Chương 23

Lưu ý: Bản hoàn chỉnh của chương này được đăng tải tại

Chuck quay đèn bàn sang hướng khác tránh làm phiền giấc ngủ của Louis, còn hắn thì vẫn có thể nương theo ánh đèn hắt lên bức tường trống mà ngắm nhìn anh đang say giấc trong vòng tay mình. Hắn nghiền ngẫm mái tóc màu hung nhạt của anh đang dần sẫm lại như biến thành màu nâu dưới tia sáng yếu ớt, do vã quá nhiều mồ hôi nên bết lại với nhau trên trán và hai bên thái dương. Ngón tay của Chuck nấn ná ở nơi sẹo bỏng trên bờ vai trần, lướt tới xương cánh bướm, xuôi dần xuống eo lưng rồi trở về vai, lặp đi lặp lại như vậy không biết chán. Chân của họ đè lên nhau dưới lớp chăn mỏng sắp tuột xuống sàn nhà, Chuck cố gắng kéo nó lên trong khi gồng mình giữ cho nửa thân trên không cử động, nhưng cuối cùng vẫn thất bại.

Louis phát ra âm thanh buồn ngủ mơ hồ, tỉnh lại, ngước nhìn Chuck với nụ cười nửa miệng ngái ngủ.

"Anh không ngủ được à?"

"Không hẳn," Chuck thì thầm đáp lại, "Chỉ là hơi bận lòng thôi."

Louis cau mày nhìn ánh đèn: "Mấy giờ rồi?"

"Hai giờ hơn, nhưng chắc chưa tới ba giờ đâu."

"Mấy giờ anh phải tập hợp?"

"Sáu giờ sáng, thời gian xuất phát thì tùy vào thời tiết."

"Anh nên về đi."

Hành lang im lìm không một tiếng động. Bốn giờ sáng, cả căn cứ vẫn đang say ngủ, Chuck sột soạt mặc lại quần áo, tắt đèn, trước khi rời đi còn cẩn thận nhìn qua khe cửa, không có ai, ngay cả một ngọn đèn cũng không. Hắn nhẹ nhàng đóng cửa lại, trở về ký túc xá của mình.

Kẻ duy nhất phát hiện ra Trung sĩ về phòng muộn mà chưa có sự cho phép chính là tiểu thư Cúc áo, Chuck không biết tai vịt ở vị trí nào nhưng quả thật là vô cùng nhạy, cái mỏ màu vàng nhô ra từ dưới gầm giường, tiếp đó là cái cổ vừa dài vừa cong, Cúc áo đập cánh, vọt về phía hắn trong chớp mắt.

"Suỵt, yên lặng nào." Chuck nói với con vịt và xoa đầu ẻm. Ở góc còn lại của phòng, Jody trở mình, tiếng ngáy ngừng mất một lúc. Hắn nín thở chôn chân đợi ở đó cho đến khi tiếng ngáy lại vang lên lần nữa, mới nhẹ nhõm thở hắt ra, "Giữ bí mật cho tao đấy nhé? Cô bé ngoan, về chỗ ngủ thôi."

Chuck cởϊ qυầи áo ra rồi chui vào chăn. Con vịt nhìn chằm chằm hắn hồi lâu, tới khi hiểu được rằng Chuck sẽ không dậy để đút sâu bọ cho nó ăn nữa thì mới bực bội trở lại gầm giường.

Bầu trời tựa như sáng lên chỉ ngay sau khi Chuck nhắm mắt lại, tiếng chuông gọi đội máy bay ném bom tập hợp kêu vang, vừa dồn dập vừa chói tai. Chuck ép mình ngồi dậy, theo thói quen đờ đẫn mặc áo sơ mi, áo khoác và đi giày, rồi theo sau phi hành đoàn bước ra ngoài. Tiểu thư Cúc áo đã quen với toàn bộ quy trình này, con vịt nhảy khỏi gầm giường, hào hứng bước theo, chen chúc giữa hàng chục đôi giày cỡ bự và thiếu điều lao ra giữa đường băng. Một nhân viên mặt đất đang kéo bình ắc quy trên xe đẩy đã nhanh chóng ngăn nó lại, con vịt giận dữ đập cánh, kêu quác quác và cố gắng mổ vào tay nhân viên mặt đất.

"Xin lỗi nhé! Bé cưng! Hôm nay không thể đưa mày theo được!" Chuck hét lên, vẫy tay với nó và đóng cửa cabin lại, chuẩn bị sẵn sàng đối mặt với nhiệm vụ chiến đấu thứ hai mươi mốt của mình. Do quá vội vàng nên hắn đã quên bỏ khung ảnh Louis đưa cho ra khỏi túi, vật kim loại vẫn còn đặt đó, nằng nặng.

Đối với các phi công Mỹ ở căn cứ Đồi Biggin, đây có lẽ là nhiệm vụ trên không cuối cùng của mùa hè, tất nhiên, đối với một số phi công không may mắn khác thì đây sẽ là nhiệm vụ cuối cùng trong đời họ. Bắt đầu từ mùng 6 tháng 9, Bộ chỉ huy liên hợp tại Luân Đôn đã tạm dừng các nhiệm vụ ném bom một thời gian ngắn nhằm mục đích thống kê thương vong, sửa chữa vỏ ngoài các máy bay bị thủng do đạn bắn và thưởng cho các phi hành đoàn đã kiệt sức chút thời gian nghỉ ngơi.

Căn cứ Đồi Biggin tổ chức tang lễ cho các phi công hy sinh vào tháng tám, tại chính nhà nguyện nơi Leo vừa tổ chức hôn lễ vài tháng trước đó. Hầu hết các thi thể của những người bỏ mạng nơi chiến trường đều không thể tìm thấy hoặc đã cháy đến mức không thể nhận dạng. Những cái xác miễn cưỡng tìm được về đã được chôn cất từ lâu, Lễ Mi-sa¹ này chỉ như phần phụ lục được viết thêm sau khi cuốn sách đã tới hồi kết. Chuck và Louis ngồi bên cạnh nhau ở hàng ghế cuối cùng, lặng lẽ rời đi khi mọi người bắt đầu đứng lên và hát.

Ấy là một ngày trời đầy mây, từng tầng mây trải dài với các gam màu xám xịt có sắc độ không giống nhau, nhưng lại chẳng thấy giọt mưa nào rơi xuống. Hai người đều không nói gì, chỉ rảo bước cùng nhau trên con đường dẫn đến bãi đất hoang, không phải trở lại căn cứ mà đến thăm nghĩa trang với hàng rào đơn sơ kia. Cỏ dại bay vù vù trong gió, tóc và áo khoác của họ cũng bị cuốn theo, Chuck dựng cổ áo lên và đút cả hai tay vào trong túi.

"Mẹ tôi là một người rất sùng đạo," Chuck nói, bản thân hắn cũng không biết tại sao lại nhắc tới chuyện này. "Tôi vốn không quá tin tưởng, nhưng sau khi đến đây thì lại khác. Chắc hẳn ai cũng cũng vậy thôi, thật khó để không thành tín Chúa sau khi đã vượt qua lưới lửa của quân Đức để mà sống sót trở về."

"Hoặc là họ sẽ càng khó tin hơn," Louis nói, không biết có phải đang đùa hay không, "Chẳng có cách nào để lý giải việc Chúa đã giữ lại đứa kém cỏi hơn trong một cặp sinh đôi."

Chuck không trả lời anh, nhưng lại rút tay ra khỏi túi áo và nắm lấy tay Louis. Thiếu úy theo bản năng quay đầu nhìn quanh con đường đất trống trải như thể sợ rằng sẽ có ai đó sẽ đột nhiên nhảy ra từ trong bụi cây và tố giác bọn họ. Chuck nhẹ nhàng kéo anh lại gần, tay hắn càng siết chặt tay của Louis hơn.

"William có biết không?"

"Biết," Louis trả lời, hiểu ngay Chuck đang hỏi gì, "Thực ra William đã tự phát hiện ra trước – từ khi tụi em còn ngồi trên ghế nhà trường, do em ấy vô tình quên gậy cricket ở phòng sinh hoạt chung nên phải quay lại lấy. Trước bữa tối khoảng một hai tiếng thường sẽ không có ai ở phòng sinh hoạt chung, họ đều trên sân bóng hoặc là trong thư viện, còn em thì tình cờ," Anh hắng giọng không được tự nhiên lắm, "Tình cờ ở đó cùng một người trong đội chèo thuyền. William chưa từng hỏi về chuyện này, giả vờ như hoàn toàn không biết gì, có lẽ là đang đợi em tự nói ra, nhưng em vẫn luôn không dám nói. Giờ thì em sẽ chẳng còn cơ hội để biết được em ấy đã nghĩ thế nào."

"Vậy là em đã sớm nhận ra em là..." Chuck ra hiệu thay cho cụm từ khó nói kia.

"Coi như vậy đi." Louis liếc hắn một cái, "Còn anh thì sao? Có cuộc tình nào của anh mà em nên biết không?"

Chuck gãi gãi đầu, "Năm mười lăm tuổi tôi từng có một bộ sưu tập tạp chí, toàn là ảnh nữ sinh mặc váy ngắn gì đó giấu dưới đệm, cho dù mẹ tôi có tìm được thì cùng lắm cũng chỉ bắt tôi chép phạt Kinh thánh thôi... trong khi thực ra tôi còn giấu ảnh mấy tay cao bồi và đấu sĩ quyền anh bán khỏa thân trong một kẽ hở sâu trong góc tủ quần áo-"

"Không phải kể nữa, cũng không khác so với những gì em đoán là bao."

Bọn họ đến nghĩa trang, mưa bão từ những ngày hè làm cho một đoạn hàng rào bị đổ hoàn toàn, nhưng cổng rào thì vẫn đứng sừng sững giữa đám cỏ dại trông khá buồn cười.

"Trung sĩ, phiền anh hái vài bông hoa dại giúp em nhé?"

"Rất hân hạnh, thưa chỉ huy."



Ngày 26 tháng 9 năm 1943, sau hơn nửa tháng nghỉ ngơi, máy bay ném bom từ các căn cứ Không quân ở Đông Anglia lại bay lượn trên bầu trời mùa thu đầy hơi nước. Điểm đến trong nhiệm vụ lần thứ hai mươi hai của Chuck là căn cứ Không quân nào đó ở miền bắc nước Pháp, sở dĩ nói "nào đó" là do Bộ chỉ huy liên hợp đưa ra những chỉ thị quá mơ hồ, với mục đích bảo mật thông tin ở mức độ cao nhất. Chuck phải đánh bom căn cứ Hải quân "nào đó" cùng với khu vực công nghiệp "nào đó", miễn là có tọa độ thì không cần quan tâm đến chuyện thiếu thông tin. Nước Pháp vẫn nằm trong tuyến đường của Spitfire, cho nên phi đội Spitfire của Louis luôn ẩn nấp ở bên trên những tầng mây, chỉ lao vυ"t xuống khi phải giao chiến với đám Me 109 bay tới tấn công. Nhờ đó, đội ném bom đã thành công "gửi quà" xuống các tòa nhà bên dưới và trở về trong không khí chiến thắng tưng bừng.

Nhiệm vụ thứ hai mươi ba của Chuck vào thứ năm, ngày 14 tháng 10.

Đội máy bay ném bom khởi hành muộn hơn thường lệ do tầng sương mù lạnh cóng bao phủ cả căn cứ từ sáng sớm, bám vào đường băng như một lớp mốc trắng mờ mờ. Mặt trời yếu ớt nhô lên, ánh nắng lọt qua những tầng mây mang vẻ xám xịt ảm đạm tựa như đang cố gắng xuyên qua mạng nhện chằng chịt và cửa kính cáu bẩn trên gác mái. Thỉnh thoảng sương mù tản ra, có thể thấy một nửa động cơ máy bay ném bom hoặc một bên cánh đơn độc, rồi toàn bộ máy bay lại chìm trong màn sương vừa quay trở lại.

Chuck lẻn vào nhà ăn lúc khoảng tám rưỡi sáng, bỏ mấy miếng trứng bác và bánh mì đen vào miệng, xong xuôi lại súc miệng bằng cà phê. Một công binh² tên Hughes sẽ gia nhập phi hành đoàn của hắn hôm nay, mang theo một máy ảnh K-20 cỡ đại với nhiệm vụ là chụp ảnh các nhà máy lắp ráp máy bay tiêm kích của Đức và gửi cho Cục Tình báo Không quân sau khi trở về. Chuck gặp Trung sĩ Hughes trong nhà ăn, nói qua vài câu, xong xuôi liền vỗ vai anh công binh này rồi rời đi trước. Ngoài ra còn có thêm một tay thám trắc mục tiêu và hai xạ thủ súng máy mới được phân công bởi bộ chỉ huy, Chuck chào hỏi từng người một rồi gọi Jody và Leo qua, bảy người tập trung một chỗ, chờ đợi để xuất phát.

Lệnh tập hợp yêu cầu có mặt lúc mười giờ, đến khoảng mười giờ hai mươi phút, tất cả các máy bay ném bom và máy bay tiêm kích Spitfire hộ tống đều đã cất cánh. Họ bay một vòng trên bầu trời Đồi Biggin để đảm bảo rằng tất cả các máy bay đều theo đội hình, sau đó hướng về phía đông bắc, tập hợp cùng với các đội khác ở eo biển, tạo thành một dàn máy bay ném bom cực kỳ lớn với tổng cộng 291 chiếc B-17 hướng thẳng đến địa điểm mục tiêu được chỉ định bởi bộ chỉ huy: Schweinfurt. Đây là cuộc không kích lớn thứ hai của Không lực Lục quân Hoa Kỳ lên thị trấn này của Đức, Jody đã giỡn về trò trêu ngươi bấm chuông cửa hai lần, nhưng không có ai cười trừ Chuck.

Vẫn theo lối cũ, các máy bay Spitfire có nhiệm vụ hộ tống tới bờ biển phía Tây nước Pháp, sau đó sẽ có các máy bay P-47 Thunderbolt tiếp nhận nhiệm vụ này đến biên giới Pháp – Đức và cũng trở về điểm xuất phát từ vị trí đó do không đủ nhiên liệu. Chuck hạ lệnh cho đội ném bom duy trì độ cao, tiếp tục dùng những tầng mây làm lá chắn. Trung sĩ Hughes không hài lòng về mệnh lệnh này do vẫn chưa thể chụp được tấm ảnh nào rõ ràng, dù rằng lãnh thổ của kẻ thù đang ở ngay dưới chân mình. Leo trèo lên từ khoang chứa bom, bảo ông bớt nói đi, khi nào đến địa điểm mục tiêu thì vẫn còn cơ hội chụp, chứ giờ mà cả lũ bị pháo phòng không bắn hạ thì Hughes và máy ảnh chết tiệt của ông anh có thể cùng đi chết thật đấy.

Khoảng hai giờ mười lăm phút chiều, Leo nhắc Chuck điều chỉnh hướng bay lần cuối, sau khi hắn hạ lệnh giảm độ cao thì đội máy bay ném bom mới xuyên qua những tầng mây, xuất hiện trên bầu trời Schweinfurt. Tiếng pháo cao xạ ngay lập tức vang lên, đạn pháo nổ tung, khói đen dày đặc nở ra như những đóa hồng nhuốm màu bẩn thỉu vây quanh máy bay. Trong vòng chưa đầy mười phút, làn khói dày buộc Chuck phải hạ độ cao một lần nữa, nếu sẽ không thấy nổi mục tiêu. Một quả đạn pháo phát nổ ở ngay góc trên bên phải của buồng lái, suýt chút nữa hất văng Chuck cùng với toàn bộ khoang điều khiển. Một máy bay B-17 cách đó không xa bị trúng đạn và bắt đầu rơi xuống, Chuck buộc mình phải quan sát lần nữa để tìm kiếm mục tiêu.

Ở độ cao này, nhà máy lắp ráp máy bay tiêm kích trông giống như những ô vuông nhỏ màu xám chen chúc nhau, Chuck lao về hướng đó, mặc kệ mật độ dày đặc của pháo cao xạ. Mãi cho đến khi tay thám trắc viên báo cáo đã bắn trúng mục tiêu, Chuck mới nâng độ cao, thoát khỏi lưới lửa của đạn phòng không. Một quả đạn pháo khác từ khẩu 88mm nổ ngay trước mắt, chiếc máy bay ném bom băng qua làn khói đen, cảm giác như thể đang gọi anh em đi đánh nhau thì đột nhiên bị bịt mắt lại và mất tầm nhìn. Hai máy bay Me 109 như bóng ma vọt ra từ làn khói đen dày đặc kia rồi bắn thẳng vào buồng lái. Chuck chửi thề, tay kéo cần điều khiển sang trái, trời đất nghiêng ngả do bọn họ xoay vòng vòng 60 độ, máy bay ném bom ngoặt một đường, miễn cưỡng tránh khỏi làn đạn. Xạ thủ bên hông nhân cơ hội này bất ngờ nổ súng vào máy bay địch nhưng Me 109 đã kịp tẩu thoát, trong chốc lát liền biến mất khỏi tầm nhìn, chỉ vài giây sau đã xuất hiện ở phía bên kia máy bay ném bom, nhằm vào súng máy bên hông còn lại mà bắn. Mảnh vỡ văng tứ tung, gió lạnh tràn vào từ thân máy bay bị nứt vang lên ầm ầm. Thiết bị truyền tin là một mớ hỗn loạn, Chuck có thể nghe thấy Jody và Leo đang la hét, tiếng súng máy vẫn gầm vang, thế rồi một máy bay Me 109 xoay tròn trên không và rơi xuống, vụn nát trước khi chạm đất, tan thành những mảnh vỡ đỏ lửa.

"Còn một máy bay Me 109 khác..." Chuck nghe Jody nói, "đang theo đuôi, tao-"

Âm thanh của vụ nổ át đi những từ cuối cùng của Jody. Chuck gọi nó hai lần, không một lời hồi đáp. Hắn muốn quay ra đằng sau nhìn vào trong cabin xem có chuyện gì nhưng không có thời gian. Súng phòng không đã xé toạc một bên cánh của chiếc B-17 bay song song, nó ngay lập tức mất thăng bằng, cái cánh rơi ra lao về phía máy bay của Chuck như một lưỡi dao. Hắn nắm chặt tay cầm, đạp mạnh chân ga, cắn răng chờ đợi tiếng vỡ ầm ầm của tấm thép bên thân máy bay.

Thế rồi, chẳng có gì xảy ra hết. Một máy bay yểm trợ xấu số vừa hay bay so le với bọn họ giờ đây đã mang theo khói lửa mà rơi xuống thành phố bên dưới.

Lệnh trở về điểm xuất phát vang lên. Dàn máy bay ném bom đang mắc kẹt trong làn khói bẩn thỉu này từng chiếc từng chiếc quay đầu đầy khó khăn, chật vật để trở về nước Anh xa xôi. Máy bay Me 109 kia đã quay trở lại, Chuck điều chỉnh súng máy ở mũi, bóp cò và cố gắng hạ gục tên khốn đó. Hắn đã bắn trúng máy bay tiêm kích Đức, thế nhưng kính buồng lái máy bay B-17 cũng dính đạn, cơn đau bùng lên ở bên mặt và ngực trái của Chuck, một lúc sau hắn mới nhận ra mình đang nằm sõng soài trên sàn, xây xẩm mặt mày. Leo cố hết sức lắc vai hắn, tay hoa tiêu mặt mũi bê bết máu, Chuck gần như không thể nhận ra Leo, còn giọng nói của ảnh thì lớn đến nỗi Chuck không thể nghe rõ một từ nào, tai hắn ù đi. Cuối cùng, Chuck bắt lấy cánh tay của ảnh, loạng choạng ngồi dậy, trở lại ghế lái.

Máy bay ném bom của bọn họ đang lao xuống rất nhanh, mặt đất quay cuồng trước mắt, bàn tay dính đầy máu của Chuck nắm chặt cần điều khiển. Còn năm nghìn feet nữa trước khi tan thành những mảnh vỡ, Flying Fortress nặng nề ngẩng cao đầu, cố gắng trở về độ cao cũ. Như nốt nhạc cuối cùng của bản giao hưởng, một quả đạn pháo 88mm sượt qua cánh máy bay, để lại vết cháy đen sì như vết cắn. Chuck mặc kệ nó, chiếc máy bay tiếp tục vượt qua trên những tầng mây, hướng về phía bầu trời ngoài kia, rời khỏi tầm bắn của súng phòng không.

"Hughes chết rồi." Leo nói, ngồi trên sàn, dựa lưng vào vách cabin, "Tình trạng của Jody không tốt cho lắm, tao đã cố giúp nó cầm máu, chỉ e là-"

"Không đời nào," Chuck ngắt lời ông anh, "Chúng ta đã an toàn thoát khỏi đó, nghe chưa? Nó sẽ ổn thôi."

Leo cười nghe thật khô khan, "Tao đoán tao cũng không trụ được bao lâu nữa."

Chuck liếc nhìn Leo, đến lúc này mới nhận ra bộ quân phục đẫm máu và đôi môi nhợt nhạt của ảnh. Hẳn là một mảnh đạn đã găm vào đâu đó trong bụng Leo, tay hoa tiêu đã ấn mạnh vào vết thương mà máu thì vẫn không ngừng chảy. Chuck há hốc miệng, không nói lên lời, trong họng cứ như bị nhét một cục cỏ khô.

Hiện tại căn cứ Đồi Biggin đang ở cách đây hai giờ bay.

"Ở đây lạnh chết mẹ," Leo chửi – đây là lần đầu tiên Chuck nghe thấy ảnh chửi thề.

"Đừng ngủ nhé, được không? Chúng ta sẽ sớm tới Đồi Biggin thôi." Chuck liếʍ cánh môi khô khốc của hắn. "Leo, nói chuyện với tao đi, được không? Kể cho tao nghe về Natalie xem nào, mày đã gặp cô ấy ở đâu?"

Bọn họ nói chuyện đứt quãng, xen vào giữa là tiếng ồn của động cơ. Bất cứ khi nào giọng của Leo yếu dần, Chuck sẽ gọi tên ảnh cho đến khi Leo tỉnh lại. Hắn cũng cố gắng gọi ba xạ thủ súng máy khác và tay thám trắc viên, không có ai trả lời, cũng không một ai tới buồng lái. Chuck nhìn chằm chằm vào bầu trời thờ ơ ngoài kia, nuốt nước bọt nhiều lần, cố gắng kìm nén cảm giác chua xót trực trào khỏi l*иg ngực. Không khí lạnh lẽo cuốn quanh tay và cổ hắn, Chuck tát mạnh vào bên mặt, buộc mình phải tỉnh táo.

"Leo, mày còn tỉnh chứ?"

"Còn."

"Kiên trì vài phút nữa thôi, tao thấy đường băng rồi," Chuck nói, hy vọng Leo không nhận ra sự run rẩy trong giọng nói của hắn, "Mày làm được không?"

"Tao... muốn gặp Natalie."

"Mày sẽ được gặp cô ấy ngay lập tức, muộn nhất là ba phút nữa."

Chiếc B-17 lượn một vòng trên không và bắt đầu hạ độ cao, vô cùng vội vã, áp suất không khí thay đổi khiến Chuck tối sầm mặt mũi. Thiết bị hạ cánh chạm xuống đường băng, chiếc máy bay rung chuyển dữ dội như một lọ bánh quy rỗng không vừa bị một đứa trẻ nhặt lên rồi lại ném xuống đất. Và rồi, xung quanh bỗng im bặt. Chuck nghĩ rằng hắn vẫn có khả năng đứng dậy được, trên thực tế lại chỉ có thể vụng về ngã lăn ra khỏi ghế, nằm thở hổn hển giữa những mảnh vụn thủy tinh và kim loại, bò về phía Leo và kéo cánh tay ảnh, cái đầu của tay hoa tiêu nghiêng sang một bên, mắt nhắm chặt, không có phản ứng.

Chuck hít thật sâu hai lần, xoay người bò về phía cửa cabin, còn chưa kịp chạm vào tay cầm thì cửa đã bị mở ra từ bên ngoài, có người hét lớn một tiếng, hắn cảm nhận được mấy đôi tay nhấc hắn lên, kéo hắn ra khỏi cabin. Chuck biết mình vừa mất đi ý thức một lúc lâu, khi có thể nhìn rõ trở lại thì hắn đã nằm trên một chiếc cáng đung đưa, đối mặt với bầu trời xám xịt không khác gì sáng nay. Một y tá cúi xuống kiểm tra vết thương của hắn, chữ thập đỏ trên áo người đó rực lên ánh lửa trong đáy mắt Chuck. Bầu trời biến mất, lần này trong mắt Chuck là trần nhà mốc meo và ánh đèn điện. Hắn kéo lấy cánh tay của y tá, người đó giật mình nhưng cũng không hất tay ra, thay vào đó gọi bác sĩ.

"Phi hành đoàn của tôi." Hắn nghẹn ngào mà nói, trong miệng sặc mùi máu tanh.

"Anh cần phải nghỉ ngơi, Trung sĩ Sinclair, anh mất rất nhiều máu."

Kim tiêm đâm vào tay, Chuck cố gắng phản đối nhưng lưỡi hắn cứng lại không nghe bộ não chỉ huy, chỉ có thể lắp bắp thốt lên một âm tiết. Bóng tối ập đến như thủy triều, kéo hắn vào khoảng không tĩnh lặng



Chú thích của người dịch (Translator's Note):

1. Gốc: 弥撒, tiếng Việt: Lễ Mi-sa hay Thánh lễ, thường được tổ chức nhằm bày tỏ lòng biết ơn vì tất cả những phúc lành Thiên Chúa ban, ngoài ra cũng là một cách đặc biệt để cầu nguyện cho những tín hữu đã qua đời.

2. Gốc: 工程兵, tiếng Anh: Combat Engineer, tiếng Việt: Công binh, là một binh chủng trong quân đội, có chuyên môn kỹ thuật với chức năng bảo đảm máy móc và vũ khí hoạt động trong tác chiến và xây dựng, có thể trực tiếp chiến đấu bằng vũ khí công binh