Tôi lại gặp Brandon ngoài đồng hoang. Cả đêm qua, tôi gần như không chợp mắt tí nào, trời còn chưa sáng đã lại lẻn ra ngoài. Lúc này suy nghĩ thời gian trôi quá mau cứ bám riết tôi không ngừng. Chỉ một lời cầu hôn nữa là tôi sẽ rời đi và có lẽ không bao giờ trở lại. Cứ nghĩ đến đấy, mọi thứ bỗng trở nên đẹp đẽ đến nhức nhối. Từ hàng dương xỉ, đất bùn đen, thạch nam tím, cho đến đóa hoa vàng có gai, đám cây bụi bện xoắn, và những tảng đá sừng sững gồ ghề trên mặt đất. Tất cả đều thanh nhã đáng yêu, khiến tôi vô cùng quyến luyến. Tôi cúi xuống hái vài bông hoa, ngắt vài cọng cỏ và tước một nhánh thạch nam cho vào túi. Vừa lúc đứng thẳng người lên thì nghe thấy tiếng gọi của Brandon:
- Tiểu thư Worthington! Tôi sợ lát nữa sẽ khó có cơ hội nói chuyện với cô. Cả ngày hôm qua tôi chẳng thấy cô đâu cả.
Ánh mặt trời le lói sau lưng khi anh ta bước về phía tôi. Anh ta là một người tốt. Chắc chắn sẽ khiến cho một cô gái xứng đáng hơn được hạnh phúc. Chứ không phải tôi.
- À. Tôi đến vịnh Robin Hood.
Mắt anh ta trông xanh hơn so với trí nhớ của tôi, màu tóc cũng vàng hơn. Anh ta đưa một tay lên tai.
- Tôi đã thử lắng nghe tiếng chim hót. Nhưng e là phải tìm ai đó phân biệt giúp. Chứ quả tình kiến thức của tôi về chim chóc không được nhiều lắm.
Sực nhớ đến điều Henry từng nói – rằng đàn ông chẳng cần được khích lệ mới đánh mất trái tim mình. Tôi chắc chắn sẽ không ảo tưởng Brandon đã yêu mình, nhưng việc anh ta chú ý đến tôi là thật. Đây là lúc tôi nên làm điều tốt cho anh ta.
- Tôi sẽ rất hân hạnh, anh Brandon ạ. Nhưng tôi e mình sắp phải đi xa rồi.
Anh ta dựng đứng cả hai hàng mày.
- Hả? Cô định đi đâu?
- Ấn Độ. Với cô tôi.
Nét mặt anh ta xụ xuống.
- Tôi cứ nghĩ đó chỉ là một kế hoạch xa vời thôi chứ. Từ những gì tôi nghe được từ cô Delafield, chuyến đi ấy không lấy gì làm chắc chắn cả.
Tôi vò vò bông hoa vàng.
- Ngược lại là đằng khác. Tôi định sớm khởi hành. Có lẽ ngày mai cũng không chừng.
Anh ta liền tiến lên vài bước, sự quyết tâm tỏ rõ trên nét mặt.
- Vậy thì tôi càng lấy làm mừng vì đã có cơ hội được nói chuyện riêng với cô. Tôi phải nói với cô một việc mà có lẽ cô cũng nhận ra rồi đấy. Tôi đã bị cô quyến rũ. Vẻ đẹp của cô. Sự lương thiện của cô. Hiếm có cô gái nào làm tôi say mê nhường ấy. Thường thì họ đều khiến tôi phát ngán lên. – Anh ta bắn cho tôi một nụ cười đầy nắng. – Tôi tha thiết muốn được tìm hiểu cô. Để chinh phục trái tim cô. Vì vậy, xin cô hãy cho tôi một cơ hội, hãy hoãn chuyến đi đó lại.
Lòng tôi chùng xuống. Tôi không biết tình cảm của anh ta đã lớn đến mức ấy. Chỉ nghĩ anh ta suốt ngày kè kè bên cạnh vì xem tôi như một người bạn hợp tính mà thôi.
- Tôi xin lỗi. – Tôi thì thầm. Khẽ hắng giọng. – Lẽ ra tôi nên nói điều này sớm hơn. Tôi… Tôi không định sẽ kết hôn. Không bao giờ. Thứ lỗi cho tôi nếu tôi có vô tình làm gì khiến anh hiểu lầm.
Nụ cười tỏa sáng của anh lập tức biến mất, thay vào đó là sự thất vọng siết chặt trong đáy mắt.
- Không định sẽ kết hôn? Cô không cần phải đi xa đến mức ấy để từ chối tôi đâu. Chỉ cần nói rằng cô không muốn tìm hiểu tôi là được rồi.
- Không phải vậy! Tôi nói thật đấy. – Nhác thấy anh ta xoay lưng toan bước đi, tôi vội vàng tóm tay anh ta lại. – Không phải tôi muốn lừa anh. Anh có thể hỏi Sylvia. Phu nhân Delafield. Hay Henry cũng được. Họ đều biết rất rõ. Tôi đã nói với họ nhiều lần trong suốt hai năm qua.
Anh ta giằng tay ra.
- Vậy à, thế mà chẳng ai chịu cảnh báo tôi cả. – Đoạn khom lưng. – Xin thứ lỗi.
Anh ta vừa đi khỏi, dưới tay bỗng nhói lên một cơn đau. Tôi vội duỗi ngón tay ra và nhìn xuống. Thấy máu nhuộm vào bông hoa héo rũ đầy gai.
………….
Tôi do dự nhay nhay môi, lừng khừng trước cánh cửa để mở. Đã đi được đến mức này. Đã chuẩn bị đầy một túi vỏ sò và những bông hoa hái ngoài đồi hoang. Đã theo dõi công việc của gia nhân và kiên nhẫn đợi một lúc để chắc rằng người hầu gái có trách nhiệm trông nom đã thẳng giấc ngủ trưa. Đã có thể nhìn thấy ông của Henry đang ngồi trên ghế trước cửa sổ từ ngoài này.
Hít sâu một hơi, tôi nhẹ nhàng đẩy cửa bước vào, không muốn khiến ông cụ giật mình. Người hầu gái thở đều đều trước lò sưởi. Chiếc ghế bên cạnh ông để trống. Đợi một lát. Tôi chạm vào lưng ghế rồi nghiêng đầu nhìn ông. Ánh mắt ông cụ trống rỗng vô hồn, mặt hướng ra cửa sổ, tay buông thõng lên đùi, chăn đắp bên trên.
- Chào ông. – Tôi nhẹ cất tiếng.
Ông hơi cựa quậy người, vai khẽ động, chân nhúc nhích. Song, vẫn không hề nhìn tôi. Tôi lách qua ngồi xuống ghế, thận trọng để không va vào ông hay chiếc bàn thấp trước mặt.
- Cháu ngồi đây được không ạ? – Tôi hỏi, chăm chú quan sát vẻ mặt ông. Tròng mắt ông khẽ động đậy, hơi đảo đảo, nhưng vẫn hướng ra cửa sổ.
Đợi một lát không thấy ông cụ có động tĩnh gì thêm, tôi bèn thò vào túi áo lấy ra một nắm vỏ sò. Đoạn cúi người tới trước, cẩn thận đặt từng cái lên bàn, cái xoay lên, cái xoay xuống, đều hướng phần bụng mờ mờ lên trên. Xong xuôi, tôi ngóc đầu lên, thấy ánh mắt của ông đã chuyển đến mặt bàn.
- Cháu biết ông thích vỏ sò nên đã nhặt chúng đến cho ông. – Tôi lại thò tay vào túi áo và lấy ra chiếc vỏ còn lại. – Chiếc vỏ này khác hẳn những cái khác. – Tôi cho ông xem chiếc vỏ ốc màu đen hình viên đạn nom rất kỳ dị mà mình đã nhặt được. Trông nó không giống vỏ ốc, nhưng rõ ràng nó thuộc về biển cả. – Ông có biết nó là gì không ạ?
Ông rút tay ra khỏi chiếc chăn trên chân và run rẩy giơ về phía tôi. Tôi đặt chiếc vỏ lên tay ông, ông vân vê nó giữa mấy ngón tay xương xẩu.
- Nó là… - Giọng ông khàn khàn phát ra như tiếng thì thầm. – Nó là một mẩu hóa thạch. Một mẩu hóa thạch rất cổ.
Tôi cố nén nụ cười chực nổ tung dưới nỗ lực kiểm soát của mình. Ông ấy đang nói chuyện với tôi.
Tôi lại cho tay vào túi và lấy ra mấy bông hoa vàng hái ngoài đồi hoang. Đặt lên bàn, cạnh đám vỏ sò. Ngoài ra còn có một nhánh thạch nam tím sâm và vài cọng cỏ màu xanh nguyệt quế. Tôi đặt tất cả lên bàn, rồi ngồi lùi lại chờ đợi.
Ông cầm bông hoa vàng lên, tôi giơ tay toan nhắc ông về mấy cái gai thì bỗng thấy ông rụt người lại và nhìn giọt máu rịn trên ngón cái với vẻ ngạc nhiên. Rồi, lần đầu tiên, ông xoay sang nhìn tôi. Đôi con ngươi ánh lên màu xám quen thuộc. Lông mày trắng dày thô cứng, song ánh mắt lại vô cùng minh mẫn. Tôi đột nhiên ngộ ra vì sao đôi mắt ấy lại nom quen đến vậy. Đó là đôi mắt của Henry. Hay nói đúng hơn, Henry thừa hưởng đôi mắt từ ông mình.
- Cháu là ai? – Ông hỏi tôi, như đã hỏi Henry hôm trước.
- Cháu là Kate. Kate Worthington.
Đôi mày xiên của ông nhướng lên:
- Kate của Henry ư?
Trái tim tôi như ngừng đập. Hai má đỏ gay.
- Kate của Henry? Cháu là bạn anh ấy. Bọn cháu lớn lên cùng nhau. – Ông vẫn im lặng chờ đợi. - Ừm… hình như … đúng là cháu đấy ạ.
- Vậy là cuối cùng cháu cũng đã đến. – Ánh mắt trong suốt hướng thẳng vào tôi. Ông nhìn tôi. Hoàn toàn tỉnh táo. Tôi có nghe Henry nói đôi lúc hiếm hoi ông cũng tỉnh táo này. Nhưng vô cùng kinh ngạc vì mình có thể may mắn tình cờ bắt gặp giây phút ấy ngay trong lần thử đầu tiên.
- Vâng. – Khóe cười của tôi dãn rộng đến toét miệng. – Vâng, cuối cùng cháu cũng đã đến.
Ông lướt mắt qua mặt tôi, đoạn ngả người ra sau với một nụ cười thư thái trên nét mặt già nua.
- Cháu thật đáng yêu. Như thằng bé đã nói vậy.
Tôi ôm tay vào lòng, hầu như nín cả thở, mặt nóng bừng như phải bỏng.
- Như Henry nói ấy ạ?
Nhưng ông đã lại dời mắt ra ngoài, vẻ rõ ràng sắc bén bị thay thế bằng đờ đẫn mờ mịt. Những ngón tay của ông khum lại đặt trong lòng, nom bồn chồn như thiếu mất thứ gì vậy. Tôi nghiêng qua, nhẹ nhàng đặt một vỏ sò vào tay ông. Ông xoay xoay vỏ sò, mân mê ngón tay theo đường vân của nó.
Tôi nhìn ông vẻ mong đợi, biết rằng lần tỉnh táo này đã trôi qua.
Bèn bắt chước Henry, đề nghị:
- Cháu đọc sách cho ông nghe nhé.
Ông gật đầu, ánh mắt vẫn hướng ra cửa sổ. Khi với tay tới chồng sách, tôi nghe thấy ông nói gì đó rất nhỏ. Nhỏ đến mức tôi không thể nghe rõ được. Tôi bèn nghiêng qua ông.
- Ông nói gì ạ?
- Chiền chiện, - Ông lẩm bẩm, vẫn xoay xoay vỏ sò không ngừng.
Tôi nương theo ánh mắt của ông dõi ra ngoài. Nhưng không thấy bóng dáng chú chim nào xuất hiện sau ô cửa sổ cả.
- Sao cơ ạ?
- Chiền chiện. Chiền chiện của Henry. Chiền chiện. – Ông duỗi ngón tay run rẩy chỉ lên bàn. Tôi cầm quyển sách trên cùng lên, nhướng mày đưa cho ông xem. Ông lại chỉ tay lần nữa. – Chiền chiện. – Tôi đổi quyền khác, rồi lại quyển khác, sau đó nhìn thấy một mẩu giấy kẹp giữa hai quyển sách. Có vẻ như đó là một bài thơ. Được viết tay. Hàng trên cùng là dòng chữ: “Chiền chiện – tác giả Robert Burns”
Tôi giơ lên cho ông xem.
- Cái này ạ? Ông muốn cháu đọc cái này cho ông nghe phải không?
Ông hài lòng ngồi lùi lại, gật gật đầu.
Ông gọi đó là Chiền chiện của Henry. Tôi hắng giọng, tim đập nhanh, và cất giọng đọc:
Đừng đi hỡi chiền chiện ca da diết
Bỏ lại ta chỉ cây trống cành rung
Kẻ sầu tình mong cầu nghe tiếng hát
Lời buồn thương tha thiết dịu êm
Cất nữa đi giọng ca êm dịu ấy
Để ta chiếm những cung đàn lay động
Chạm lòng em nỗi xao xuyến bâng khuâng
Thờ ơ, em gϊếŧ chết trái tim ta
Nói thay ta lời yêu thương vô hạn
Đau lặng thinh tuyệt vọng áng mây đen
Rủ lòng thương hỡi chiền chiện yêu mến
Kẻo tim ta vụn vỡ nát tan tành
Nâng niu trang giấy sau khi đã đọc hết.
- Bài thơ hay quá. – Tôi lẩm bẩm.
- Trái tim nó đã tan vỡ. – Ông nói, mắt vẫn nhìn ra ngoài. – Đó là lý do vì sao nó yêu tiếng chiền chiện.
Tôi trân trân nhìn ông.
- Ai cơ? Ông nói tim ai tan vỡ? – Tôi hỏi bằng tiếng thì thầm.
Ông quay lại, tôi thấy rõ sự minh mẫn hiện lên trong đôi mắt xám. Lúc này ông là chính ông. Ông biết rõ những gì mình đang nói. Nhưng khi ông mấp máy môi chuẩn bị cất tiếng thì…
- Cháu đang làm gì ở đây?
Tôi giật thót mình, lập tức xoay ra cửa. Phu nhân Delafield đang hùng hổ sải bước vào phòng.
Tôi đứng bật lên và lách ra khỏi chiếc ghế mình đã chiếm dụng. Bà ấy đưa mắt nhìn tôi rồi nhìn sang ông cụ. Dán chặt vào những vỏ sò và hoa cỏ trên bàn.
- Cháu chỉ đang… đọc sách cho ông nghe. – Tôi đáp, biết rõ đó chưa phải là một lời xin lỗi thích đáng. Vì rõ ràng tôi không được cho phép có mặt ở đây. Người hầu gái đang ngủ là minh chứng cho điều đó.
Bà ra hiệu cho tôi đi theo mình. Tôi cất bước, trống ngực đập thình thịch và cơn hoảng loạn lan tràn trong mạch máu. Bà ra ngoài và cẩn thận khép cửa lại trước khi xoay sang tôi. Tôi lùi một chút nới lỏng khoảng cách.
- Cháu đã nói gì với cha ta? Có phải về bản di chúc không?
Tôi há hốc miệng.
- Không phải ạ!
- Chẳng thay đổi được gì đâu, Kitty. Ta không quan tâm ông ấy đã nói gì với cháu hay cháu đã nói gì với ông ấy. Nội dung bản di chúc sẽ không thay đổi. Nếu đó là lý do cháu tìm cách gặp ông thì…
- Không có! – Tôi hoảng hốt thốt lên. – Cháu không nói một lời nào về bản di chúc cả! – Tôi trân trối nhìn bà, mơ màng nghĩ đến một khả năng. Tim đập thình thịch. Tôi nhớ lại cái đêm cách đây mười tám tháng, trong buổi dạ vũ tại trang viên Delafield. Giữa căn phòng tối tăm, sau bức rèm che kín, cuộc đối thoại không nên nghe thấy vẫn văng vẳng dội vào tai.
- Sao cô lại nghĩ vậy? –Tôi lí nhí hỏi. Kinh hoảng tột cùng. Mùi hương mẫu đơn trong ký ức chợt thoang thoảng khiến tôi phải liếc nhìn quanh xem có phải thật chăng? – Sao cô lại nghi ngờ cháu sẽ nói với ông về chuyện di chúc?
Đôi mắt xanh thẳm của bà lấp đầy sự ngờ vực.
- Cha tôi không được tỉnh táo. Bất cứ điều gì ông nói với cháu đều không thể xem là thật. Không một kẻ phá đám nào được đến đây và thay đổi kế hoạch của tôi dành cho con trai mình.
Bạn ấy chạy vòng qua sảnh với tốc độ tôi chưa từng thấy trước đây. Nhác thấy tôi đứng cùng phu nhân Delafield, bạn ấy đột ngột khựng lại, trên mặt hiện rõ vẻ kinh hoàng.
- Sao vậy? – Phu nhân Delafield đến gần bạn ấy. – Đã xảy ra chuyện gì?
Sylvia nhìn tôi khi trả lời.
- Kitty, là mẹ bạn. Bà ấy đã đến đây. Dẫn theo Maria.