Chương 14
Sau từng ấy năm sống tại khu vực này, Kathryn Dance vẫn chưa bao giờ thực sự làm quen được với sương mù ở Bán đảo Monterey. Nó giống như kẻ biến hình - một nhân vật bước ra từ những cuốn sách giả tưởng Wes ưa thích. Có lúc nó là những dải mỏng ôm sát mặt đất và lướt qua bên bạn như những bóng ma. Lúc khác nó lại trở thành một làn khói trùm lên xa lộ và vùng đất hai bên đường, che mờ mọi thứ.
Thứ sương mù thường gặp nhất tựa một tấm ga trải giường bằng vải bông dày bồng bềnh, cách mặt đất vài chục mét, giống những đám mây làm mọi vật bên dưới nó tối đen - như một điềm gở.
Đó chính là thứ sương mù xuất hiện ngày hôm nay.
Bóng tối sẫm dần lại trong khi Dance, đang vừa nghe Raquy và nhóm Cavemen - một ban nhạc Bắc Phi nổi tiếng với phong cách nhạc gõ, vừa lái xe qua một đoạn đường vắng vẻ xuyên ngang khu đất do tiểu bang quản lý nằm giữa Carmel và Pacific Grove. Hai bên đường chủ yếu là rừng cây mọc hoang, đầy thông, sồi, bạch đàn và thích, thân cây lớn đan xen với những đám cây bụi. Cô lái xe qua hàng rào bảo vệ hiện trường của cảnh sát, tảng lờ đám phóng viên và đội quay phim. Bọn họ có mặt ở nơi này vì vụ tấn công hay vì mẹ cô đây? Dance cay đắng tự hỏi.
Cô đỗ xe, chào mấy nhân viên cảnh sát đứng gần đó và đến chỗ Michael O’Neil. Họ bắt đầu đi về phía sườn dốc đã bị phong tỏa, nơi cây thập tự thứ hai được tìm thấy.
“Mẹ cô thế nào rồi?” O’Neil hỏi.
“Không được tốt lắm.”
Dance rất mừng vì anh có mặt ở đây. Cảm xúc trong cô đang căng phồng lên như một quả bóng, và cô không thể nói được gì, khi mà hình ảnh mẹ cô bị còng tay và cuộc đôi co với người nhân viên xã hội vì các con lại hiện lên rõ mồn một.
Anh không nén được mỉm cười nói. “Tôi có thấy cô trên tivi.”
“Trên tivi?”
“Người phụ nữ trông giống Oprah[1] đó là ai thế? Lúc ấy trông có vẻ như cô sắp còng tay cô ta lại vậy.”
[1. Oprah Gail Winfrey (sinh ngày 29 tháng 01 năm 1954) là người dẫn chương trình đối thoại trên truyền hình và là nhà xuất bản tạp chí tại Mỹ. Winfrey là phụ nữ Mỹ gốc Phi đầu tiên có tên trong danh sách các tỉ phú và được xem là một trong những nhân vật có nhiều ảnh hưởng nhất trên thế giới.]
Dance thở dài. “Bọn họ thu được cảnh đó vào máy quay rồi sao?”
“Trông cô,” anh ngừng lại tìm từ, “rất oai.”
“Cô ta định đưa các con tôi tới chỗ Tổ chức Xã hội.”
O’Neil có vẻ sốc. “Đó là Harper. Toan tính chiến thuật. Thiếu chút nữa ông ta đã giúp kẻ xu nịnh mình được đeo còng. Ôi, đáng ra tôi phải bấm còng vào tay cô ta.”
Cô nói thêm, “Tôi đã nhờ được Sheedy lo vụ của mẹ mình.”
“George à? Tốt đấy, ông ta rất cứng rắn. Cô cũng không được phép nhượng bộ.”
“À, và sau đó Overby cho phép Harper tới CBI. Để kiểm tra các hồ sơ của tôi.”
“Không thể nào!”
“Tôi nghĩ ông ta đang tìm xem tôi có xóa bỏ bằng chứng hay sửa chữa các hồ sơ liên quan tới vụ Juan Millar hay không. Overby nói ông ta kiểm tra cả các hồ sơ tại phòng làm việc của anh nữa.”
“Ở MCSO à?” O’Neil hỏi. Dance có thể thấy cơn giận của anh đang bùng lên như cột đèn đỏ báo hiệu trên xa lộ. “Overby có biết Harper đang thu thập một hồ sơ buộc tội mẹ cô không?”
“Tôi không biết. Ít nhất ông ta cũng phải nghĩ: Vì chuyện quái quỷ gì mà gã này lại từ San Francisco tới lảng vảng đánh hơi quanh các hồ sơ của chúng ta? ‘Đánh giá các vụ điều tra’ ư. Thật lố bịch,” cơn phẫn nộ của chính cô lại bùng lên, và sau một hồi nỗ lực, cuối cùng cô cũng kiểm soát được nó.
Hai người tới chỗ cây thập tự được cắm xuống - một sườn dốc bên đường. Vật tưởng niệm cũng giống như cây thập tự trước đó: Những cành cây bị bẻ ra được đan lại bằng dây buộc hoa, và một tấm bìa các tông có ghi ngày tháng của hôm nay trên đó.
Dưới chân cây thập tự là một bó hoa hồng đỏ nữa.
Nữ đặc vụ không khỏi suy nghĩ: Nó tượng trưng cho vụ ám hại người nào đây?
Còn mười bó nữa đang đợi lượt.
Cây thập tự này được để lại ở một đoạn đường vắng vẻ hầu như chỉ được trải lớp nhựa mỏng qua loa nằm cách bờ biển chừng một dặm. Không có nhiều xe cộ qua lại, đoạn này là con đường tắt ít người biết dẫn tới Xa lộ 68. Trớ trêu thay, đây cũng là một trong những con đường dẫn tới tuyến xa lộ mới mà Chilton đã viết trong blog của ông ta.
Đứng bên một con đường phụ gần cây thập tự chính là nhân chứng, một thương gia ngoài bốn mươi tuổi. Dance thầm đoán: Nếu dựa vào ngoại hình thì có thể nghĩ ngay ông ta làm ăn trong lĩnh vực bất động sản hoặc bảo hiểm. Người đàn ông này có vóc người tròn trịa, phần bụng đẩy chiếc áo sơ mi màu xanh nhô hẳn ra ngoài làm đai thắt lưng trễ xuống. Mái tóc ông đang thưa dần, cô có thể thấy những nốt cháy nắng trên vầng trán cao và đỉnh đầu hói nhẵn của ông ta. Ông ta đứng bên một chiếc Honda Accord đã từng có thời trông khá hợp mốt.
Cả hai đến bên người đàn ông. O’Neil giới thiệu với cô, “Đây là Ken Pfister.”
Dance bắt tay nhân chứng. O’Neil nói sẽ đi giám sát việc kiểm tra hiện trường và bắt đầu bước ra phía ngoài đường.
“Ông Pfister, hãy kể cho tôi biết những gì ông nhìn thấy.”
“Travis. Travis Brigham.”
“Ông có chắc là cậu ta không?”
Nhân chứng gật đầu. “Tôi thấy ảnh anh chàng này trên mạng khi tôi ăn trưa chừng nửa giờ trước. Chính vì thế tôi nhận ra cậu ta.”
“Ông có thể cho tôi biết chính xác những gì ông đã thấy không?” cô hỏi. “Và khi nào?”
“Được thôi. Lúc ấy vào khoảng mười một giờ sáng nay. Tôi có một cuộc họp ở Carmel. Tôi quản lý một văn phòng ở Allstate,” nhân chứng nói ra điều này đầy tự hào.
Mình đã đoán đúng, Dance nghĩ.
“Tôi ra về lúc khoảng mười giờ bốn mươi và đang lái xe trở lại Monterey. Theo con đường tắt này. Nó sẽ rất tuyệt khi tuyến xa lộ mới đó được khánh thành, phải không nào?”
Dance mỉm cười lấp lửng, không phải một nụ cười thực sự.
“Và tôi tạt vào đường này,” vị nhân chứng vung tay chỉ, “để gọi vài cuộc điện thoại.” Ông ta cười hết cỡ. “Không bao giờ vừa lái xe vừa nói chuyện. Đó là nguyên tắc của tôi.”
Dance nhướng một bên mày lên ra hiệu cho ông ta tiếp tục.
“Tôi nhìn qua kính chắn gió và thấy Travis cuốc bộ theo sườn đất. Từ phía kia lại. Cậu ta không thấy tôi. Trông cậu ta có vẻ như lê đi từng bước. Dường như lúc ấy cậu ta đang tự nói chuyện với chính mình.”
“Cậu ta mặc gì trên người?”
“Một cái áo nỉ có mũ trùm đầu, kiểu đám nhóc vẫn hay mặc.”
À, áo có mũ trùm đầu.
“Cái áo đó màu gì?”
“Tôi không nhớ?”
“Cậu ta có mặc áo khoác, quần thụng không?”
“Xin lỗi. Tôi không để ý cho lắm. Lúc ấy tôi vẫn chưa biết anh chàng đang định làm trò gì - tôi vẫn chưa nghe về vụ Những cây thập tự ven đường. Tất cả những gì tôi biết là cậu nhóc trông có vẻ kỳ cục và đáng sợ. Cậu ta cầm theo cây thập tự đó, và cả một con vật đã chết.”
“Một con vật?”
Pfister gật đầu. “Phải, một con sóc hay một con chuột chũi hoặc thứ gì đại loại như thế. Cổ họng con vật bị cắt đứt,” vị nhân chứng đưa ngón tay lướt ngang qua cổ mình làm điệu bộ.
Dance ghét cay ghét đắng những hành động tàn bạo với động vật. Dẫu vậy, cô vẫn giữ giọng bình thản khi hỏi, “Có phải cậu ta vừa mới gϊếŧ con vật không?”
“Tôi không nghĩ thế. Không có nhiều máu lắm.”
“Được rồi, sau đó chuyện gì xảy ra?”
“Sau đó cậu ta ngó tới ngó lui tứ phía, và khi không thấy ai nên anh chàng mở ba lô ra và...”
“Ồ, cậu ta có một cái ba lô sao?”
“Đúng thế.”
“Màu gì vậy?”
“Ừm, đen, tôi tin chắc là thế. Cậu ta lấy ra một cái xẻng, một cái xẻng nhỏ xíu. Loại cô hay dùng khi đi cắm trại. Và đào một cái hố, rồi cắm cây thập tự xuống đất. Sau đó... chuyện này thật quái lạ. Cậu ta thực hiện nghi thức của mình. Cậu ta đi vòng quanh cây thập tự ba lần, và có vẻ như vừa đi vừa cầu khấn.”
“Cầu khấn?”
“Đúng thế đấy. Lẩm nhẩm gì đó. Tôi không nghe được là gì.”
“Còn sau đó?”
“Cậu ta cầm con sóc lên và lại đi vòng quanh cây thập tự năm vòng - tôi đã đếm từng lần một. Ba và năm... Có thể đó là một thông điệp, một manh mối, nếu ai đó có thể suy đoán ra được.”
Dance nhận thấy từ sau khi Mật mã Da Vinci xuất hiện, rất nhiều nhân chứng có xu hướng thích giải mã những quan sát của họ hơn là chỉ đơn giản nói ra những gì đã nhìn thấy.
“Rồi cậu ta lại mở ba lô ra lần nữa và lấy ra hòn đá này cùng một con dao. Cậu ta dùng nó mài sắc lưỡi dao, sau đó kề dao lên con sóc. Tôi nghĩ cậu ta định cắt nó ra, song không phải thế. Tôi thấy môi cậu ta lại mấp máy, rồi cậu ta gói cái xác lại trong một thứ giấy có màu vàng kỳ quái, trông như giấy bản thảo vậy, và nhét vào ba lô. Sau đó, có vẻ cậu ta nói nốt vài câu cuối cùng song đi trở lên con đường, quay lại hướng đã đi tới. Vừa đi vừa nhảy cẫng lên, cô biết đấy. Như một con vật vậy.”
“Sau đó ông làm gì?”
“Tôi rời khỏi đây, thực hiện vài cuộc gặp nữa. Tôi quay trở lại văn phòng. Chính lúc tôi vào mạng và đọc được tin về cậu nhóc. Tôi trông thấy ảnh cậu ta. Và giật mình. Tôi gọi 911 ngay lập tức.”
Dance ra hiệu gọi Michael O’Neil tới chỗ cô.
“Michael, chuyện này đáng quan tâm đây. Ông Pfister thực sự rất có ích.”
O’Neil gật đầu cảm ơn vị thương gia.
“Bây giờ ông có thể kể cho thanh tra O’Neil đây những gì ông đã trông thấy chứ?”
“Tất nhiên.”
Pfister lại giải thích về chuyện tạt vào con đường phụ để gọi điện thoại. “Cậu nhóc mang theo một con vật gì đó đã chết. Tôi nghĩ là một con sóc. Cậu ta đi vòng quanh ba vòng không cầm theo cái xác. Sau đó cậu ta trồng cây thập tự và đi vòng quanh năm lần. Cậu ta đã lẩm bẩm nói một mình. Chuyện đó thật kỳ quái. Giống như một ngôn ngữ khác vậy.”
“Và sau đó?”
“Cậu ta gói con sóc vào mảnh giấy bản thảo này và gí con dao lên trên. Cậu ta nói thêm gì khác nữa bằng thứ ngôn ngữ quái đản kia, rồi bỏ đi.”
“Rất đáng quan tâm,” O’Neil nói. “Cô nói đúng, Kathryn.”
Chính vào lúc đó, Dance tháo cặp kính có gọng màu hồng nhạt của cô ra lau chùi. Rồi nhẹ nhàng thay nó bằng cặp kính có gọng đen nghiêm khắc.
O’Neil hiểu ra ngay khi bắt gặp cô đang đeo cặp kính kẻ săn mồi của mình vào và lùi lại. Dance bước lại gần Pfister hơn, vào sâu vùng không gian riêng tư của ông ta. Ngay lập tức cô nhận ra ông ta đang cảm thấy bị đe dọa.
Tốt.
“Bây giờ, Ken, tôi biết ông đang nói dối. Và tôi cần ông nói cho tôi biết sự thật.”
“Nói dối?” vị nhân chứng chớp mắt choáng váng.
“Đúng thế.”
Pfister đã khá xuất sắc trong màn dựng chuyện của ông ta, song vài lời bình phẩm và cử chỉ đã đánh động Dance. Nghi ngờ của cô nảy sinh ngay từ đầu khi phân tích nội dung: Xét về những điều ông ta nói thay vì cách ông diễn đạt chúng. Vài lời giải thích của vị thương gia tỏ ra quá khó để tin là thật. Ông ta thừa nhận không hề biết cậu nhóc là ai và chưa bao giờ nghe nói đến vụ tấn công liên quan tới Cây thập tự ven đường - trong khi dường như bản thân vẫn thường xuyên lên mạng cập nhật tin tức. Tuyên bố Travis mặc áo nỉ có mũ trùm đầu, điều vài người đăng bài trong Bản tin Chilton đã nhắc đến, song lại không nhớ màu áo - người ta thường có xu hướng nhớ màu sắc trang phục tốt hơn nhiều so với bản thân chất liệu, kiểu dáng của những món đồ đó.
Pfister cũng ngừng lại giữa chừng rất thường xuyên - những kẻ nói dối hay làm thế trong khi cố nghĩ ra những lời tỏ ra đáng tin cậy. Và ông ta cũng viện đến ít nhất một cử chỉ “minh họa” - đưa ngón tay lướt ngang qua cổ. Người ta thường viện đến chúng một cách vô thức để tăng sức thuyết phục cho những lời bịa đặt.
Vậy là một khi đã ngờ vực, Dance bắt đầu sử dụng một kỹ thuật cơ bản để kiểm tra: Để xác định xem liệu có phải ai đó đang nói dối không, người thẩm vấn sẽ yêu cầu nghe đi nghe lại câu chuyện của họ vài lần. Người nói thật có xu hướng thay đổi cách diễn đạt ở đôi chỗ và nhớ ra những điều quên chưa nhắc đến trong lần kể đầu, nhưng trình tự các sự kiện luôn giống nhau. Ngược lại, kẻ nói dối thường quên mất trình tự các biến cố trong câu chuyện hư cấu của anh ta. Điều này đã xảy ra với Pfister khi ông ta kể lại tình tiết với O’Neil rồi bị lẫn lộn về thời điểm cậu nhóc cắm cây thập tự.
Tương tự, trong khi nhân chứng trung thực có thể nhớ ra những chi tiết mới trong lần kể thứ hai, hiếm khi mâu thuẫn với lời kể trước. Ban đầu Pfister nói Travis thì thầm điều gì đó ông không nghe rõ. Lần hai lại bao gồm chi tiết ông ta không thể hiểu được thứ ngôn ngữ “kỳ quái”, điều đồng nghĩa với việc thừa nhận bản thân có nghe thấy chúng.
Dance đi đến kết luận không một chút ngờ vực là Pfister đang bịa chuyện.
Trong hoàn cảnh khác, hẳn Dance sẽ thực hiện cuộc thẩm vấn một cách tinh tế hơn, dùng thủ thuật để dẫn dụ đối tượng lòi đuôi. Nhưng đây lại là một người mà tính cách nói dối, mà theo như cô đánh giá, thì mang đậm “kiểu xã hội”. Đối với thể loại không đáng tin cậy trên, cô sẽ mất một quãng thời gian dài thẩm vấn vất vả để tới được sự thật. Cô không có thời giờ, cây thập tự thứ hai, cùng ngày tháng hôm nay trên đó, nghĩa là Travis rất có thể đã lên kế hoạch thực hiện cuộc tấn công ngay vào lúc này.
“Vậy nên, Ken, ông thực sự đang rất gần với việc ngồi tù đấy.”
“Cái gì? Không!”
Dance không hề băn khoăn chút nào về việc tìm kiếm thêm bạn diễn cho mình. Cô đưa mắt nhìn O’Neil, anh nói, “Đúng thế. Chúng tôi cần biết sự thật.”
“Ôi, làm ơn. Xem nào...”
Nhưng Pfister không đưa ra được gì để họ đánh giá. “Tôi không nói dối! Thật đấy. Mọi thứ tôi kể với các vị đều đúng.”
Điều này hoàn toàn khác với việc ông ta cam đoan đã thực sự trông thấy những gì như đã nói. Tại sao kẻ dối trá luôn nghĩ bọn họ thông minh đến thế nhỉ? Cô hỏi, “Ông có thực sự chứng kiến những việc như đã khai không?”
Dưới cái nhìn sắc như laser của Dance, Pfister ngoảnh mặt tránh đi. Hai vai ông ta buông thõng xuống. “Không. Nhưng tất cả đều đúng. Tôi biết thế!”
“Làm thế nào ông biết được?” cô hỏi.
“Vì tôi đã đọc thấy có người chứng kiến cậu ta làm những điều tôi nói với cô. Trên cái blog đó. Bản tin Chilton.”
Đôi mắt cô quay sang O’Neil. Vẻ mặt của anh cũng tương tự như cô. Dance hỏi, “Tại sao ông nói dối?”
Vị thương gia giơ hai bàn tay lên. “Tôi muốn mọi người ý thức được mối nguy hiểm. Tôi nghĩ người ta cần cẩn thận hơn khi gã tâm thần này đang lảng vảng ngoài kia. Họ nên đề phòng thận trọng, nhất là với con cái của mình. Chúng ta cần phải cẩn thận với con cái chúng ta, cô biết thế mà.”
Dance nhận thấy cử chỉ của bàn tay, lắng nghe tiếng nghèn nghẹt khe khẽ trong cổ họng ông ta. Bây giờ cô đã nắm rõ những dấu hiệu cử chỉ của nhân vật này khi nói dối. “Ken? Chúng tôi không có thời gian cho việc này đâu.”
O’Neil tung còng tay ra.
“Không, không. Tôi...” đầu ông ta cúi gằm xuống, đầu hàng hoàn toàn. “Tôi đã có vài vụ làm ăn không ra gì. Các khoản vay bị đòi thanh toán và tôi không thể hoàn trả được. Vậy nên tôi...” ông ta thở dài.
“Vậy là ông nói dối để trở thành một anh hùng? Có được chút quảng cáo bản thân?” khuôn mặt O’Neil hiện rõ vẻ ghê tởm khi đưa mắt nhìn về phía các nhóm săn tin đang bị ngăn lại ngoài vành đai phong tỏa, cách chỗ họ bốn mươi lăm mét.
Pfister bắt đầu định phản đối. Rồi bàn tay ông ta buông xuống. “Phải. Tôi xin lỗi.”
O’Neil ghi gì đó vào sổ ghi chú của mình. “Tôi sẽ phải nói với công tố viên về chuyện này.”
“Ôi, làm ơn... tôi xin lỗi.”
“Vậy là ông không hề thấy cậu ta, nhưng biết ai đó vừa để lại cây thập tự và ông biết người này là ai.”
“Được rồi, tôi có một ý tưởng. Ý tôi là, phải, tôi biết.”
“Tại sao ông lại đợi tới giờ này mới nói với chúng tôi?” Dance gắt lên.
“Tôi... tôi sợ. Có thể hắn vẫn còn đang nấp quanh đây.”
O’Neil hỏi bằng giọng khe khẽ đầy đe dọa, “Ông không nghĩ rằng ba hoa tất cả những chuyện rác rưởi về nghi thức hiến sinh đó có thể khiến chúng tôi điều tra sai hướng à?”
“Tôi nghĩ kiểu gì các vị cũng đã biết hết mọi chuyện rồi. Tất cả đều ở trên blog đó. Chúng phải là sự thật chứ, đúng không nào?”
Dance kiên nhẫn nói, “Được rồi, Ken. Hãy bắt đầu lại.”
“Tất nhiên. Bất cứ điều gì.”
“Ông có thực sự tham gia cuộc họp đó không?”
“Có, thưa cô.”
Pfister đang chìm sâu vào trạng thái cuối cùng của cảm xúc khi bị thẩm vấn - chấp nhận và thú nhận - đến mức Dance gần như bật cười. Nhân chứng lúc này đã trở thành kiểu mẫu của tinh thần hợp tác.
“Và sau đó chuyện gì đã xảy ra?”
“Tôi lái xe qua chỗ này và rẽ vào khúc cua ở đây,” ông ta dứt khoát chỉ xuống dưới chân mình. “Khi tôi rẽ vào vẫn chưa có cây thập tự nào hết. Tôi gọi vài cuộc điện thoại, sau đó vòng xe quay trở ra giao lộ. Tôi đợi chiếc xe trước mặt chạy đi rồi quan sát đoạn đường phía trước. Và nó đã ở kia,” ông ta lại chỉ tay. Lần này ông nhìn về phía cây thập tự. “Tôi không hề thấy cậu ta. Còn về cái áo có mũ trùm đầu và những chuyện khác ư? Tôi kiếm được từ trên blog. Tất cả những gì tôi có thể nói là mình không bắt gặp ai ở chỗ vệ đường, vì thế cậu ta hẳn phải từ trong rừng đi ra. Và, phải, tôi biết nó có nghĩa là gì. Cây thập tự. Và nó làm tôi sợ chết khϊếp. Tên sát nhân mới vừa ở đó, ngay trước mặt tôi!”
Một tiếng cười chua chát vang lên.
“Tôi khóa cửa lại thật nhanh... Tôi chưa bao giờ làm gì can đảm trong đời mình. Không giống bố tôi. Ông ấy là lính cứu hỏa, tình nguyện.”
Chuyện này vẫn thường xảy đến với Kathryn Dance. Khía cạnh quan trọng nhất trong hỏi cung và thẩm vấn là cần biết lắng nghe, không phán xét và tỉnh táo. Vì cô luôn cải thiện kỹ năng này hàng ngày, các nhân chứng - cả các đối tượng nghi vấn - thường có xu hướng xem cô như một chuyên gia về trị liệu tâm lý.
Quý ông Ken Pfister tội nghiệp đang xưng tội.
Nhưng ông ta sẽ phải tìm đến một chuyên gia tâm lý khác. Công việc của cô không bao gồm việc chẩn trị những con quỷ ám ảnh tâm trí ông.
O’Neil đang nhìn về phía vạt rừng. Dựa vào những gì Pfister cung cấp ban đầu, các nhân viên cảnh sát đang tìm kiếm ở khu vực gò đất. “Tốt hơn chúng ta nên kiểm tra trong vạt rừng.” Anh ném một cái nhìn lạnh lẽo về phía Pfister. “Ít nhất điều đó có thể sẽ hữu ích,” anh gọi vài nhân viên điều tra đi theo mình và họ băng qua đường tới tìm kiếm trong vạt rừng.
“Thế còn chiếc xe ông đã đợi cho chạy qua?” Dance hỏi Pfister. “Liệu người lái xe có thể trông thấy gì đó không?”
“Tôi không biết. Có thể, nếu Travis vẫn còn ở đó. Họ có tầm nhìn tốt hơn tôi.”
“Ông có nhìn thấy biển đăng ký xe không?”
“Không, có lẽ nó có màu tối, nó là một chiếc bán tải hoặc xe tải. Nhưng tôi nhớ là xe công.”
“Xe công ư?”
“Phải, đằng sau nó có từ ‘tiểu bang’.”
“Tổ chức nào vậy?”
“Tôi không thấy. Thật đấy.”
Điều đó có thể có ích. Họ cần liên lạc với tất cả các cơ quan công quyền California có khả năng có phương tiện qua lại trong khu vực. “Tốt.”
Ông ta dường như phấn khích với lời khen ngợi thoáng qua.
“Được rồi. Bây giờ ông được tự do ra về, Ken. Nhưng hãy nhớ vẫn còn một đơn khiếu nại để ngỏ chống lại ông.”
“Vâng, chắc rồi, chắc rồi. Thế này nhé, tôi rất xin lỗi. Tôi không có ý gì xấu,” ông ta hối hả rời đi.
Trong khi băng qua đường tới chỗ O’Neil và nhóm điều tra viên đang lùng sục trong vạt rừng, Dance dõi theo vị thương gia đang kích động chui vào chiếc xe méo mó của ông ta.
Tất cả các câu chuyện đều ở trên blog đó. Chúng phải đúng sự thật chứ, phải không nào?
~*~
Cô muốn chết.
Kelley Morgan đang thầm lặng mong mỏi lời cầu nguyện của cô được đáp trả. Hơi hóa chất bốc lên đang làm cô ngạt thở. Cô không còn nhìn thấy gì nữa. Phổi cô đau rát, mắt và mũi cô như đang bốc cháy.
Cảm giác đau đớn...
Nhưng còn ghê rợn hơn nó là ý nghĩ về những gì đang xảy đến, những thay đổi khủng khϊếp nơi làn da và khuôn mặt do chất hóa học gây ra.
Dòng suy nghĩ của cô gái trẻ rối như mớ bòng bong. Cô không còn nhớ gì kể từ lúc bị Travis lôi xuống cầu thang. Khi tỉnh lại cô đã ở đây, trong kho rượu tối tăm của bố mình dưới tầng hầm, bị xích vào một đường ống. Miệng bị dán chặt băng dính, vùng cổ bị kẻ tấn công siết chặt đến suýt chết đang đau rát.
Và cô gái bị ngạt dữ dội bởi thứ gì đó hắn đã đổ xuống sàn, thứ hóa chất lúc này đang thiêu cháy mắt, mũi, họng cô.
Ngạt, ngạt...
Kelley cố kêu lên. Thật vô ích với dải băng dính che kín miệng. Bên cạnh đó, chẳng ai nghe được. Gia đình cô đã ra ngoài hết và sẽ phải rất lâu nữa mới có người quay về.
Cảm giác đau đớn...
Cô gái trẻ điên cuồng, cố đạp đường ống bằng đồng bật ra khỏi tường. Nhưng đường ống kim loại không chịu bung ra.
Gϊếŧ tôi đi!
Kelley hiểu Travis Brigham đang làm gì. Hắn đã có thể siết cổ cô đến chết - chỉ cần tiếp tục giữ thêm vài phút nữa. Hay bắn cô. Nhưng với hắn như thế vẫn chưa đủ thỏa mãn. Không, kẻ thảm hại và bệnh hoạn đang báo thù bằng cách hủy hoại vẻ bề ngoài của cô.
Hơi hóa chất sẽ gặm nhấm đi lông mi và lông mày cô gái, hủy hoại làn da mịn màng, thậm chí có thể còn làm tóc cô rụng hết. Hắn không muốn cô chết mà muốn biến cô thành một con quái vật.
Con nhóc quái gở với khuôn mặt lở loét nham nhở, kẻ thảm hại, bệnh hoạn... Hắn muốn biến cô thành đúng như thứ hắn từng bị bêu xấu.
Gϊếŧ tôi đi, Travis. Tại sao cậu không chỉ đơn giản gϊếŧ tôi đi?
Cô nghĩ tới cái mặt nạ. Đó là lý do tại sao hắn để nó lại. Nó là một thông điệp về diện mạo của cô sau khi các hóa chất đã hoàn tất công cuộc hủy hoại của chúng.
Cô gục đầu lên hai cánh tay khi ngồi phủ phục xuống, áp người vào tường. Tôi muốn chết.
Cô bắt đầu hít vào thật sâu, qua phần mũi đang đau như bị kim châm. Mọi thứ bắt đầu mờ nhạt dần. Cảm giác đau đớn biến mất, rồi mọi suy nghĩ của cô, cảm giác ngạt thở, cảm giác đau rát trên đôi mắt, những giọt nước mắt.
Tất cả đều trôi đi. Ánh sáng trở thành bóng tối.
Sâu hơn, hãy hít sâu hơn nữa.
Hít chất độc vào.
Và, phải rồi, nó đang có tác dụng!
Xin cảm ơn.
Cảm giác đau đớn dịu dần, cả nỗi lo lắng cũng thế.
Cảm giác nhẹ nhõm ấm áp thay thế sự tỉnh táo đang tan biến dần. Ý nghĩ cuối cùng của cô trước khi màu đen buông xuống trọn vẹn đơn giản chỉ là cô sẽ được giải thoát khỏi nỗi sợ hãi của mình mãi mãi.
~*~
Trong lúc đứng cạnh cây thập tự ven đường, nhìn chăm chăm xuống những bông hoa, Dance bỗng giật mình vì tiếng chuông điện thoại của cô - không còn là nhạc phim hoạt hình nữa, vì cô đã chỉnh về giai điệu mặc định. Thêm một cái liếc mắt kiểm tra danh tính người gọi.
“TJ.”
“Sếp. Thêm một cây thập tự nữa à? Tôi vừa được biết.”
“Phải, và với ngày tháng của hôm nay.”
“Trời ạ. Hôm nay?”
“Phải. Cậu tìm được gì rồi?”
“Tôi đang ở Bagel Express. Kể cũng lạ, nhưng ở đây không ai thực sự biết rõ điều gì về Travis. Họ nói cậu ta tới làm việc, nhưng luôn khép kín một mình. Không giao du, không nói nhiều, chỉ lẳng lặng ra về. Có vài lần cậu ta trò chuyện với một cậu bé về các trò chơi trực tuyến. Nhưng tất cả chỉ có vậy. Và không ai biết cậu ta có thể đi đâu. À, ông chủ tiệm nói kiểu gì ông ta cũng sẽ đuổi việc Travis. Kể từ khi xuất hiện những bài viết trên blog, bản thân ông cũng đã bị đe dọa. Công việc làm ăn sút kém. Khách hàng sợ ghé vào.”
“Được rồi, hãy quay lại văn phòng. Tôi cần cậu gọi tới tất cả các cơ quan của tiểu bang, tìm xem nơi nào có phương tiện hoạt động trong khu vực sáng nay. Không rõ nhãn hiệu hay biển kiểm soát. Nhiều khả năng là xe màu sẫm, nhưng hãy tìm kiếm bất cứ loại phương tiện nào”, cô kể lại cho TJ biết những gì Pfister đã nhìn thấy. “Kiểm tra Cơ quan Quản lý Công viên, Sở Giao thông, Sở Ngư nghiệp, Môi trường, tất cả những chỗ cậu có thể nghĩ tới. Và tìm hiểu xem liệu Travis có điện thoại di động không, nhà cung cấp dịch vụ là ai. Hỏi xem họ có thể lần ra vị trí của nó được không. Ý tôi là hãy làm việc này trước.”
Hai người ngắt liên lạc. Dance gọi cho mẹ cô. Không có trả lời. Cô thử gọi cho bố và ông trả lời ngay khi chuông đổ lần thứ hai.
“Katie.”
“Mẹ ổn chứ ạ?”
“Ổn. Bố mẹ đang ở nhà, nhưng chúng ta đang bị bao vây.”
“Cái gì?”
Stuart nói, “Những người phản đối ở bệnh viện thì phải? Họ tìm ra bố mẹ sống ở đâu. Họ đang vây kín bên ngoài”.
“Không!” Dance giận sôi lên.
Bố cô ngao ngán nói, “Thật thú vị khi quan sát hàng xóm của con rời nhà đi làm và bắt gặp rất nhiều người với những biểu ngữ gọi con là đồ sát nhân. Một trong số chúng nghe có vẻ cũng khá thông minh. Nó viết, “Dance Chết Chóc”. Con cần phải đánh giá cao bọn họ.”
“Ôi, bố.”
“Và ai đó đã dùng băng dính dán một bức hình Jesus lên cửa trước. Hình Chúa đang bị đóng đinh lên thập tự. Bố nghĩ bọn họ đang kết án mẹ con phải chịu hình phạt tương tự.”
“Con có thể thu xếp một phòng ẩn danh cho bố mẹ tại nhà trọ bọn con vẫn dùng cho nhân chứng.”
“George Sheedy đã đăng ký cho bố mẹ một căn phòng dưới tên giả rồi,” Stuart nói. “Bố không biết con cảm thấy thế nào về điều này, con gái yêu quý, nhưng bố nghĩ mẹ con sẽ rất vui được gặp các cháu. Bà ấy rất lo lắng không biết bọn trẻ hoảng sợ đến thế nào khi cảnh sát xông vào bệnh viện.”
“Ý tưởng tuyệt vời. Con sẽ đến nhà Martine đón các cháu và đưa chúng đến chỗ bố mẹ. Khi nào bố mẹ lấy phòng?”
“Hai mươi phút nữa.”
Ông cho cô địa chỉ.
“Con có thể nói chuyện với mẹ không?”
“Bà ấy đang nói chuyện điện thoại với Betsey. Con có thể gặp mẹ khi con đưa các cháu đến. Sheedy cũng sẽ ghé qua để thảo luận về vụ án.”
Hai người ngắt liên lạc. O’Neil từ trong vạt rừng quay trở ra.
Cô hỏi, “Anh có tìm thấy gì không?”
“Vài dấu chân không có gì hữu ích, một dấu vết nhỏ - một sợi vải màu xám, giống thứ chúng ta tìm thấy lúc trước, và một mảnh giấy màu nâu. Một hạt yến mạch hay thứ ngũ cốc gì đó. Có thể từ một cái bánh, tôi đang nghĩ vậy. Peter đang đợi để nhận nó. Ông ấy sẽ cho chúng ta kết quả phân tích ngay khi có thể.”
“Mấy thứ đó rất có ích khi dùng làm bằng chứng buộc tội cậu ấy. Nhưng điều chúng ta cần lúc này là một dấu hiệu cụ thể cho biết cậu ta đang trốn ở đâu.”
Và còn một câu hỏi nữa: Ai sẽ là nạn nhân tiếp theo sắp bị cậu ta tấn công?
Trong khi Dance lấy điện thoại ra để gọi cho Jon Boling, nhạc chuông lại vang lên. Cô thoáng mỉm cười trước sự trùng hợp. Tên anh hiện lên ở mục danh tính người gọi.
“Jon,” cô trả lời máy.
Khi nghe những điều giáo sư nói, nụ cười của Dance nhanh chóng tan biến.