầm. Cửa không mở. Lạ thật. Billy đã tự khóa nó trong đấy?
“Billy?” nó gọi. “Em có ở dưới đó không?”
Tiếng sủa căng dần. Tiếng móng vuốt lạch xạch trên những bậc thang gỗ cào cào cánh cửa tầng hầm.
“Hạt Đậu!” Charlie la lên. “Phải mày không hả? May ra được rồi.” Nó được trả lời bằng một tràng sủa vui sướиɠ.
“Cái quỷ gì thế?” Có tiếng hỏi từ cầu thang.
Charlie ngước lên thấy nội Bone trong tấm áo ngủ màu tím và cái chụp tóc màu hồng.
“Hạt Đậu đã ra khỏi bức tranh.” Charlie không thể che giấu nỗi phấn khởi của mình. “Cháu không biết xảy ra thế nào, trừ phi Billy làm, nhưng của tầng hầm vẫn khó cho nên...”
“Thế thì mở nó ra.” Nội Bone siết chặt sợi dây thắt lưng áo ngủ lại và bước xuống lầu. “Rồi đem con chó ra khỏi nhà tao ngay,” mụ đe nẹt. “Bây giờ là sáng Chủ nhật, nó sẽ dựng cả phố dậy mất.”
Charlie chạy vô nhà bếp. Một cái ghế đã được kéo sát tới bên tủ đựng ly chén. Quái lạ. Charlie chắc chắn mình đã đẩy ghế trở lại bàn sau khi cất chìa khóa vào hũ rồi cơ mà. Chắc chắn Billy đã lấy nó ra, mở của tầng hầm rồi tự nhốt mình trong đó. Nếu thế thì chìa khóa phải ở tầng hầm chứ không phải ở trong hũ. Charlie leo lên ghế và lấy cái hũ xuống. Chìa khóa vẫn còn trong đó.
Nghi nghi hoặc hoặc. Charlie lấy chìa khóa ra quầy quả trở lại tầng hầm. Ngay khi nó mở cửa, Hạt Đậu bắn vọt ra, tống ngã ngửa và phủ lên mặt nó một trận mưa những cái hôn ướt nhèm.
“Rồi! Rồi!” Charlie ôm ngang cổ con chó bự và ráng đứng lên. “Yến!” nó ra lệnh. “Ngồi xuống!”
Hạt Đậu là chú chó biết vâng lời. Bất chấp đang phấn khích quá chừng chú ta vẫn làm như được ra lệnh.
Charlie gọi xuống tầng hầm. “Billy! Billy!, em có dưới đó không?”
Không có tiếng đáp lại.
Charlie đi xuống để nhìn cho kỹ hơn. Bức tranh vẫn không suy chuyển, nhưng bây giờ, không còn tiếng gió rít thoát ra từ đó. Xứ Badlock dường như là hoang vắng và ảm đạm, một nơi trong tưởng tượng, không phải là nơi nào đó chỉ cách có một bước chân.
‘Billy!” Charlie sục sạo mọi ngõ ngách của tầng hầm – bên dưới những tấm đệm cũ, đằng sau những cái tù mối mọt, những cánh cửa và va li mục, những bao đựng rác. Không thấy dậu hiệu Billy. Nhưng, nếu như vậy thì, Billy đã đi đâu?
Điều trước hết là Benjamin phải nhận lại con chó của nó.
Trong khi Hạt Đậu kiên nhẫn chờ thì Charlie vọt lẹ lên cầu thang, xỏ vội bộ đồ rồi dắt con chó bự qua đường tới nhà số 12.
Suốt cuộc đời mình, Charlie chưa bao giờ thấy ai mừng quýnh mừng quáng như Benjamin khi nó vừa trông thấy Hạt Đậu. Tiếng cặp đôi nó hú hét đủ để đánh thức cả người chết, chứ đừng nói là mọi ngôi nhà trên đường Filbert. Tiếng rú rít và tiếng chó sủa sung sướиɠ khiến cô và chú Brown lăn vội ra khỏi giường và ào xuống cầu thang.
Một bữa sáng xúc xích, đậu và bông cải xanh chóng vánh được dọn lên, và Hạt Đậu được thảy cho một cục xương to bằng cả cái chân chú.
Charlie đói meo nhưng trước khi ăn hết nửa bữa sáng thì nó bất giác đứng lên. “Vấn đề là,” nó giải thích “Billy Raven biến mất, và cháu phải tìm nó.”
“Biến mất?” cô bà chú Brown đồng loạt đặt dạo nĩa xuống. Tìm người mất tích đúng là chuyên ngành của họ. Không trường hợp người mất tích nào mà không giải quyết được.
“Nếu cháu không tìm thấy Billy thì cứ quay lại chỗ cô chú nhé,” cô Brown nói.
“Dạ. Cảm ơn cô Brown.” Charlie chạy trở về nhá số 9.
Ngoại Maisie đã dậy, và một bữa sáng khác đang đợi Charlie: xúc xích, đậu và nấm rơm.
“Xin lỗi, ngoại Maisie. Con không nghĩ mình có thể ăn nổi.” Charlie giải thích sự thể đã xảy ra.
“Ta nghĩ ta nghe thấy tiếng sủa,” ngoại Masie kêu lên. “Ố, Charlie, thật là tin mừng.”
“Ngoại trừ Billy đã biến mất,” Charlie tiếp.
Mặt ngoại Masie xụ xuống. “Charlie, con có chắc không? Có khi nó ở đâi đó trong nhà. Hay là nó đã ra đường làm gì đó. Thử kiểm tra quần áo nó coi.”
Charlie chạy ù lên phòng ngủ. Quần áo Billy vẫn xếp ngay ngắn trên giường, chính xác chỗ thằng bé đã để chúng. Giày vẫn còn dưới gầm ghế, dép lê dưới gầm giường thằng bé. Vì vậy thằng bé không thể đi xa được, Charlie lẩm bẩm một mình. Và, một lần nữa, nó cố gạt đi ý nghĩ luôn nhoi nhói trong đầu nó kể từ khi nó xuống tìm dưới tầng hầm, rằng Billy đã ở xứ Badlock
Không. Một cơn buồn nôn dằn Charlie ngồi phịch xuống giường của nó. Nó sợ cho Billy còn hơn nó sợ cho chính mình nhiều. Billy có cơ may sống sót gì ở đó, với mái tóc trắng và thị lực kém cỏi? Đội quân của cái bóng sẽ vồ bắt thằng bé. Nhưng vì lý di gì mà tay bá tước đó muốn Billy và thả Hạt Đậu ra?
Trừ khi đó là kế hoạch của cái bóng ngay từ đầu? Hắn biết Billy không bao giờ từ chối tiếng kêu cứu của một con chó. Charlie nhớ lại sự hăm hở thái quá của Manfred muốn trở lại nhà số 9, nơi bức tranh xứ Badlock đang đợi, như một cái bẫy.
Charlie bổ xuống lầu. “Nó đi rồi, ngoại Maisie. Con biết nó đi đâu. Nó đang ở trong bức tranh đó.”
“Bà không tin được, Charlie. Nếu nó đi rồi thì để bà gọi cảnh sát, việc này không thể có hai khả năng cùng xảy ra được. “Ngoại Masie vô hành lang và bắt đầu quay số.
Biết rằng có ngăn bà gọi điện cũng vô ích, Charlie chờ trong bếp. Nó lắng nghe giọng nói bức bách của ngoại Maisie báo rằng một đứa trẻ tên Billy Raven đã mất tích, tiếp nữa là tiếng bà giận dữ đáp lại lời đầu dây bên kia – họ vừa nói gì đó với bà. “Học viện Bloor. Cụ Ezekiel Bloor, hoặc có lẽ cả ông hiệu trưởng, giáo sư Bloor. Nhưng thằng bé mất tích ở đây, không phải ở đó.”
Một khoảng dừng trong khi ngoại Maisie thở dài não nề và dậm bàn chân. “Cảm ơn. Ông sẽ báo cho tôi biết chứ?... Thế thì tôi sẽ gọi lại. Chào.” Bà dập máy mạnh điện thoại và trở vô nhà bếp, với vẻ mặt nhăn nhó và đỏ bừng lên tức giận.
“Họ không thể tiến hành tìm kiếm cho đến khi họ có được sự ủy quyền của người giám hộ đứa trẻ. Bà nghĩ đó là giáo sư Bloor, Billy là trẻ mồ côi. Đồ dụ khị!”
Charlie không nói gì. Giờ thì nó chắc chắn Billy bị bắt vô bức tranh. Hèn chi nội Bone đã hể hả ra mặt khi thấy Billy về cùng Charlie. Rõ ràng mụ đã khóa cửa tầng hầm khi Billy “đi vô”.
Charlie ngồi bên cửa sổ nhà bếp, ngóng chờ ông cậu Paton về trong chiếc xe moóc màu trắng. Nó thấy Benjamin và Hạt Đậu đi ra công viên. Nó thấy cô Brown đi ra hộp thư – cô mặc váy và mang giày cao gót, để thay đổi diện mạo. Có báo cho cô Brown biết Billy vẫn còn mất tích cũng chẳng ích gì.
Ngoại Maisie đưa cho Charlie một cốc ca-cao nóng. “Ông cậu của con sẽ không về cho tới tuần sau. Đừng sầu bi thế, Charlie. Ta chắc chắn Billy sẽ trở lại.”
“Không đâu,” Charlie lầu bầu.
Nó phát hiện chìa khóa cửa tần hầm vẫn còn trong túi quần của mình. Khi uống ca-cao xong nó đi xuống tầng hầm và nhìn trừng trừng vô bức tranh xứ Badlock. Nó dò dẫm từng xăng-ti-mét, tìm một lối vô. Nó không quan tâm nó bị bắt lần nữa hay không, miễn là nó tìm được Billy. Nhưng cái bóng không sử dụng Charlie Bone lúc này. Chính Billy mới là đứa hắn muốn.
“Tại sao lại bắt nó?” Charlie hét vô bức tranh. “Lão đã mặc cả cái gì rồi à? Billy đổi lấy sự tự do trở lại thế giới cho lão? Hứ, đừng hòng làm được, bá tước Harken. Bây giờ thì đừng hòng. Gương thần Amoret bể rồi, vì vậy không có đường trở lại cho lão đâu. Không bao giờ!”
Một cơn gió đẩy lùi Charlie vô bức tường đối diện.
“Lão đã nghe thấy tiếng tôi!” nó thét lên.
Bụi, đá mạt xen lẫn dằm gỗ bay vèo vô mặt nó và nó vừa kịp che mắt lại. Lỗ mũi nó đầy bụi: thậm chí bụi còn lạo xọa giữa hai hàm răng nó. Nghẹt thở, nó hắt xì, Charlie bò qua sàn tầng hầm. Nó bò lên cầu thang và nhổ bụi cát ra khỏi miệng thì nhận ra một thân hình cao lớn lù lù trước mặt.
“Thằng ngu, mày hy vọng làm gì hả?” nội Bone quát.
Charlie ngồi dậy ngước nhìn mụ trơ trơ. “Bà làm phải không? Bà đã mở cửa tầng hầm sau đó khóa cửa nhốt Billy lại. Tôi biết nó đang ở cứ Badlock và thể nào tôi cũng tìm cách cứu nó ra.”
“Đừng giỡn với cái bóng,” mụ quàu quạu.
Charlie nhìn bà nội bước tới cửa trước. Mụ diện bộ đồ Chủ nhật oách nhất: giày đen bóng, áo khoác long cừu Ba Tư và mũ nhung màu tím. Nhìn từ phía sau, đôi vai u gồ của mụ toát lên vẻ khinh miệt tột độ.
Bữa trưa có bò rô-ti, kèm thêm bánh pudding Yorkshire, khoai tây nấu, rau mầm và nước sốt béo ngậy. Toàn món khoái khẩu của Charlie, nó cố ăn cho công bằng nhưng đồ ăn cứ tắc tị trong cổ họng nên nó đành đặt dao nĩa xuống. “Xin lỗi, ngoại Maisie, tại nó không chịu trôi xuống.”
“Bà đã nói con rồi, để bà gọi cảnh sát lần nữa. Chúng ta hãy xem họ có tiến triển gì không.”
Charlie chả trông chờ sẽ nhận được tin tốt lành, nhưng nó hoàn toàn không bất ngờ trước những gì ngoại Maisie thông báo cho nó. Từ chỗ để điện thoại bà chạy trở vô và hét lên, “Họ tìm thấy nó rồi, Charlie!”
Charlie đứng bật dậy, cái nĩa đang cầm rớt cạch xuống sàn. “Tìm được nó rồi?” Charlie không tin nổi.
“Nó đã trở lại học viện Bloor, đó là lời cảnh sát nói. Họ đã gọi đến trường và giáo sư Bloor bảo rằng Billy đã trở về trường hồi sáng sớm nay. Nó cảm thấy nhớ nhà, ông hiệu trưởng đã nói như vậy.”
“Nhưng, ngoại Maisie, nó để lại quần áo, rồi cả dép lê. Nó không thể đi bộ ngần ấy quảng đường trong bộ pyjama và bàng chân không.”
“Thế thì họ nói dối, Charlie à, bà không biết mình có thể làm gì với chuyện đó.” Ngoại Maisie ra bồn rửa chén. Bà mở vòi cho nước xả tung tóe vô chén đĩa và nồi dơ. “Bà ước gì bà mẹ con ở đây,” bà lầm bầm. “Ba của con hiểu những việc như thế này hơn bà nhiều.”
“Ba không có ở đây,” Charlie nói, rồi chua thêm. “Ba sẽ không bao giờ ở đây.”
Ngoại Maisie quay phắt ra đối mặt với Charlie. Bà không quở trách nó vì những gì nó vừa thốt ra. Thay vào đó là vẻ thương cảm nhoáng qua gương mặt bà. “Xin lỗi, Charlie,” bà dịu dàng. “Những điều xảy ra cho con và bạn bè con nằm ngoài sức hiểu biết của bà. Bà không thể nào xử lí được với những việc đại loại như thế này.”
“Con tới tiệm sách đây,” Charlie rời nhà bếp. “Mấy đứa kia chắc cũng ở đó.”
“Đừng đi một mình, Charlie, làm ơn mà,” ngoại Maisie gọi. “Bà biết có gì đó không yên ổn trong thành phố này, cho dù bà không hiểu đó là gì. Bà tin là trên đời có bọn quỷ lùn biết bay và có những cái ấm phép thuật...và bức tranh quỷ, con biết là bà tin thế. Nhưng đôi khi bà lo sốt vó.
Charlie đã quyết. Nhưng, thật may làm sao nó không cần phải ra ngoài một mình. Chuông cửa reo và Charlie mở cửa, thì thấy ngay Benjamin và Hạt Đậu đang đứng đó.
“Qua nhà mình chơi không?” Benjamin rủ.
Khi Charlie giải thích nó đang định tới tiệm sách thì Benjamin đồng ý đi cùng.
Trên đường tới nhà cô Ingledew, Charlie kể hết sự tình cho Benjamin nghe. Hạt Đậu nhảy cỡn lên đằng trước, cứ như chú chàng đang cố thoát ra khỏi cái đuôi của chính mình vậy. Mắt chú ta vẫn còn vẻ hốt hoảng và hơi tí gì thì lại sợ thất kinh. Cọng rác bay, cánh cổng đung đưa, xe hơi rú còi đều khiến chú giật mình né qua bên cùng một tiếng ẳng thật lớn.
‘Mình không thể tin nổi là ông hiệu trưởng lại nói láo,” Benjamin thở hồng hộc khi chúng chạy cho kịp chú chó vàng.
“Thế mà vậy đấy. Mình biết Billy đang ở xứ Badlock. Điều mình không hiểu nổi là tại sao cái bóng lại muốn nó.”
Giờ chúng đã tới khu cổ xưa của thành phố, nơi Nhà Thờ Lớn sừng sững vượt hẳn lên những tiệm bán hàng và nhà cửa xung quanh. Hạt Đậu đã lùi lại đằng sau chúng vì lý do gì đó. Chốc chốc nó lại hộc lên một tiếng tru khàn đυ.c, xớn xác hít ngửi quanh một bậc cửa hay một cột đèn đường. Bất thình lình tiếng rên ư ử của con chó bùng lên thành một tiếng ẳng kinh hồn.
Charlie và Benjamin quay lại thấy một sinh vật khổng lồ và quái dị đang tiến tới. Cái vật đó hao hao một con chó, nhưng chân cảng nó lại tựa như những ống cóng bê tông và mình mẩy không có một cọng lông. Cái đầu đó là phiên bảng phỉ báng của đầu chó săn, với cái mõm tè bè và đôi mắt đá vô hồn. Tuy nhiên “cái vật’ đó có răng. Đúng vậy, thứ răng dài hơn và sắc hơn răng của bất kỳ giống chó náo trên đời.
Hạt Đậu gầm gừ với lòng dũng cảm không ngờ, chú chàng phóng tới trước; tai chú oặt ra sau, toàn thân hạ thấp, đuôi quệt hẳn xuống đất. Chú tuy sợ hãi nhưng vẫn quyết định bảo vệ hai thằng bé.
Benjamin bấu lấy cánh tay Charlie, chặt đến nỗi đau nhói. “Vật đó gϊếŧ nó mất, Charlie.”
Charlie nghĩ nhanh. Chắc chắn Eric ở gần đâu đây. Chính Eric, không sai. Phải xử lý Eric, chứ không phải xử lý con chó săn. Charlie đảo mắt tìm tới những khung cửa và thấy một hình thù co ro núp sau một mái hiên hẹp.
“Ben, bảo Hạt Đậu tấn cồn thằng kia kìa,” Charlie thét. “Thấy chưa! Đó. Mau!”
Hai con chó sắp sửa xông vô sáp lá cà. Chân con chó đá nện thình thình xuống mặt sỏi như một cỗ máy nặng nề, bước chậm chạp. Thịch! Thịch! Thịch! Và rồi nó rống lên một tiếng như ở dưới âm ty địa ngục, chặn Hạt Đậu giữa đường, nhưng chú ta không lui bước.
Benjamin đã thấy cái hình thù lom khom kia. “Hạt đậu!” nó thét. “Đó! Kia kìa! Cắn nó!”
Hạt Đậu ngoái nhìn bối rối.
“Đó!” Benjamin chỉ. “Đó, Hạt Đậu. Bắt nó! Ngay”
Hạt đậu vọt lẹ đến nỗi con chó đá không kịp tung vuốt ra. Nhưng khi con chó của Benjamin lao về phía Eric Shellhorn, thằng bé này ngân lên một tràng ư ử và con chó đá quay lại, xông tới chú chó vàng.
Bỗng mộ tiếng nổ long trời, lắm bắn ra một đám mây bụi che đặc con phố. Mái hiên sụp lệch hẳn xuống, trơ lại mái ngói hẹp treo lơ lửng thàng góc nguy hiểm. Cánh cửa trước biến mất, cả con chó đá cũng biến luôn. Giờ nó đã lọt vô trong ngôi nhà.
Hạt Đậu đi cà nhắc về phía Benjamin, một chân chú co lên. Không thấy dấu hiệu Eric đâu. Chắc chắn nó đã trốn trong làn bụi, chuồn lẹ về lại đường Piminy rồi.
“Giờ sao?” Charlie nói. “Tại sao Eric làm vậy? Nó muốn gϊếŧ mình hay Hạt Đậu mới là cái nó đuổi theo?”
“Coi, chủ nhà kìa,” Benjamin thì thầm.
Một cụ già vừa mới bươn qua khung cửa gãy. Cụ trố mắt nhìn bọn trẻ với vẻ bàng hoàng. Người cụ gầy đét, những giải tóc trắng uốn khúc, đôi mắt sâu hoắm, và màu da giống như chưa bao giờ được thấy ánh mặt trời. Bộ com-lê đen cụ mặc lên nước thời gian bóng ngời, lòi ra mảng cổ áo sơ mi cáu bẩn ố vàng.
“Tụi bay có thấy gì không?”giọng nói phều phào của cụ hầu như không tới được tai chúng.
Nhận ra mình không thể thoái thác được, Charlie bước về phía ông cụ và nói, “Dạ thấy, thưa cụ.”
“Có một vật bằng đá to lớn đáng nguyền rủa trong hàng lang nhà ta,” giọng cụ run lẩy bẩy, “vỡ nát vụn. Trông như một con chó đá.”
“Đúng thế ạ, thưa cụ, ít nhất nó đã là vậy,” Charlie nói, liếc vô hành lang nhà cụ già. Cái đầu con chó săn lìa khỏi thân – phần còn lại nằm dưới sàn, bị gạch vụn lấp đầy.
“Ta là một luật sư đã nghỉ hưu,” cụ già bảo Charlie. “Ta là ngài Hector Bittermouse. Chắc chẳn cháu đã nghe tên ta.” Không chờ Charlie tra lời, cụ nói tiếp, “Coi đó! Ta nào có làm gì hại ai suốt sáu mươi năm nay, vậy tại sao lại có người phá ta thế này?” Cụ chỉ đống vụn trong hành lang nhà mình. “Kẻ đó là ai vậy?”
Charlie bấn bíu tìm lời đáp. Nó không thể nói với cụ Bittermouse rằng một thằng bé sáu tuổi đã phá hủy cánh cửa nhà cụ. Một điều không ai tin nổi. “Đó là...là...” Charlie nhận thấy lúc này Benjamin và Hạt Đậu đã đến đứng ngay đằng sau mình. Benjamin cũng thấy không thể nào cung cấp được câu trả lời cho cụ Bittermouse.
“Không!” cụ Bittermouse bất thần kêu to. “Đó là kẻ trong bọn chúng, phải không?”
“Một trong ai?” Charlie hỏi.
“Một trong lũ người đường Piminy á. Đáng rat a nên dọn đi từ vài năm trước kìa, nhưng ta nghĩ bọn chúng đã đi hết cả rồi, chuyển nhà là một sự thay đổi nhiêu khê.” Cụ già bắt đầu siết hai bàn tay lại với nhau. “Ối trời, ối trời ơi. Ta phải làm gì đây?”
Cụ Bittermouse rõ ràng không thể kham nổi công việc đang bày ra trước mắt, vì vậy hai thằng bé giúp cụ thu dọn xà bần trên đường và dựng cánh cửa gãy lên. Bông nhiên Charlie nảy ra một sáng kiến. Norton Cross, người canh cửa lực lưỡng của quán cà phê Thú Kiểng, chắc chắn là đang tìm việc làm.
“Nếu cụ gửi một lá thư tới cho chú Norton Cross, quán cà phê Thú Kiểng ở Hẻm Ếch, cháu nghĩ chú ấy có thể giúp cụ, cụ Bittermouse,” Charlie nói. “Chú ấy rất khỏe và không gì khiến chú ấy sợ cả.”
‘Viết ra cho ta đi nào, cậu trẻ.” Chụ Bittermouse ngoắc chugs vô một phòng tối, nơi có một cái bàn viết bằng gỗ gụ chiếm hầu hết bề dài bức tường. Cụ già mở một cái nawos to xấp xỉ cái bàn và lấy ra cây bút với một tập giấy, trao cho Charlie. Charlie viết tên của Norton và địa chỉ quán cà phê Thú Kiểng.
“Tên cậu là gì, cậu trẻ?”
“Charlie Bone, thưa cụ.’
‘Bone,” cụ già trầm tư. “Anh trai của ta biết một người tên Bone – Lyell Bone.”
“Đó là ba cháu.”
“Họ là chỗ bạn bè,” cụ Bittermouse tiếp. “Bạn thân thiết. Mối quan hệ của họ không chỉ đơn thuần là nghề nghiệp.”
Charlie không cách chi biết câu hỏi tiếp theo của nó sẽ mang lại những hậu quả xâu xa gì. Nó chỉ muốn biết tại sao và thế nào cha nó lại kết bạn với một người già cỡ đó. “Anh của cụ là ai, thưa cụ Bittermouse?” Charlie hỏi.
“Ông ấy cũng là luật sư như ta, đã từng là luật sư, phải nói thế. Mặc dù hiện nay ông ấy thỉng thoảng cũng vẫn hành nghề chút ít, chỉ cho bạn bè đặc biệt thôi. Barnaby Bittermouse là tên ông ấy. Dù đã trên chính mươi tuổi rồi nhưng trí nhớ của ông ấy còn sắc bén hơn trí nhớ của ta nhiều. Sống một mình trên đường Tigerfield. Số 10.”
Charlie sắp xếp tất cả bộ nhớ của nó. Làm sao nó có thể quên được cái tên ấn tượng kiểu như Tigerfield và Bittermouse cơ chứ? Và làm sao nó có thể quên được con số 10?