Chương 7

Vì không gặp phải sinh vật nhiễm bệnh nên thời gian lên núi được rút ngắn kha khá, chưa đến đêm Kalinger đã đến tháp Trụy Nguyệt. Dưới chân vách đá hôm nay không có giấy nhắn hay chai lọ, nghe chừng Sương không cần anh thật rồi.

Vấn đề là… bây giờ ai mở cửa cho anh, dám cá là ngài pháp sư có biết anh đứng đây cũng không thèm mở.

Kalinger làm màu gõ lên vách đá mấy cái, gào mồm gọi mấy lần, sau cùng là nhặt đống đá cuội ném vào nơi từng xuất hiện cánh cổng.

Chả có gì xảy ra. Có thể pháp sư không nghe thấy.

Kalinger chợt nhớ lũ golem tròn bốn chân, lũ golem có thiết bị truyền âm. Theo kinh nghiệm lần trước thì ngài pháp sư bố trí khá nhiều golem trong cánh rừng mà tìm kiếm là kiểu gì cũng vớ được một con.

Thế là kế hoạch bị thay đổi, hôm nay ngài thợ săn tiền thưởng không đi săn quỷ dữ, hôm nay là ngày đi bắt golem bốn chân.

Thực tế golem cũng là một trong những mối nguy hiểm mà thợ săn tiền thưởng phải đối mặt. Trước đây Kalinger từng nhận nhiều công việc liên quan đến lũ golem mà ấn tượng nhất là ba lần:

Lần đầu là tìm một con golem trinh thám có hình dáng côn trùng bị lạc, vừa tốn công tốn sức mà thù lao thì thấp tệ, tức không chịu được. Lần thứ hai là hợp tác với hai thợ săn khác đi ám sát một tên pháp sư hắc ám, tay pháp sư thì chết không kịp ngáp trong khi hai con golem sắt và golem máu của hắn ta thì khó nhằn. Lần thứ ba là được một pháp sư thuê phá hủy con golem thủ vệ đá mất kiểm soát, lúc nhận nhiệm vụ Kalinger chỉ đoán nó to hơn lũ nhân thú trưởng thành là cùng, nhưng ai mà ngờ nó phải to gấp ba gấp bốn lần lận… cuối cùng Kalinger vẫn phá được hạch tâm của nó, tuy không bị thương nhưng cũng suýt ngã vỡ mặt.

Đối phó với golem, Kalinger có thừa kinh nghiệm cũng như nắm rõ cách chúng vận hành, nên lúc nào anh cũng giắt sẵn các loại thuốc gây nhiễu chúng trên người.

Kalinger quan sát các dấu vết trên mặt đất trong lúc rút cây claymore trên lưng và bôi một lớp bột sáng lên thân kiếm, đây là một dung dịch ma thuật có tác dụng quấy rối, khi bôi lên bề mặt kim loại có tác dụng dẫn dụ các loại máy móc do thám, tuần tra được chế tạo từ ma thuật, còn đối với các loại máy móc chuyên dụng về tấn công thì loại bột này sẽ khiến chúng tự động rơi vào trạng thái đối địch.

Bất kể chimera có khả năng tuần tra, mắt ma thuật dùng để theo dõi, hay bất kỳ loại golem nào, miễn là chúng có tác dụng “do thám, tuần tra hay tấn công” đều sẽ bị loại bột này nhử đến.

Chimera: hiểu nôm na là một cơ thể bị ghép nhiều bộ phận khác nhau của chính nó hoặc của một loài vật hay máy móc khác.

Loại thuốc này chỉ có tác dụng với kim loại, không có tác dụng nếu bôi lên cơ thể sống. Các thợ săn khác thường dùng nó để đánh lạc hướng lũ golem hay hài cốt tuần tra hơn, bằng cách là nhử chúng đến chỗ khác để bản thân lẻn vào mục tiêu nhiệm vụ.

Nhưng giờ Kalinger sử dụng nó lên chính thanh kiếm của mình, cách này tương đối mạo hiểm vì không ai dám chắc thứ bị nhử đến chỉ có lũ golem “do thám” thôi.

Thông thường trên địa bàn của pháp sư không chỉ có một loại golem mà là nhiều loại máy móc với các hình dáng khác nhau, có loại dùng để theo dõi, trinh sát, truyền tin, tạp vụ, tấn công hay phòng thủ… nhỡ bên ngoài tháp Trụy Nguyệt có loại golem thủ vệ thì trăm phần trăm chúng sẽ bị đánh thức và tìm đến chỗ Kalinger, đương nhiên là trong trạng thái tấn công.

Kalinger vươn vai và vặn tay, sẵn sàng tư thế chiến đấu.

Nhìn mỏm núi đá được ánh sáng xanh lạnh lẽo bao phủ, Kalinger lầu bầu than thở, “Gặp ngài khó hơn cả diện kiến Quốc vương và Công chúa thật đấy, ngài pháp sư của tôi.”

***

Sương đang đọc sách, ở chương “Làm thế nào để không khiếm nhã khi từ biệt”.

Đột nhiên hệ thống bánh răng phía bên trên phòng đọc sách rung lên kẽo kẹt, một chuỗi bóng kim loại được nối nhau bằng một dây xích từ từ hạ xuống, một bóng nhấp nháy ánh sáng màu cam liên tục.

Sương giật mình đứng bật dậy nhưng lại ngồi phịch ra ghế vì cơn chóng mặt ập tới.

“Người canh gác bị kích hoạt ư?” – Sương sửng sốt nhìn lên, ngay sau khi quả cầu đầu tiên nhấp nháy thì hai quả cầu khác cũng bắt đầu chớp lên chớp xuống.

“Sao… sao cả ba cái đều khởi động thế này?” – Sương vội vàng đẩy sách ra thay bằng một cuộn da dê lấy từ trong áo choàng.

Cậu mở cuộn giấy da và lần lần hai tay lên mặt giấy, đầu ngón tay kéo từng dòng văn tự lên giữa không trung như kéo những sợi dây và trải rộng nó thành một mặt “giấy” ảo lơ lửng bằng một câu thần chú bí mật.

“Mặt giấy” là một tấm bản đồ hiển thị toàn cảnh khu rừng.

Vùng trống trơn giữa bản đồ là tháp Trụy Nguyệt, họa tiết và các nét liền tượng trưng cho cây cối và các con đường, những đốm phát sáng là những con golem tròn bốn chân mà theo như ghi chú trên bản đồ thì chúng được gọi là “Mắt nhện”.

Sương có thể xác định vị trí các mắt nhện để thu thập thông tin. Và theo như kết quả cho thấy thì các cỗ máy bên trong tháp vẫn bình thường trong khi các mắt nhện ở ngoài tháp đều đang di chuyển, ba con thủ vệ máy ở khu vực canh gác bên ngoài tháp cũng bị khởi động, tất cả chúng đều đang quy tụ về một nơi.

Sương kiểm tra lần lượt các mắt nhện khác cho đến khi nhận được thông tin rằng bên ngoài tháp xuất hiện kẻ địch.

Giờ thì cậu biết kẻ đầu trò là ai.

Sương xác định vị trí một mắt nhện, ngón tay nhặt đốm sáng đại diện cho mắt nhện ấy và mở ra một mặt giấy ảo giữa không trung, pháp sư cầm cây bút thủy tinh trên bàn, không cần chấm mực, hí hoáy viết lên “mặt giấy”.

Cùng lúc đó, Kalinger đang bị bốn mắt nhện bao vây.

Loại golem do thám này không có sức chiến đấu nhưng Kalinger vẫn thận trọng đối phó, vì có Chúa mới biết nó có phóng ra pháp thuật tích trữ trước đấy hay không.

Kalinger biết trên phần đầu tròn của con golem có một nút đỏ dùng để trao đổi với người làm phép, anh đang nghĩ phải làm sao mới an toàn ấn nó thì con golem chủ động phát ra tiếng trước, nút đỏ trên đầu nó cũng chớp sáng liên tục: “Mời lại gần, mời ấn vào đây, mời ấn vào đây, để nói chuyện.”

Kalinger thành thạo ấn nút, sau đó là âm thanh gợi ý y hệt lần trước, “Xin chờ trong giây lát, không di chuyển ngón tay… Đã thông, có thể nhấc tay ra.”

Anh chưa kịp nói câu nào thì golem đã vang lên âm điệu máy móc nhưng đầy tức giận, “Lại là ngươi? Ngươi muốn làm cái quái gì vậy?”

Kalinger cười khúc khích, “Cứ không đối mặt là ngài lại cáu kỉnh thế nhỉ?”

“Lúc đối mặt ta cũng cáu kỉnh thế đấy! Giờ ta đang hỏi, ngươi làm cái gì vậy!?”

“Dĩ nhiên là muốn gặp ngài rồi,” – Kalinger đáp, “Vì không gõ cửa được nên tôi đành phải dùng biện pháp này để ngài chú ý đến tôi thôi mà. Giờ thì liên lạc được rồi, ngài mở cửa cho tôi đi!”

“Không mở! Cút!”

Bên trong tháp Trụy Nguyệt, Sương ngoáy chữ “Không mở! Cút!” xong thì suýt ném cả cây viết đi vì giận dữ, nhưng may là cậu vẫn lý trí nhớ được đây là bút thủy tinh mà không phải loại bút lông chim thông thường, còn là của người thầy Tịnh Hồ đáng kính để lại cho cậu.

Sương thả cả người ra ghế, mệt mỏi dụi mắt, cậu đã cố hết sức tỏ thái độ bài xích và căm ghét thế mà tên thợ săn tiền thưởng ấy vẫn bám nhằng nhằng như đỉa.

Cậu biết tình trạng bất thường của lũ máy móc có thể do loại thuốc gây nhiễu, muốn loại bỏ ảnh hưởng của thuốc thì hoặc dùng thuốc có hiệu quả trái ngược hoặc ngắt năng lực hành động của những máy móc bị ảnh hưởng rồi khởi động lại, nhưng dù cách nào thì vẫn phải mở cửa tháp ra bên ngoài, việc này không thể làm từ xa.

Cậu không muốn đi, không muốn gặp Kalinger, không muốn gặp người làng Cây Đen. Cậu biết mình không giỏi giao tiếp trực diện với mọi người.

Thế nên cậu mới dùng thư từ để mắng họ, mới thông qua golem để đuổi thợ săn tiền thưởng – bằng cách viết chữ và mắt nhện sẽ đọc từ xa. Thật ra có thể truyền âm thẳng qua mắt nhện như cách mà giọng Kalinger truyền về, nhưng Sương không làm được, cậu không thể mắng chửi khi đối diện người ta, vì dù có thể thốt ra những lời lẽ chát chúa ấy thì giọng cậu cũng không đủ hung dữ, chả có tẹo cảm giác đáng sợ nào.

Lúc này tiếng Kalinger lại vang lên, “Tôi không hiểu vì sao ngài lại không muốn tiếp chuyện với tôi? Tôi là thợ săn tiền thưởng, thợ săn tiền thưởng luôn hợp tác với pháp sư, tôi cũng đâu kỳ thị người làm phép như đám kỵ sĩ ở thần điện… Ối, lũ thủ vệ canh tháp! Chúng đang đến! Chúng đang đến đây!”

Sương xoắn xuýt, mấy con thủ vệ máy do thầy Tịnh Hồ tự tay nghiên cứu chế tạo, cậu là người rõ nhất sức mạnh của chúng.

Tuy đúng là Kalinger tự gây ra nhưng nhỡ hắn ta bị gϊếŧ thật thì chẳng hay hớm gì…

Sương viết trên mặt giấy ảo, “Thấy thủ vệ máy còn không chạy ngay đi? Chúng chỉ canh gác trong phạm vi giữa sườn núi thôi, chạy ngay đi, xuống đến chân núi là ngươi an toàn! Chạy đi!”

Kalinger đáp ngay, “Tháp của ngài chỉ có ba con thủ vệ thôi hử? Vậy có ít quá không đấy?”

Trước kia đâu chỉ ba con, nhưng theo thời gian tháp Trụy Nguyệt gặp phải vô số chuyện, giờ chỉ còn sót lại ba con. Nhưng Sương không muốn giải thích, cậu chỉ muốn đuổi thợ săn.

Cậu viết, “Ngươi coi thường ít chứ gì? Thế thì đừng chạy, ở lại đấu với chúng xem. Đến khi ngươi chết, ta sẽ thuật lại cho thi nhân dưới chân núi để hắn ta viết câu chuyện về một tay thợ săn ngu ngục quyết đấu với thủ vệ máy và kết cục là bị thủ vệ canh tháp giẫm bẹp đầu. Chí ít như thế cũng cảnh tỉnh một số kẻ đần độn giống ngươi. Tạm biệt, ta ngắt cổng giao tiếp đây. Chúc ngươi chết thảm.”

Ở đầu kia, Kalinger đứng trên con đường phủ ánh sáng xanh, vác thanh claymore, nghe mắt nhện thuật lại từng từ và nhìn ba con thủ vệ to gấp đôi loài gấu tiếp cận từ các hướng khác nhau… căng thẳng là có nhưng không đáng sợ, thậm chí Kalinger còn xì cười.

Anh thở dài, “Tuyệt, tuyệt vời… bị xé thành ba trăm mảnh để mẹ và vợ nối ba ngày ba đêm, quyết đấu với thủ vệ máy để bị giẫm bẹp đầu… Pháp sư tinh linh ơi là pháp sư tinh linh, rốt cuộc ngài từ đâu tới, ở quê hương ngài cũng thế chứ…”

Kỳ thật, Sương vẫn đang nghe ngóng tình hình bên ngoài dù bản thân quả quyết sẽ ngắt cổng giao tiếp, nhưng thực tế thì cậu chỉ tắt đèn đỏ trên mắt nhện mà thôi.

Sương nóng mặt nóng mày, cậu có thể viết ra những lời lẽ khó nghe hơn nữa nhưng không muốn. Đối thoại sẽ làm phân tán sự chú ý của Kalinger, dù sao anh ta cũng đang phải đối mặt với các thủ vệ canh tháp.

Sương đã quyết không mở cửa cũng như giúp Kalinger. Năng lực chiến đấu của thợ săn tiền thưởng không tệ, chỉ cần anh ta muốn thì thoát thân dễ như bỡn.

Với Kalinger thì là thế thật, bột quấy nhiễu được anh bôi lên lưỡi kiếm nên chỉ cần vứt kiếm lại là thủ vệ và mắt nhện sẽ không tấn công anh, thế nhưng Kalinger không muốn.

Con thủ vệ gần nhất lao đến với cánh tay khổng lồ đập xuống, Kalinger giơ kiếm nhảy bật lên bám vào một chạc cây trên đầu, ngắm chuẩn xác trước khi thả người cưỡi lên vai nó rồi khéo léo cắm mũi kiếm vào phần nối giữa vai và eo phía sau lưng con thủ vệ máy. Đây là vị trí nhược điểm của hầu hết lũ thủ vệ máy, cũng có thể coi đó là khuyết điểm của khâu chế tạo, tất cả động tác công kích hay phòng thủ của chúng đều không thể chạm đến vị trí này, sau khi ghim thanh kiếm, con thủ vệ máy không thể rút ra.

Kalinger nhanh nhẹn nhảy ra khi vừa thành công, một con thủ vệ máy khác bổ tới, dĩ nhiên là hướng về đồng loại đang bị ghim thanh kiếm.

Chả mấy chốc ba con thủ vệ máy đã quấn lấy nhau, chúng có cùng sự dẻo dai, rắn chắc, cũng đều vô tri vô giác, không biết mệt mỏi, dù đánh nhau dữ dội nhưng chẳng con nào thực sự gây thương tích cho con nào.

Vốn dĩ Kalinger đâu định đánh nhau với chúng, nhân loại khó lòng gây thương tích được cho một cỗ máy kim loại trừ khi sử dụng một số phương pháp để phá hỏng cấu trúc của chúng, nhưng không đồ nghề cũng như chuyên gia nên anh đành dùng cách này.

Kalinger tránh sang bên, vừa tiếc cho thanh claymore vừa cố tình tạo ra các âm thanh đau đớn.

Đầu tiên là tiếng rên, thi thoảng pha hết mấy tiếng rít, chửi thề, tiếng thở dốc, ho, tiếng nghiến răng, khụt khịt, tiếng dậm chân bình bịch, tiếng loạt xoạt sượt vào cây cối, tiếng đá đập vào nhau lách cách, tiếng crắc vì bẻ một cành cây khô trên đất, tạo thành bản hòa tấu của đau đớn.

Kalinger biết tỏng Sương vẫn đang nghe lén tình hình chiến đấu bên ngoài dù cậu ta nói rằng đã ngắt kết nối.

Mắt nhện có thể giúp pháp sư phán đoán một số thứ, ví như truyền âm, dẫn âm, nhưng chắc chắn pháp sư không thể trông thấy hình ảnh. Bởi nếu có thể thì trăm phần trăm ngài pháp sư đã phải nổi đóa khi thấy ba con thủ vệ máy đánh nhau nãy giờ.

Dĩ nhiên Kalinger đã đúng.

Những âm thanh mà Sương nghe được là tiếng thợ săn tiền thưởng bị thủ vệ máy bao vây, bị tấn công đến hấp hối, giờ thì hối hận vì đã không bỏ chạy.

Sương cầm cây quyền trượng cũ mèn đã rớt viên bảo thạch, vừa chống vừa chạy về phía cầu thang xoắn ốc, bước lên đĩa di động rồi ngồi thụp xuống, đĩa đá bay lên trên với tốc độ nhanh nhất.

Dọc cả quãng đường không lúc nào Sương ngơi nghỉ việc lẩm bẩm chửi rủa, dù với tình trạng hiện tại thì nội việc đi lại cũng là cả một gánh nặng với ngài pháp sư, tiếng lẩm bẩm cũng vì thế mà đứt quãng vì mệt mỏi, thế nhưng dù khó chịu đến mấy thì cậu vẫn không chịu ngừng, vì chửi là phương pháp xả bực dọc duy nhất cậu có thể làm.

Tuy thời gian của cậu không còn nhiều, nhưng chí ít Sương cũng không muốn mình bị chết vì tức trước khi hoàn thành mọi việc.

Ra khỏi tháp Thụy Nguyệt, vừa đi pháp sư tinh linh vừa mường tượng về những bản vẽ mô hình của thầy Tĩnh Hồ, về những tri thức cấp cứu từng được học, và tăng độ chiếu sáng ma pháp trên các tán cây.

Đến hiện trường cuộc xung đột, Sương sững sờ nhìn cảnh tượng thảm khốc như này: một con thủ vệ máy nằm bẹp trên đất bị con hai còn lại điên cuồng tấn công, khớp nối trên lưng nó mắc kẹt một thanh kiếm đã cong queo nên càng ghim chặt, bản thân nó không bị thương tích gì, chỉ bởi bị tấn công nên không đứng dậy được.

Lướt qua ba con thủ vệ khổng lồ, Sương trông thấy một bóng người quen quen đang tựa vào gốc cây đối diện.

Kalinger chả hề hấn gì hết, anh ta cười tủm tỉm và khẽ cúi chào hệt như lần đầu tiên gặp gỡ.

Sương hiểu ra chân tướng sự tình, cậu muốn rít lên với anh ta nhưng những bước đi vội vã đã làm l*иg ngực cậu tức đến quặn lại, không còn sức để thực hiện.

Dù Kalinger có thế nào thì cậu vẫn không thể bỏ mặc ba thủ vệ máy. Sương triệu hồi một mắt nhện đến và vẽ một phù chú trên đầu nó, một chiếc hộp nhỏ bật ra từ sườn của mắt nhện. Cậu im lặng niệm chú, theo động tác tay pháp sư, những hạt cát vàng lóng láng bên trong hộp từ từ bay về phía ba thủ vệ máy và xâm nhập vào các khớp nối trên cơ thể chúng.

Khi cát chui vào hết các khớp nối trên cơ thể golem, một sợi dây mảnh mai xuất hiện giữa không khí, một đầu là các khớp nối của golem và đầu còn lại nối đến các đầu ngón tay của pháp sư.

Kalinger nhìn chăm chú và thầm kinh ngạc, đây là lần đầu tiên anh được tận mắt chứng kiến cảnh tượng pháp sư sửa chữa golem.

Sương buông cây trượng gỗ, tay trái điều khiển golem còn tay phải vẽ nhiều câu thần chú khác nhau giữa không trung. Ba con golem ngừng hành động, từ từ khôi phục về tư thế phòng bị, một con golem nhổ thanh kiếm đã biến dạng ra khỏi đồng loại, sau đó chúng xếp hàng chỉnh tề trước khi tản ra các phương hướng quanh tháp Trụy Nguyệt, nơi chúng vẫn đứng canh gác đợi chờ mệnh lệnh.

Khi đã xong xuôi, các sợi dây trong không khí cũng biến mất. Sương buông thõng hai tay và im lặng mấy giây trước khi đi về phía Kalinger.

“Ngài…” – Sương nhận ra mình chẳng còn hơi sức nào, chẳng thể nói hết câu.

Kalinger đón lời, “Quan trị an chết rồi.”

Sương ngẩn người.

Kalinger nói, “Ông ta trốn nên món ăn ngài đưa không đến kịp, ông ta tấn công người nhà, tôi đành phải gϊếŧ.”

Sương khẽ gật đầu, “Ra là ông ấy…”

Kalinger hỏi, “Ngài biết có người bị nhiễm ra khỏi rừng nhưng không biết là ai phải không?”

“Ừm, tôi chỉ biết đại khái phạm vi…” – đoạn cậu tròn mắt kinh ngạc, “Từ từ đã, vừa rồi… ngài nói gì?”

“Tôi nói quan trị an chết rồi, là người tên Marlow ấy.”

Sương tiến hai bước, nhìn thẳng vào đôi mắt Kalinger, “Không… vừa rồi ngài nói… món ăn?”

Kalinger cười khẽ, “Vâng là món ăn, tất nhiên rồi, tôi đã thấy nó, thứ ngài đưa tôi không phải thuốc, càng không phải loại thuốc để ngừa sự lây nhiễm. Con người ăn nó không có tác dụng gì, nhưng sinh vật bị nhiễm thì sẽ no nê, khi đã no nê thì nó thỏa mãn, ham muốn tấn công giảm sút và nó sẽ lười biếng hay thậm chí cả buồn ngủ… như cách ngài làm với các cơ thể bị nhiễm khác trên ngọn núi này.”

Dường như Sương đã thở phào, Kalinger cảm thấy nét mặt pháp sư có gì khác lạ.

Sương đáp, “Ngài thật hiểu biết… vâng, đúng vậy. Đó là một loại ma dược.”

“Chỉ là ma dược thôi ư?” – Kalinger lại gần tinh linh, “Vậy tại sao ngài không kêu gọi sự giúp đỡ từ bên ngoài? Mọi người cùng nhau điều chế ma dược chẳng thuận lợi hơn ư? Vả lại, có lây lan chứng tỏ có nguồn lây nhiễm, tôi và ngài cùng nghĩ biện pháp xử lý nguồn lây nhiễm, thế không hiệu quả hơn sao?”

Sương lảng mắt tránh cái nhìn chăm chú của thợ săn tiền thưởng, cậu không giải thích mà quay đầu đi về tháp Trụy Nguyệt.

Kalinger theo sát phía sau, “Mà mấy con golem thủ vệ cũng không được trách tôi đâu, tôi muốn tìm ngài bàn chuyện chính đáng mà ngài cứ tỏ ra lãnh đạm. Tôi đến làm việc, ngài cũng phải đối phó với nguồn lây lan dị giới, chúng ta chung một mục tiêu, vì sao không thể hợp tác?”

“Vì không cần!” – Sương bực dọc quay đầu, “Vì sự việc đã gần kết thúc, không mượn ngài quan tâm!”

Vừa nãy Sương đã làm rơi quyền trượng, giờ thì chân cậu loạng choạng cùng với cơn chóng mặt quay cuồng trong đầu, có lẽ vì đi lại quá nhanh, có thể vì cả những mệt nhọc tích lũy trước đấy.

Kalinger phát hiện tinh linh là lạ, anh quan tâm hỏi “Ngài làm sao vậy?” – tinh linh không đáp như thể cậu ta không nghe thấy gì hết.

Kalinger vỗ thật nhẹ lên vai tinh linh với sức lực được kiềm chế hết mức vì anh nhận ra tinh linh liêu xiêu như sắp đổ trước đấy, thế nhưng mới chạm tay vào tấm áo choàng tối màu, cả người tinh linh đã đổ về phía trước, Kalinger nhanh tay níu lấy eo tinh linh không để cậu ta ngã xuống.

Sương không sẩy chân, cậu bất tỉnh.

“Nhẹ thật.” – Kalinger bế ngang tinh linh và đi về phía tháp Trụy Nguyệt, nhưng chẳng được mấy bước đã phải dừng, anh chợt nhớ tinh linh bất tỉnh, lấy ai mở cửa cho anh chứ?

Không còn lựa chọn nào khác, Kalinger đành xuống núi.

Nhờ ánh sáng ma pháp của khu rừng, Kalinger có thể ngắm nhìn tường tận tinh linh trên tay mình. Tinh linh có làn da nhợt nhạt thiếu sức sống, đầu và tay chân vô lực rủ xuống, hệt như một con rối bị cắt đứt dây.