Chương 7: Người nghèo tự mình cố gắng

Edit: Tu

Bà nội Hải Đản đi ra ngoài một lát, ôm về một bó củi khô rồi nhóm lửa lên.

Sự ẩm ướt, lạnh lẽo trong hang động cuối cùng cũng giảm bớt phần nào, không còn quá tối tăm nữa.

Bà nội Hải Đản không chỉ mang về củi khô, mà còn mang theo một tấm chiếu dệt bằng lá cọ và một giỏ cá. Trong giỏ cá có một ít thảo dược chữa thương, một quả trái cây lớn, một ít muối bọc trong lá cây và một con dao đá.

Kim cùng chỉ cũng được mang đến, nhưng kim là loại kim xương cá rất thô, đuôi kim được mài thành một rãnh để móc dây. Chỉ thì là dây gai rất thô.

Vương Diệp muốn dùng kim chỉ để khâu vết thương trên ngực Lôi Mộc, nhưng với loại kim chỉ này thì rõ ràng là không được.

Hải Đản giúp trải tấm chiếu bên cạnh đống lửa.

Vương Diệp và bà nội Hải Đản cùng đỡ thanh niên nằm xuống.

Mặc dù điều kiện đơn sơ, nhưng cuối cùng hai người cũng có một nơi trú ngụ.

Bà nội Hải Đản giúp xử lý qua loa vết thương cho cả hai.

Hải Đản thì cầm đuốc đuổi những sinh vật nhỏ trong hang cùng với xua đuổi muỗi.

Vương Diệp nhận ra thảo dược cầm máu mà bà nội Hải Đản mang đến là lá Tử Châu, còn gọi là Cỏ Cầm Máu. Lá cây này có thể cầm máu và kháng viêm, ngoài chữa ngoại thương, còn có thể chữa các bệnh như chấn thương, xuất huyết tử ©υиɠ, viêm phổi, viêm phế quản, viêm amidan và phong thấp, rất hữu dụng cho cả Vương Diệp và Lôi Mộc.

"Lá này các con đập nát bằng đá, chỗ nào chảy máu thì đắp vào đó. Người dân trên đảo ta bị thương đều dùng lá này, hiệu quả rất tốt." Bà nội Hải Đản rất ca ngợi loại thảo dược này, trong mắt bà, lá Tử Châu là thuốc vạn năng của đảo. Nhưng trên đảo không gọi là lá Tử Châu, mà gọi là Cỏ Cầm Máu.

Trong đầu Vương Diệp nhanh chóng hiện ra vài công thức thuốc từ lá Tử Châu. Ngoại thương có thể dùng lá tươi giã nát hoặc lá khô nghiền nhỏ đắp lên, một số bệnh nội thương thì cần nấu thành nước uống hoặc kết hợp với các loại thảo dược khác, hiệu quả sẽ tốt hơn. Cũng có thể làm thành thuốc viên từ lá Tử Châu.

Sư phụ kiếp trước của Vương Diệp tinh thông một môn tinh luyện dung hợp thuật, có thể chiết xuất tinh hoa từ dược liệu rồi dung hợp với tinh hoa của các thảo dược khác, chế tạo ra những viên thuốc hoặc nước thuốc có hiệu quả đặc biệt tốt.

Vương Diệp đã học theo sư phụ này, tất nhiên cũng thành thạo kỹ thuật này. Cậu định đợi Hải Đản cùng bà nội nhóc rời đi, sẽ chiết xuất lại tinh chất từ lá Tử Châu.

“Loại thảo dược này cháu biết, thật sự rất hữu dụng, người trên đảo nên bảo vệ loại cây này nhiều hơn, cây này không kén đất, chỉ cần giâm cành là có thể trồng được.” Vì cần sử dụng nhiều loại thảo dược này, nên Vương Diệp cảm thấy nợ loại thảo dược này. Dù cậu không để tâm đến việc nợ nhân quả, nhưng nếu có thể giải quyết nhân quả một cách dễ dàng, tại sao không nói thêm một câu chứ?

Bà nội Hải Đản không hiểu lắm về việc giâm cành, nên Vương Diệp giải thích chi tiết cho bà.

Bà nội Hải Đản nghe xong, bừng tỉnh ngộ: "Dễ dàng như vậy sao? Chỉ cần dùng cành già cắm xuống đất là sống?"

Vương Diệp gật đầu: "Nếu trước khi giâm cành, có thể nghiền nát xương cá, xương thú không dùng đến rồi chôn xuống đất, năm sau trồng cành ở đó, cành sẽ mọc tốt hơn."

Điều này đơn giản nên bà nội Hải Đản nói bà đã ghi nhớ rồi.

Có lẽ vì Vương Diệp truyền đạt kiến thức, bà nội Hải Đản đối với Vương Diệp và Lôi Mộc trở nên nhiệt tình hơn, nói chuyện cũng mang thêm chút thân thiết:

“Nhìn bà này, lắm chuyện nói nhiều quá rồi. Chắc các con đói rồi nhỉ? Quả này bổ ra, bên trong có bột, thêm nước nấu chín là ăn được, cũng có thể làm thành bánh. Tiếc là nhà bà chỉ có một cái nồi, nếu con muốn có nồi, hãy để Hải Đản ra bờ biển nhặt một viên đá lõm làm tạm. Gáo bầu cũng không thể cho con, nhà bà chỉ có một cái, trên đảo không có cây bầu, đây là do thủy thủ trên tàu biển tặng cho bà khi còn trẻ. Con có thể dùng vỏ quả làm gáo múc nước, hoặc tìm một khúc gỗ để đυ.c thành gáo.”

Bà nội Hải Đản nói một hơi nhiều thứ, bà không mang cho Vương Diệp và Lôi Mộc nhiều đồ, nhưng những gì bà mang lại còn quý giá hơn.

Bà nói cho Vương Diệp biết gần đây chỗ nào có củi khô cỏ khô để nhóm lửa, trong rừng nào có trái cây rau dại, thảo dược chữa thương mọc ở đâu, rừng nào có thú dữ, chỗ nào của biển có thể xuống, chỗ nào không thể xuống...

Vương Diệp nhờ bà nội Hải Đản giúp đỡ, dùng cành cây kẹp chặt chỗ xương gãy ở cánh tay trái của mình, sau đó dùng dây leo nhỏ quấn lại.

Trên đảo không có điều kiện y tế, người dân thường tự chữa trị khi bị bệnh hoặc bị thương. Bà nội Hải Đản đã quen với việc xử lý những vết thương gãy xương đơn giản, không biết chỉnh xương nhưng việc dùng cành cây và dây leo để cố định xương thì không có vấn đề gì, làm vừa nhanh vừa tốt.

Vương Diệp thì lại biết chỉnh xương, còn rất thành thạo. Chỉ có điều bà nội Hải Đản và Hải Đản ít hiểu biết, không nhận ra điều này, nhưng Lôi Mộc thì hiểu. Nhìn vẻ quen thuộc của cậu bé với thảo dược, Lôi Mộc đoán rằng có lẽ cậu bé là học trò của một dược sư.

“Xong rồi. Nhìn con còn nhỏ tuổi mà còn giỏi hơn cả Hải Đản nhà ta rồi,” bà nội Hải Đản xoa đầu tóc ngắn của Vương Diệp.

Vương Diệp cảm thấy bà nội Hải Đản nhiệt tình hơn những người dân ở thôn Hải Câu mà cậu từng gặp ở kiếp trước. Tuy nhiên, khi nghĩ đến việc vào thời điểm đó, người dân thôn Hải Câu đã bị tàn phá bởi những kẻ xấu từ đảo tù nhân trốn ra, họ tự nhiên sẽ trở nên cảnh giác cùng bài ngoại.

Vết thương trên ngực Lôi Mộc khá nghiêm trọng, bà nội Hải Đản lẩm bẩm rằng với vết thương này thì hoặc phải tìm dược sư trên đảo đối diện, hoặc tự mình chịu đựng, qua được thì coi như mạng lớn.

Lôi Mộc lại không mấy bận tâm, anh đã từng bị thương nặng hơn thế này, chỉ cần được ăn no uống đủ, có khi chịu đựng mười ngày nửa tháng cũng có thể hồi phục dần.

Thực ra, vết thương trên người Vương Diệp không nhẹ hơn Lôi Mộc, nhưng vì cậu vẫn có vẻ như hành động tự do, lại không tỏ ra đau đớn, nên người khác chỉ cho rằng vết thương của cậu không nghiêm trọng. Bà nội Hải Đản trước đó đã giúp Vương Diệp băng bó tay trái bị gãy xương, còn khen ngợi cậu biết nhịn đau.

“Đảo đối diện là hòn đảo kia phải không? Ở đó có dược sư à?” Vương Diệp dùng giọng tò mò của trẻ con hỏi.

Bà nội Hải Đản thở dài: “Bên đó có dược sư, nhưng bên này nếu không bị thương nặng hoặc bệnh nghiêm trọng, thì thường không qua tìm họ. Dược sư bên đó tính phí rất đắt lắm, lại khó tính nữa.”

“Dược sư bên đó có chịu qua đây không ạ?”

“Điều đó còn tùy thuộc vào con có thể trả giá bao nhiêu.” Bà nội Hải Đản không nghĩ hai anh em khốn khó này có thể trả giá đủ để mời dược sư bên kia. Nhưng nhìn chiếc nhẫn mà cậu bé đưa ra trước đó, có lẽ vẫn còn giấu vài thứ quý giá, nên bà không nói dứt khoát: “Muốn mời dược sư bên đó qua đây, trước tiên phải nhờ người dân trên đảo này đi sang đó, giá cũng không rẻ. Đừng nhìn hai đảo gần nhau, nhưng giữa hai đảo có một khe biển, dòng chảy ngầm nhiều và cũng có nhiều quái vật, rất nguy hiểm, muốn qua phải biết thời gian địa điểm, cần người lái thuyền có kinh nghiệm mới được.”

Vương Diệp lấy cái túi tiền từ trong thùng gỗ vỡ ra, đổ hết tất cả đồng tiền bên trong ra: “Bà xem chừng này có đủ không?”

Bà nội Hải Đản nhìn đống đồng tiền, mặt tỏ vẻ khó xử: “Hai đồng bạc có thể đủ để người dân trong thôn đi một chuyến, nhưng muốn mời dược sư bên đó qua, ít nhất cần hai mươi đồng bạc.”

Vương Diệp đành hỏi: “Trên đảo có cách nào kiếm tiền nhanh không?”

Bà nội Hải Đản cười: “Người dân trên đảo đều quen tự làm mọi việc, nếu không làm được thì nhờ người trong thôn. Cho dù cần nhờ người giúp, con còn nhỏ thế này, lại bị thương, có thể làm gì?”

Việc con có thể làm nhiều lắm đấy, Vương Diệp nghĩ thầm.

Đáng tiếc là với bộ dạng hiện tại, người dân thôn Hải Câu sẽ không tìm cậu giúp đỡ, cũng không tin tưởng cậu.

Người dân thôn Hải Câu không tìm cậu cũng không sao, cậu đã có cách kiếm tiền nhưng trong ngắn hạn chắc chắn không kiếm được nhiều.

Không kiếm được tiền thì không mời được dược sư, có lẽ cậu phải tự nghĩ cách chữa trị cho Lôi Mộc thôi.

Dù sao thì sư phụ của cậu cũng là một dược sư nổi tiếng, dù cậu sau này không theo con đường y học, nhưng căn bản học tập rất vững, sư phụ kiểm tra cậu rất nghiêm ngặt, dù cậu không hứng thú với việc làm dược sư, cũng bị ép học không ít.

Theo lời sư phụ, cậu rất có năng khiếu về y học - thực ra là nhờ vào khả năng giám định của cậu, nhưng sư phụ không biết điều này, vì thế rất coi trọng cậu, xem cậu như truyền nhân chân chính, không giấu diếm bất cứ điều gì...

Chát! Vương Diệp tự vả mình một cái.

Lôi Mộc, Hải Đản và bà nội Hải Đản đều kinh ngạc nhìn cậu.

Vương Diệp mặt không biểu cảm nói: “Có muỗi.”

Ba người tin lời cậu, vì mùa này đúng là lúc có nhiều muỗi. Bà nội Hải Đản còn kêu lên rằng lẽ ra bà nên mang thêm thuốc chống muỗi cho họ.

Hải Đản tự nguyện nói rằng cậu biết những loại cỏ có thể xua đuổi muỗi, cắm đuốc vào chỗ mắt nước, rồi chạy ra ngoài hang.

“Nhớ mang thêm vài cành cây, loại có thể đánh người ấy.” Vương Diệp gọi.

Hải Đản vẫy tay tỏ ý biết, nhanh chóng chạy đi mất dạng.

Bà nội Hải Đản nghe Vương Diệp nói cần cây gậy để đánh người, còn gật đầu khen ngợi cậu chu đáo. Hai anh em, một người lớn không thể di chuyển, một người nhỏ như thế, chẳng phải cần một vài vũ khí tự vệ sao?

Bà nội Hải Đản nhìn trời không còn sớm, không đợi cháu về nữa, nói với Vương Diệp và Lôi Mộc: “Hải Đản thường thích chơi đùa, nếu các con có việc gì thì tìm nó. Đừng nhìn những đứa nhỏ này, không ai hiểu rõ đảo hơn chúng đâu. Đúng rồi, khi nó về, nhớ bảo nó phải về nhà trước khi trời tối. Bà còn phải về nấu cơm, đi đây, ngày mai bà sẽ lại đến thăm các con.”

Bà nội Hải Đản đến vội vã, đi cũng vội vã. Bà không ở lại nấu cơm cho hai người, vì bà biết cháu bà sẽ ở lại giúp đỡ, đứa trẻ mười tuổi trên đảo ngoài việc không thể ra khơi, ở nhà cơ bản việc gì cũng làm được.

Hiện tại là mùa hè, là thời điểm trên đảo Hải Câu có ánh nắng dài nhất, theo thời gian của Trái Đất, trời tối hoàn toàn vào khoảng chín rưỡi tối.

Hiện tại khoảng năm giờ chiều, trời vẫn còn sáng.

Chỗ cửa hang thì sáng sủa, nhưng bên trong lại rất tối, phải nhóm lửa mới có thể nhìn thấy xung quanh.

Lôi Mộc dựa vào một tảng đá, quan sát xung quanh, đôi mắt anh trong bóng tối hơi lóe sáng, nhưng Vương Diệp đang suy nghĩ làm thế nào để mở rộng mắt nước và tích nước, nên không để ý.

Lôi Mộc nhìn chằm chằm vào chỗ mắt nước(*), ánh mắt anh đột nhiên dừng lại.

(*) Mắt nước( thủy nhãn) là nơi nước ngầm phun trào lên mặt đất, thường xuất hiện ở các khu vực có địa hình dốc hoặc sườn núi. Nước ở mắt nước thường rất trong và mát lạnh.