Chương 53: Chương 04(part 01)

4

Mua giày mới



Kẻ về nhà


Từ ga xe điện ngầm Akasaka tôi đi theo một con phố sầm uất hai bên san sát nhà hàng và quán bar để đến nơi tọa lạc tòa cao ốc văn phòng, hơi lên dốc một quãng ngắn. Đó là một tòa nhà chẳng có gì đặc biệt, không mới không cũ, không to không nhỏ, không sang trọng chẳng tồi tàn. Một hãng du lịch chiếm một phần tầng trệt, khung cửa số lớn trang hoàng hai tấm áp phích quảng cáo, một là cảnh hải cảng trên đảo Mykono, một là xe cáp treo ở San Francisco. Cả hai đều bạc phếch vì treo ngoài cửa sổ lâu ngày. Ba nhân viên hãng đang miệt mài làm việc sau tấm kính, người nói chuyện qua điện thoại, kẻ gõ bàn phím máy tính. Giả vờ xem các tấm poster, tôi gϊếŧ thời giờ bằng cách quan sát cảnh văn phòng trong khi đợi đồng hồ điểm 4 giờ. Vì lý do nào đó, cả Mykono lẫn San Francisco đều dường như cách chỗ tôi đứng đến hàng năm ánh sáng.

Càng nhìn tòa nhà này, tôi càng nhận thấy nó tầm thường đến mức nào. Dường như nó được xây theo nguyên xi bản vẽ bằng bút chì của một đứa trẻ con nếu như người ta bảo nó vẽ một tòa nhà; hoặc dường như người ra cố tình thiết kế sao cho nó không nổi bật giữa môi trường xung quanh. Dẫu trong khi đi tìm tôi đã kiểm tra các số nhà cẩn thận đến mấy, suýt nữa tôi đã bỏ qua tòa nhà này mà không biết, nó bình thường quá. Lối vào khiêm nhường của nó ở ngay cạnh cửa vào của hãng du lịch. Nhìn qua các bảng tên, tôi có cảm tưởng rằng thuê văn phòng ở đây hầu hết là những doanh nghiệp nhỏ - văn phòng luật, kiến trúc sư, nhà nhập khẩu, nha sĩ. Một vài bảng tên sáng choang đến độ tôi có thể soi rõ mặt mình trên đó, nhưng bảng tên cho phòng 602 thì đã mờ xỉn vì năm tháng, chuyển sang một màu khó xác định. Hẳn người đàn bà này đã thuê văn phòng ở đây từ lâu. "Hãng thiết kế thời trang Akasaka", tấm biển đề. Vẻ cũ kỹ của tấm bảng làm dịu đi nỗi nghi hoặc của tôi.

Giữa sảnh đợi và thang máy là một cánh cửa bằng kính khóa chặt. Tôi bấm chuông phòng 602 rồi nhìn quanh tìm ống kính camera mà chắc hẳn đang truyền hình ảnh của tôi vào màn hình ở bên trong. Có một thiết bị nhỏ trông như camera trên một góc trần sảnh đợi. Chẳng mấy chốc chuông reo, khóa cửa mở ra, tôi liền bước vào buồng thang máy.

Tôi đi trên cái buồng thang máy tuyệt đối không trang hoàng gì để lên tầng sáu, rồi sau một hồi loanh quanh trong cái hành lang tuyệt đối không trang hoàng, tìm thấy cảnh cửa số 602. Sau khi kiểm tra xem có đúng là trên cánh cửa có biển đề "Akasaka Fashion Design", rồi mới bấm chuông đúng một tiếng.

Mở cửa cho tôi là một thanh niên mảnh dẻ tóc cắt ngắn, đường nét gương mặt thật căn đối. Có lẽ y là gã đàn ông điển trai nhất tôi từng gặp. Nhưng đập vào mắt tôi còn mạnh mẽ hơn cả khuôn mặt là quần áo của y. Y vận một chiếc áo sơ-mi trắng đến nhức mắt, thắt cà vạt màu xanh thẫm có họa tiết tinh tế. Không chỉ bản thân cà vạt rất đúng mốt mà nút thắt cũng không chê vào đâu được. Từng nếp gấp đều đúng hệt như thường thấy trong tạp chí thời trang dành cho nam giới. Tôi chẳng bao giờ thắt cà vạt được như vậy, và bỗng dưng tôi tự hỏi y làm cách nào. Có phải đó là tài năng thiên bẩm của y, hay là kết quả sự dày công khổ luyện? Y mặc quần xanh thẫm và mang giày đế phẳng màu nâu có trang trí núm tua. Mọi thứ y mặc đều mới tinh, như thể y mặc lần đầu tiên mới cách đây vài phút.

Y thấp hơn tôi. Trên môi y thấp thoáng nụ cười, như thể y vừa nghe một mẩu chuyện khôi hài và lúc này y đang mỉm cười một cách tự nhiên nhất. Chẳng phải một mẩu chuyện khôi hài dung tục đâu: đó là loại hài hước thanh lịch mà cách đây một thế hệ ngài bộ trưởng ngoại giao hẳn đã nói với hoàng thái tử trong một bữa tiệc ngoài trời, khiến những người nghe xung quanh cười khe khẽ đầy lịch sự. Tôi toan tự giới thiệu, nhưng y đã khẽ lắc đầu ý nói tôi không cần phải nói gì. Tay giữ cửa mở, y để tôi vào, đoạn đảo mắt nhìn khắp hành lang rồi đóng cửa lại. Suốt thời gian đó y không hé môi, chỉ nheo nheo mắt nhìn tôi như thể xin lỗi rằng y không thể nói năng gì bởi có con báo đen nóng nảy đang ngủ ngay bên cạnh. Nói thế không có nghĩa là quả thật có con báo đen nào đang ngủ cạnh y, đơn giản là gã thanh niên này có cái vẻ như vậy.

Giờ tôi đang đứng ở một phòng tiếp khách có một chiếc đi-văng và ghế da trông khá tiện nghi, một giá treo quần áo bằng gỗ theo kiểu cổ và một cây đèn chân đế. Bức tường đằng xa có một cánh cửa, ý chừng để dẫn sang phòng bên cạnh. Bên cánh cửa này, quay lưng lại tường, là một chiếc bàn làm việc đơn giản bằng gỗ sồi trên đó là một chiếc máy vi tính lớn. Chiếc bàn kê phía trước đi-văng hẳn chỉ đủ lớn để đặt một cuốn danh bạ điện thoại. Sàn phòng trải một tấm thảm màu lục nhạt trông dịu mắt. Từ những chiếc loa dấu kín phát ra nho nhỏ một bản tứ tấu đàn dây của Haydn. Trên tường có mấy bức tranh dễ thương vẽ hoa lá và chim chóc. Nhìn qua cũng biết đây là một căn phòng không chê vào đâu được, không một chút bừa bộn. Các giá sách trên tường chất toàn những mẫu vải và tạp chí thời trang. Đồ đạc trong căn phòng không xa hoa cũng chẳng mới, nhưng lại mang vẻ ấm áp, xưa cũ và quen thuộc làm ta bình tâm.

Người thanh niên dẫn tôi lại chỗ đi-văng, còn chính mình thì đi về phía bên kia bàn làm việc rồi ngồi xuống đối diện tôi. Chìa hai lòng bàn tay về phía tôi, y ra hiệu rằng phải đợi một lát. Thay vì nói "Xin lỗi đã bắt ông phải đợi", y chỉ khẽ mỉm cười, và thay vì nói "Không lâu đâu", y giơ một ngón tay lên. Dường như y có khả năng diễn đạt ý mình mà không cần lời nói. Tôi gật đầu một lần để tỏ ý hiểu. Mở mồm nói khi có mặt y hẳn sẽ không đúng chỗ và thô bỉ.

Y nhặt một cuốn sách nằm cạnh máy vi tính, cẩn thận như đang cầm trong tay một vật dễ vỡ, rồi lật tới trang đang đọc dở. Đó là một cuốn sách dày màu đen không có bìa ngoài nên tôi không nhìn ra tựa đề. Mở sách ra là y toàn tâm toàn ý vào việc đọc, dường như quên hẳn rằng tôi đang ngồi đó. Lẽ ra tôi cũng muốn đọc một cái gì cho qua thời gian, nhưng chẳng có gì để đọc. Tôi bắt tréo chân, ngồi cho thoải mái trên đi-văng mà nghe nhạc Haydn (mặc dù, nếu hỏi ra thì tôi cũng không dám chắc đó là Haydn). Nhạc thì hay, song đó là loại nhạc dường như vừa xuất phát từ nguồn là lập tức tan biến vào không trung. Trên bàn làm việc của gã thanh niên, ngoài chiếc máy vi tính là một cái điện thoại bình thường màu đen, một khay đựng bút và một cuốn lịch.

Tôi vẫn mặc đúng lễ bộ đã mặc ngày hôm trước: áo khoác bóng chày, áo len có mũ trùm đầu, quần bò xanh, giày tennis. Trước khi ra khỏi nhà tôi đã vớ được gì thì mặc nấy. Trong căn phòng ngăn nắp chỉn chu không chê vào đâu được này, có mặt chàng thanh niên đẹp trai tươm tất không chê vào đâu được kia, đôi giày tennis của tôi trông càng bẩn thỉu, càng cũ rích. Cả năm qua ngày nào tôi cũng mang đôi giày này, trèo qua bức tường sau nhà không biết mấy lần, thỉnh thoảng dẫm lên phân chó trong khi đi về theo con ngõ, lại còn chui xuống đáy giếng nữa. Chẳng lạ là chúng bẩn thỉu, cũ mèm. Không phải đợi đến khi thôi việc tôi mới quan tâm đến chuyện mình đang mang đôi giày ra sao. Xem xét đôi giày kỹ thế này, tôi càng thấm thía mình cô đơn đến nhường nào, cảm thấy thế giới đã bỏ xa tôi đến mức nào. Đến lúc phải mua giày mới rồi, tôi tự nhủ. Đôi này thật kinh khủng quá sức.

Chẳng mấy chốc, nhạc Haydn kết thúc - một cái kết đột ngột, chẳng đâu vào đâu. Sau một quãng lặng ngắn, một tác phẩm dành cho harpsichord của Bach lại cất lên (tuy cả lần này nữa tôi cũng không dám chắc là của Bach). Tôi bắt tréo chân này rồi lại đổi chân kia. Điện thoại reo. Gã thanh niên dùng một mẩu giấy đánh dấu chỗ đang đọc dở, đặt sách qua một bên rồi nhấc ống nghe. Y áp ống nghe vào tai rồi khẽ gật đầu. Nhìn sang cuốn lịch để bàn, y lấy bút chì đánh dấu. Đoạn y giữ ống nghe gần mặt bàn rồi gõ gõ đốt ngón tay hai lần lên lớp gỗ như đang gõ cửa. Sau đó y gác máy. Cuộc gọi chỉ kéo dài khoảng hai mươi giây, suốt thời gian đó gã trai không nói một câu nào. Thực ra, y đã không hề thốt một tiếng từ khi mời tôi vào phòng. Tại sao y không nói chuyện được nhỉ? Rõ là y có thể nghe được, cứ xem cách y trả lời điện thoại và lắng nghe những gì người ta đang nói ở đầu bên kia phòng thì đủ biết.

Y ngồi nhìn chiếc điện thoại một hồi như đang suy nghĩ. Rồi y đứng dậy không một tiếng động, đi vòng qua bàn làm việc, tiến thẳng tới chỗ tôi đang ngồi và ngồi xuống cạnh tôi. Rồi y đặt hai tay lên đầu gối, đều tăm tắp. Những ngón tay y thanh mảnh, tuyệt đẹp, đúng như ta có thể hình dung một khi đã nhìn thấy mặt y. Các đốt ngón và khớp nối có rất ít nếp gấp; ngón tay thì thể nào cũng phải có nếp gấp, ít ra cũng phải vài nếp, không thì ngón không gập được. Song những ngón tay y không có nhiều nếp gấp, không nhiều quá mức tối thiểu cần thiết. Tôi cố nhìn những ngón tay y sao cho không quá sỗ sàng. Gã trai này hẳn là con của người đàn bà kia, tôi nghĩ. Những ngón tay y có hình dáng như ngón tay của bà ta. Khi ý nghĩ đó nảy ra trong đầu, tôi bắt đầu nhận ra thêm những điểm giống nhau khác: cái mũi nhỏ khá nhọn, cặp mắt sáng như pha lê. Nụ cười thích thú lại bắt đầu nở trên môi y, hiện ra rồi lại biến đi hoàn toàn tự nhiên như một cái hang bên bờ biển lộ ra rồi lại chìm vào những cơn sóng. Chẳng mấy chốc gã trai đứng dậy, cũng nhanh nhẹn như lúc y ngồi xuống, và môi y động đậy: "Mời đi lối này". Mặc dù y tuyệt không phát ra một tiếng nào, nhưng tôi hiểu rõ điều y muốn nói. Tôi đứng dậy đi theo y. Y mở cánh cửa trong rồi mời tôi vào.

Sau cánh cửa là một căn bếp nhỏ có bồn rửa, sau đó nữa lại là một căn phòng khác, rất giống căn phòng tiếp khách nơi tôi ngồi nãy giờ, song nhỏ hơn một chút. Thảm trải sàn cũng cùng một màu như ở phòng kia. Giữa phòng là một cái bàn làm việc chuyên dụng trên đó có kéo, hộp dụng cụ, bút chì, tạp chí thiết kế, tất cả đều sắp xếp ngay ngắn. Có hai con ma-nơ-canh mà các thợ may vẫn dùng. Cửa sổ không chỉ treo mành mà treo tới hai bộ rèm, một bằng vải một bằng ren, cả hai đều khép kín. Đèn trần không bật nên phòng tranh tối tranh sáng như buổi chiều hôm nhiều mây. Bóng đèn duy nhất của chiếc đèn chân đế bên cạnh chiếc sofa cũng không bật sáng. Một bình hoa bằng thủy tinh đựng hoa lay-ơn đặt trên bàn cà phê phía trước sofa. Hoa còn tươi, như thể vừa mới cắt vài phút trước, nước trong bình vẫn trong. Ở phòng này không nghe thấy tiếng nhạc, cũng chẳng có bức tranh hay cái đồng hồ nào ở trên tường.

Gã thanh niên lại im lặng ra dấu, lần này để bảo tôi ngồi xuống sofa. Khi tôi đã ngồi như y bảo, y liền lấy trong túi quần ra cái gì đó trông như cặp kính bơi rồi giương ra trước mắt tôi. Đó đúng là cặp kính bơi, chỉ là kính bơi thông thường làm bằng cao su và nhựa, y như những cặp kính tôi vẫn dùng khi đi bơi. Tại sao y lại mang theo vào đây, tôi chịu không hiểu.

- Đừng sợ, - gã thanh niên nói. Đúng ra, y chẳng hề "nói" gì. Y chỉ khẽ động đậy môi và cử động mấy ngón tay còn nhẹ nhàng hơn. Thế nhưng tôi vẫn hiểu hoàn toàn chính xác y định nói những gì. Tôi gật đầu.

- Xin hãy mang kính vào. Đừng tự tháo ra. Tôi sẽ tháo. Ông cũng không được xê dịch kính. Ông hiểu không?

Tôi gật.

- Nó chẳng hại gì cho ông đâu. Mọi chuyện sẽ ổn. Đừng lo.

Tôi gật.

Gã thanh niên đi vòng lại phía sau sofa và đeo cặp kính bơi vào mắt tôi. Y kéo căng sợi dây cao su qua đầu tôi rồi điều chỉnh hai tròng kính sao cho lớp đệm mυ"ŧ khớp vào quanh hai mắt tôi. Điểm duy nhất mà cặp kính này khác với những cặp kính tôi vẫn dùng là tôi không nhìn thấy gì qua nó cả. Người ta đã phết một lớp dày cái gì đó ra ngoài lớp nhựa trong suốt. Một bóng tối hoàn toàn - và nhân tạo - vây quanh tôi. Tôi chẳng thấy gì hết. Tôi không biết cây đèn chân đế đang chiếu sáng ở chỗ nào nữa. Tôi có cái ảo giác như ai đó đã sơn lên khắp người tôi một lớp dày của cái gì đó.

Gã thanh niên khẽ đặt tay lên vai tôi như để khích lệ tôi. Y có những ngón tay thon mảnh, tinh tế, song hoàn toàn không yếu ớt chút nào. Chúng có sức mạnh đầy quyết đoán của các ngón tay một nghệ sĩ dương cầm đặt trên mặt phím, thông qua những ngón tay này tôi có thể cảm thấy một thiện chí nào đó, hoặc nếu không hẳn là thiện chí thì cũng rất gần như vậy. "Không sao cả, đừng lo", những ngón tay bảo tôi vậy. Tôi gật đầu. Đoạn y rời khỏi phòng. Trong bóng tối, tôi nghe những bước chân y xa dần, sau đó là tiếng cửa mở ra rồi đóng lại.

° ° °

Tôi tiếp tục ngồi trong tư thế đó một hồi lâu sau khi gã thanh niên đi khỏi. Bóng tối nơi tôi đang ngồi có cái gì đó thật kỳ lạ. Tối như hũ nút, không nhìn thấy bất cứ cái gì, về điểm đó thì cũng như bóng tối nơi đáy giếng kia, song ngoài ra bóng tối này có cái gì đó nữa hoàn toàn khác. Nó không có hướng, không chiều sâu, không trọng lượng, không thể nắm bắt. Nó không chỉ là bóng tối mà đúng hơn là hư vô. Đơn giản người ta đã làm tôi mù tạm thời bằng cách nhân tạo. Tôi nghe cơ bắp mình căng cứng, miệng và cổ họng tôi khô khốc. Chuyện gì sẽ còn xảy ra với tôi đây? Nhưng rồi tôi nhớ lại cái đυ.ng chạm của những ngón tay gã thanh niên. Đừng lo, chúng đã bảo tôi vậy. Chẳng hiểu vì lý do gì, tôi cảm thấy có thể tin được vào "lời nói" đó.

Căn phòng im lặng hoàn toàn đến nỗi khi nín thở, tôi bị tràn ngập bởi cảm giác rằng thế giới đã hoàn toàn ngưng lại giữa chừng và vạn vật sẽ bị nuốt chửng, chìm xuống những đáy nước sâu vĩnh viễn. Nhưng không, rõ ràng thế giới vẫn đang chuyển động. Chẳng mấy chốc một người đàn bà mở cửa, sẽ sàng bước vào phòng.

Tôi biết đó là đàn bà qua mùi nước hoa tinh tế. Đây không phải là thứ mùi của đàn ông. Hẳn đó là loại nước hoa đắt tiền. Mùi thơm có vẻ quen thuộc, tôi cố nhớ ra nhưng không được. Dường như khi đã bị tước đi thị giác thì khả năng ngửi của tôi cũng bị mất thăng bằng. Điều duy nhất tôi biết chắc, ấy là mùi thơm tôi đang ngửi thấy lúc này khác với mùi nước hoa của người đàn bà ăn mặc đẹp đẽ đã chỉ cho tôi đến đây. Tôi nghe tiếng sột soạt của quần áo người đàn bà khi cô ta bước ngang qua phòng rồi se sẽ ngồi xuống sofa, bên phải tôi. Cô ta ngồi xuống đệm sofa hết sức nhẹ nhàng, gần như không trọng lượng, rõ ràng đấy là một phụ nữ có thân hình bé nhỏ.