- 🏠 Home
- Phương Tây
- Trinh Thám
- Bảy Phụ Quốc
- Chương 4: Jon
Bảy Phụ Quốc
Chương 4: Jon
Một ngọn đồi đơn độc và trơ trọi nhô lên giữa những tán cây rừng rậm rạp. Từ cách xa hàng dặm có thể trông thấy đỉnh đồi lộng gió. Những người lính biệt kích kể rằng, dân du mục gọi đó là Nắm Đấm của Tiền Nhân. Với Jon Snow, trông nó quả thực giống một nắm tay vươn thẳng lên từ mặt đất và các tán cây, những triền đồi đất nâu được điểm xuyết với những đốt tay bằng đá.
Cậu cưỡi ngựa lêи đỉиɦ đồi với tướng Mormont và các chỉ huy khác, để Bóng Ma ở lại dưới những gốc cây. Con sói đã ba lần chạy đi khi đoàn người đang leo lêи đỉиɦ đồi, và hai lần nó miễn cưỡng quay lại khi nghe tiếng huýt sáo của Jon. Tuy nhiên đến lần thứ ba, vị tướng chỉ huy đã không còn đủ kiên nhẫn nữa khi phải hét lên, “Để nó đi đi, nhóc. Ta muốn lên tới đỉnh trước khi trời tối. Chúng ta sẽ tìm con sói sau.”
Đường lên đồi dốc đứng và lởm chởm, những tảng đá lộn xộn trên đỉnh đồi xếp thành hình chiếc vương miện cao đến ngang ngực. Họ phải đi vòng một đoạn về hướng tây mới tìm thấy một khoảng trống đủ lớn để những con ngựa lách vào.
“Chỗ này tốt đấy, Thoren,” Gấu Già tuyên bố khi cuối cùng họ cũng lên tới đỉnh đồi. “Chúng ta không thể hy vọng điều gì tốt hơn được nữa. Chúng ta sẽ cắm trại ở đây và đợi Cụt Tay.” Tướng chỉ huy nhảy xuống ngựa và đuổi con quạ trên vai đi. Con chim kêu quác quác và bay vào không trung.
Quang cảnh nhìn từ đỉnh đồi thật hùng tráng, nhưng điểm khiến Jon chú ý chính là bức tường tròn hình chiếc vương miện với những viên đá xám mòn vẹt vì mưa gió, bên trên là những mảng địa y trắng và từng chùm rêu xanh. Người ta nói Nắm Đấm từng là pháo đài của Tiền Nhân trong Thời Kỳ Hồng Hoang. “Một nơi cổ kính và kiên cố,” Thoren Smallwood nói.
“Cổ kính,” con quạ của Mormont nhại inh ỏi khi nó đập cánh bay vòng vòng trên đầu họ. “Cổ kính, cổ kính, cổ kính.”
“Im lặng,” Mormont quát con chim. Niềm kiêu hãnh của Gấu Già quá lớn để thừa nhận khuyết điểm, nhưng Jon không dễ bị qua mắt. Sự căng thẳng khi phải cố gắng theo kịp những người trẻ tuổi cũng có cái giá của nó.
“Ở độ cao này chúng ta sẽ dễ dàng phòng ngự, nếu cần thiết,” Thoren nói khi đang dắt ngựa đi quanh vòng tròn bằng đá, chiếc áo choàng trang trí lông chồn của ông bay bay trong gió.
“Đúng vậy.” Gấu Già giơ một tay lên trước gió, và con quạ đậu lên cẳng tay ông, những móng vuốt quặp vào chiếc áo giáp xích của ông.
“Thế còn nước thì sao, thưa ngài?” Jon hỏi.
“Chúng ta vừa đi qua một con suối dưới chân đồi đó.”
“Một quãng đường quá xa để uống nước,” Jon ngần ngại, “và nó ở bên ngoài vòng tròn đá.”
Thoren nói, “Cậu lười đến nỗi không leo nổi một quả đồi hay sao, nhóc?”
“Chúng ta khó tìm được nơi nào kiên cố như thế này. Chúng ta sẽ đem nước lên, và đảm bảo mọi người đều có đủ nước,” tướng Mormont lên tiếng. Lúc này, Jon biết tốt hơn hết cậu nên dừng tranh luận. Lệnh đã được ban và các anh em trong Đội Tuần Đêm bắt đầu dựng trại bên trong vòng tròn bằng đá mà Tiền Nhân đã tạo ra. Những chiếc lều đen mọc lên như nấm sau mưa, chăn và túi ngủ cũng phủ kín trên mặt đất. Những người phục vụ buộc lũ ngựa thành một hàng dài và trông chừng khi chúng ăn và uống nước. Các lính biệt kích đem rìu đi chặt củi trong ánh sáng nhập nhoạng của buổi chiều tà để kiếm đủ gỗ đốt lửa vào ban đêm. Khoảng hai mươi người khác được phân công phát quang bụi rậm, đào nhà xí và gỡ những bọc đựng cọc sắt cứng đã được tôi qua lửa. “Chúng ta sẽ đào rãnh và đóng cọc tại mọi lối mở trên bức tường tròn trước khi trời tối,” Gấu Già ra lệnh.
Jon dựng trại cho tướng chỉ huy và chăm nom lũ ngựa xong xuôi mới trở xuống đi tìm Bóng Ma. Con sói nhanh chóng xuất hiện trong tĩnh lặng. Jon đứng dưới những gốc cây huýt sáo và cất tiếng gọi, đơn độc giữa rừng thông xanh đầy những chiếc lá rụng dưới chân, một lúc sau con sói trắng vĩ đại đã tới cạnh cậu, trông như màn sương mù xám nhạt buổi sớm.
Nhưng khi họ lên tới pháo đài trên đỉnh đồi, một lần nữa Bóng Ma lại ngần ngại. Nó thận trọng tiến lên phía trước và ngửi ngửi các hốc đá, sau đó lùi lại như không thích cái mùi vừa ngửi được cho lắm. Jon cố gắng nắm lấy gáy nó mà lôi cả người vào trong vòng tròn, một công việc không hề dễ dàng; con sói nặng ngang ngửa với Jon, và từ trước đến giờ vẫn khỏe hơn cậu. “Bóng Ma, mày làm sao vậy?” Trước đây nó không bao giờ do dự như thế. Cuối cùng Jon phải bỏ cuộc. “Tùy mày đấy,” cậu nói với con sói. “Đi săn mồi đi.” Đôi mắt đỏ dõi theo Jon khi cậu lách qua những tảng đá phủ rêu để trở lại pháo đài.
Ở đây chắc hẳn họ sẽ được an toàn. Từ trên đồi nhìn ra quang cảnh rất đẹp, các triền đồi phía tây bắc dựng đứng như vách đá, còn phía đông thoai thoải hơn một chút. Màn đêm bắt đầu buông dần, bóng tối len lỏi vào khoảng trống giữa những tán cây, linh tính của Jon cứ mỗi lúc một tăng dần. Đây là rừng ma, cậu tự nói với mình. Có thể trong đây có ma, những linh hồn của Tiền Nhân. Và đây từng là nơi ở của họ.
“Đừng cư xử giống một cậu bé như vậy chứ,” cậu tự nhủ. Trèo lêи đỉиɦ ụ đá, Jon nhìn ra xa xăm về phía mặt trời đang lặn. Cậu nhìn thấy thứ ánh sáng mờ mờ như dát vàng trên mặt sông Milkwater đang chảy về phương nam. Ở thượng nguồn đất đai khô cằn hơn, rừng rậm bị thay thế bởi một loạt những ngọn đồi trơ sỏi đá mọc cao và hoang dại về phía bắc và phía tây. Nơi chân trời, những ngọn núi trông như những cái bóng khổng lồ, xa mờ dần rồi hòa lẫn vào không gian màu xanh xám, những đỉnh núi lởm chởm như răng cưa bao phủ hoàn toàn trong tuyết. Ngay cả khi nhìn từ xa thì trông chúng vẫn khổng lồ, hoang vu và lạnh lẽo.
Xung quanh cậu, cây cối um tùm rậm rạp. Khu rừng trải dài về phía đông nam tưởng như bất tận. Những mớ rễ và cành cây tạo thành mảng tối màu xanh, đây đó điểm xuyết một vệt đỏ nơi cây gỗ lạ chen vai với những cây thông và cây tùng cổ thụ, hay một vệt vàng nơi những lá cây tán rộng chuẩn bị ngả màu. Khi gió thổi, cậu có thể nghe thấy tiếng cọt kẹt của những cành cây tuổi đời còn lớn hơn cậu. Hàng ngàn chiếc lá rung rinh, và dường như trong khoảnh khắc, cả khu rừng biến thành một mặt biển xanh thẫm với từng đợt sóng nhấp nhô, vĩnh hằng và muôn đời bí ẩn.
Bóng Ma chắc không thích phải ở một mình dưới đó, cậu nghĩ vậy. Dưới đáy biển kia có thể chứa đựng bất cứ thứ gì, chúng có thể giấu mình trong khu rừng tối, ẩn nấp bên dưới những cái cây để bò tới pháo đài tròn. Bất cứ thứ gì. Làm sao họ có thể biết được? Cậu đứng đó một hồi lâu cho đến khi mặt trời lặn hẳn đằng sau những dãy núi nhọn như răng cưa, và bóng tối bắt đầu len lỏi trong khu rừng.
“Jon?” Samwell Tarly cất tiếng gọi. “Ở dưới nhìn lên mình cũng đoán là cậu. Cậu ổn đấy chứ?”
“Cũng ổn.” Jon nhảy xuống. “Hôm nay cậu ăn uống thế nào?”
“À, rất tốt. Thật đấy.”
Jon không có ý định chia sẻ nỗi băn khoăn trong lòng với bạn mình, nhất là khi cuối cùng Samwell Tarly cũng bắt đầu tìm được dũng khí. “Gấu Già lệnh cho chúng ta đợi Qhorin Cụt Tay và những người đến từ Tháp Đêm ở đây.”
“Chỗ này có vẻ kiên cố đấy chứ,” Sam nói. “Pháo đài tròn của Tiền Nhân. Cậu có nghĩ chỗ này từng là chiến trường không?”
“Rõ ràng rồi. Tốt nhất cậu nên chuẩn bị một con quạ đi. Mormont sẽ muốn gửi thư về đấy.”
“Ước gì mình có thể cho tất cả bọn chúng về. Chúng ghét bị giam cầm lắm.”
“Cậu cũng sẽ được như vậy, nếu cậu biết bay.”
“Nếu biết bay, mình sẽ quay về Hắc Thành ăn bánh nhân thịt lợn,” Sam nói.
Jon vỗ lên vai cậu ta bằng bàn tay bị bỏng. Họ cùng nhau đi bộ về khu trại. Bếp lò đã được nhóm lên xung quanh họ. Trên đầu, những ngôi sao cũng đang dần ló rạng. Cái đuôi dài đỏ rực của Ngọn Đuốc cháy sáng như mặt trăng. Jon nghe thấy tiếng của lũ quạ trước khi nhìn thấy chúng. Một số con đang gọi tên cậu. Lũ chim chẳng hề ngại ngùng khi rủ nhau la lối om sòm.
Chúng cũng cảm nhận được điều đó. “Có lẽ mình nên quay lại chăm sóc Gấu Già,” cậu nói. “Nếu không được ăn thì ngài ấy cũng sẽ làm ầm ĩ lên như vậy đấy.”
Cậu tìm thấy Mormont đang nói chuyện cùng Thoren Smallwood và một số chỉ huy khác. “Cháu đây rồi,” ông nói bằng giọng khàn khàn. “Đem cho ta một ít rượu nóng, nếu cháu không phiền. Đêm xuống lạnh quá.”
“Vâng thưa ngài.” Jon nhóm một đám lửa, lôi từ trong kho ra một thùng rượu nhỏ, loại rượu đỏ ưa thích của Mormont, và đổ nó vào một cái ấm. Cậu treo cái ấm lên trên đống lửa rồi đi tìm những phụ gia còn lại. Gấu Già có phong cách uống rượu cay rất đặc biệt. Rất nhiều quế, rất nhiều hạt nhục đậu khấu, rất nhiều mật ong, nhưng chỉ vừa đủ chứ không nhiều hơn một giọt. Nho, hạt và quả khô là thành phần thiết yếu, nhưng không có chanh, đó là loại dị giáo kỳ quặc nhất của người miền nam. Kỳ quặc bởi dù không cho chanh vào rượu, nhưng ông thường vắt chanh vào bia để uống mỗi buổi sáng. Thức uống phải đủ nóng để người uống cảm thấy ấm lên, nhưng không được lên đến nhiệt độ sôi. Vị tướng chỉ huy đã nhấn mạnh như vậy. Và Jon trông chừng cái ấm rất cẩn thận.
Vừa làm việc, cậu vừa nghe thấy tiếng mọi người nói chuyện trong lều. Jarman Buckwell nói, “Con đường dễ nhất dẫn lên núi Frostfangs là đi dọc dòng sông Milkwater lên đến thượng nguồn. Nhưng nếu chúng ta đi theo đường đó, Rayder sẽ biết chúng ta đang tới, rõ ràng như việc mặt trời mọc vậy.”
“Đi theo Cầu Thang của Người Khổng Lồ cũng được đấy,” Ser Mallador Locke nói, “hoặc là Đèo Skirling, nếu nó thông suốt.”
Rượu đang lăn tăn trên bếp. Jon nhấc chiếc ấm lên, đổ đầy tám cốc và mang chúng vào trong lều. Gấu Già đang quan sát bản đồ phác thảo mà Sam vẽ cho ông vào đêm ở lâu đài của Craster. Ông cầm một chiếc cốc từ khay của Jon, thử một ngụm rượu và gật đầu tán thưởng. Con quạ sà xuống đậu trên cánh tay ông. “Ngô,” nó nói. “Ngô. Ngô.”
Ser Ottyn Wythers vẫy tay ra hiệu đem rượu đi. “Ta sẽ không đi sâu vào núi đâu,” giọng ông nhỏ nhẹ và mệt mỏi. “Dãy Frostfangs rất khắc nghiệt ngay cả vào mùa hè, và giờ... nếu chúng ta gặp phải một cơn bão thì...”
“Ta không có ý liều mình lên Frostfangs trừ khi đó là điều bắt buộc,” Mormont nói. “Lũ du mục cũng giống như chúng ta, không thể sống trên tuyết và đá được. Chúng sẽ xuống núi sớm thôi, và dù đội quân của chúng có lớn cỡ nào thì con đường duy nhất cũng là dọc theo sông Milkwater. Nếu vậy chúng ta cứ trấn thủ ở đây, chúng sẽ không chạy thoát khỏi tay chúng ta được.”
“Có thể chúng không muốn chạy đâu. Chúng có hàng nghìn người, và chúng ta chỉ có ba trăm khi Cụt Tay tới tiếp viện.” Ser Mallador nhận một chiếc cốc từ tay Jon.
“Nếu phải tham chiến, chúng ta không thể hy vọng có trận địa nào tốt hơn chỗ này,” Mormont tuyên bố. “Chúng ta sẽ đẩy mạnh phòng thủ. Hố ngầm, hàng rào nhọn và chông sắt sẽ được rải khắp sườn đồi, mọi lỗ thủng trên tường sẽ được bịt lại. Jarman, ta cần những tai mắt tinh tường nhất của ông để canh gác. Hãy cài họ quanh đây và dọc bờ sông để báo động khi chúng đến. Nhớ cho họ ngụy trang bằng cây cối nhé. Tốt nhất bây giờ hãy đem nước lên đây đi, nước rất cần thiết. Chúng ta sẽ đào những bể chứa nước, và có thể chúng sẽ hữu dụng về sau này.”
“Lính biệt kích của tôi...” Thoren Smallwood cất lời.
“Đội biệt kích của ông sẽ tạm thời chỉ gác phía bên này của dòng sông cho đến khi Cụt Tay tới. Sau đó chúng ta sẽ xem xét. Ta sẽ không để mất thêm người nào nữa.”
“Mance Rayder có thể hành quân cách vị trí này cả một ngày đường, và chúng ta sẽ chẳng thể nào biết được,” Smallwood phàn nàn.
“Biết chứ,” Mormont đáp. “Chúng ta có tin tức từ Craster. Dù không thích gã đó, nhưng ta không nghĩ hắn lại nói dối chúng ta trong trường hợp này.”
“Tuân lệnh.” Smallwood khiên cưỡng cáo lui. Những người khác cũng uống nốt phần rượu và đi theo, nhã nhặn hơn một chút.
“Cháu đem bữa tối cho ngài nhé?” Jon hỏi.
“Ngô,” con quạ kêu lên. Mormont không trả lời. Một lúc sau, ông chỉ nói, “Con sói của cháu được chạy nhảy thỏa thích rồi chứ?”
“Nó vẫn chưa quay trở lại.”
“Chúng ta chỉ cần chút thịt tươi là được.” Mormont sục tay vào một bao tải và cho con quạ một nắm ngô. “Cháu có nghĩ ta đã sai lầm khi để đội biệt kích quanh quẩn ở đây không?”
“Cháu đâu có quyền nhận xét, thưa ngài.”
“Cháu có quyền nếu ta hỏi cháu.”
“Nếu đội lính biệt kích chỉ quanh quẩn trong phạm vi Nắm Đấm thì cháu thấy họ chẳng hy vọng tìm được chú Benjen,” Jon thừa nhận.
“Đúng vậy.” Con quạ mổ những hạt ngô trên lòng bàn tay Gấu Già. “Hai trăm người hay mười nghìn người, đất nước này quá rộng lớn.” Nắm ngô đã hết, Mormont úp bàn tay xuống.
“Ngài sẽ không từ bỏ việc tìm kiếm chứ?”
“Maester Aemon nghĩ cháu rất thông minh đấy.” Mormont đặt con quạ lên vai ông. Con quạ nghiêng đầu qua một bên, đôi mắt nhỏ xíu của nó sáng lên lấp lánh.
Câu trả lời nằm ở đó. “Cháu... cháu thấy có lẽ một người đi tìm hai trăm người sẽ dễ dàng hơn so với hai trăm người đi tìm một người.”
Con quạ ré lên thất thanh, nhưng Gấu Già chỉ mỉm cười qua hàng râu xám. “Bằng này người và ngựa để lại những dấu vết mà ngay cả một ông già mù lòa như Aemon cũng có thể dõi theo. Trên ngọn đồi này, lửa chúng ta đốt có thể bị phát hiện từ chân dãy Frostfangs. Nếu Ben Stark còn sống và được tự do, ông ấy sẽ đến tìm chúng ta, ta tin như là như vậy.”
“Vâng,” Jon nói, “nhưng nếu...”
“...nếu ông ấy đã chết?” Mormont hỏi nhưng không có vẻ ác ý.
Jon gật đầu, miễn cưỡng.
“Chết,” con quạ kêu lên. “Chết. Chết.”
“Dù thế nào thì ông ấy cũng sẽ đến với chúng ta,” Gấu Già nói. “Như Othor, và Jafer Flowers ấy. Ta cũng khϊếp sợ điều đó như cháu, Jon ạ, nhưng chúng ta phải chấp nhận những khả năng có thể xảy ra.”
“Chết,” con quạ lại kêu và đập cánh. Giọng của nó mỗi lúc một to và chói tai hơn. “Chết.”
Mormont vuốt bộ lông đen của nó và lấy tay che lên miệng khi bất chợt ngáp dài.
“Ta sẽ không ăn tối nữa. Một giấc ngủ sẽ tốt hơn vào lúc này. Gọi ta dậy khi bình minh nhé.”
“Vâng. Chúc ngài ngủ ngon.” Jon nhận chiếc cốc không và bước ra ngoài. Cậu nghe thấy tiếng cười từ xa vọng lại và cả tiếng sáo nghe ai oán. Một ngọn lửa sáng rực đang nổ lách tách giữa khu trại, và cậu có thể ngửi thấy mùi món canh hầm. Có thể Gấu Già không đói, nhưng Jon thì có. Cậu chậm rãi đi về phía bếp lửa.
Dywen đang cầm dao và dĩa trên tay. “Tôi hiểu khu rừng này hơn bất kỳ người sống nào, và tôi nói anh nghe, tôi có thể một mình cưỡi ngựa băng qua rừng trong đêm tối. Anh có ngửi thấy mùi gì không?”
Grenn đang nhìn anh ta chằm chằm với đôi mắt hoang dã, nhưng Edd U Sầu thì nói. “Tất cả những gì tôi ngửi thấy là mùi phân của hai trăm con ngựa. Và món hầm này. Nó có mùi tương tự, nên tôi tới để ngửi xem sao.”
“Tôi có thứ mùi tương tự của anh ngay ở đây.” Hake vỗ nhẹ con dao găm. Anh ta càu nhàu múc canh hầm từ ấm vào bát của Jon.
Món hầm đặc quánh với lúa mạch, cà rốt, và hành, thỉnh thoảng đây đó có vài sợi thịt bò muối đã được ninh nhừ.
“Anh ngửi thấy gì, Dywen?” Grenn hỏi.
Tay lính biệt kích ngậm chiếc thìa một lúc. Anh ta đã lấy bộ răng gỗ ra khỏi hàm. Khuôn mặt anh ta đầy những vết nhăn nheo, còn hai tay xương xẩu như những rễ cây khô. “Mùi đó có vẻ... umm... lạnh lẽo.”
“Đầu anh cũng làm bằng gỗ như răng của anh thôi,” Hake nói. “Chẳng có mùi gì mà lạnh lẽo cả.”
Có đấy, Jon nghĩ và nhớ lại đêm trong căn phòng của tướng chỉ huy. Nó giống mùi của sự chết chóc. Đột nhiên cậu chẳng còn thấy đói nữa. Cậu đưa bát canh hầm cho Grenn, người có vẻ đang cần thêm thức ăn cho bữa tối để giữ ấm cơ thể trong một đêm lạnh giá.
Gió thổi l*иg lộng khi cậu rời đi. Sáng sớm mai, sương giá sẽ bao phủ mặt đất, và dây thừng buộc lều sẽ đông cứng lại. Một vài mảnh gia vị còn lại dưới đáy ấm đun kêu ọc ạch. Jon thêm củi tươi vào đống lửa và đặt chiếc ấm lên trên ngọn lửa để hâm nóng rượu. Cậu uốn, vặn, rồi lại duỗi các ngón tay trong khi chờ đợi, cho đến khi bàn tay ngứa ran lên. Trong phiên trực đầu tiên, các trạm gác được dựng quanh trại. Các ngọn đuốc bập bùng dọc theo bức tường hình tròn. Đêm không trăng, nhưng hàng ngàn vì sao đang đua nhau chiếu sáng trên bầu trời.
Bỗng một âm thanh cất lên trong bóng tối, yếu ớt và xa xôi, nhưng không lẫn vào đâu được: tiếng sói tru. Tiếng hú của chúng khi trầm khi bổng, một bài ca ớn lạnh đến rùng mình, và cô đơn nữa. Nó làm cho cậu dựng tóc gáy. Bên kia đống lửa, một đôi mắt đỏ đang quan sát cậu từ trong bóng tối. Ánh sáng của ngọn lửa khiến chúng trở nên đỏ rực.
“Bóng Ma,” Jon ngạc nhiên kêu lên. “Cuối cùng mày cũng trở về à?” Sói tuyết thường đi săn cả đêm; Jon đã không hy vọng sẽ gặp lại Bóng Ma trước bình minh. “Chuyến đi săn tệ quá hay sao?” cậu hỏi. “Đây, lại đây với tao, Bóng Ma.”
Con sói đi quanh đống lửa, ngửi ngửi Jon, rồi lại ngửi ngọn gió; nó chẳng chịu đứng yên. Có vẻ lúc này nó không cần ăn.Khi những người chết bật dậy và đi lại, chính Bóng Ma đã nhận ra. Nó đã đánh thức mình, cảnh báo mình. Nóng lòng, Jon đứng lên nói. “Có gì ngoài đó à? Bóng Ma, mày đánh hơi thấy gì hay sao?” Dywen đã nói anh ta ngửi thấy sự lạnh lẽo.
Con sói nhảy lên, dừng lại, rồi ngoái nhìn phía sau. Nó muốn mình đi theo nó. Đội chiếc mũ của áo choàng lên đầu, Jon rời khỏi trại, xa rời đống lửa ấm áp, băng qua hàng ngựa nhỏ bờm xờm. Một con ngựa hí lên lo lắng khi Bóng Ma chạy qua. Jon nói vài lời trấn an và dừng lại vuốt lên mõm nó. Cậu có thể nghe thấy tiếng gió rít qua khe tường đá hình tròn. Một giọng nói cất lên. Jon bước tới và đứng dưới ánh đuốc. “Tôi phải đi lấy nước cho tướng chỉ huy.”
“Vậy thì đi đi,” tên lính gác nói. “Nhanh lên nhé.” Ẩn mình trong chiếc áo choàng đen, với chiếc mũ trùm giương lên đón gió, người lính gác cũng chẳng nhìn xem cậu có mang theo xô múc nước hay không.
Jon nghiêng người lách qua hai chiếc cọc nhỏ và sắc trong khi Bóng Ma luồn qua bên dưới. Một ngọn đuốc được cắm sâu vào một khe hở trên tường, ngọn lửa bập bùng màu cam nhạt khi những cơn gió thổi qua. Cậu với lấy nó và chui qua lỗ hổng giữa các tảng đá. Bóng Ma chạy như bay xuống chân đồi. Jon đi theo từ tốn hơn, ngọn đuốc được giơ lên trước soi đường. Những âm thanh từ trại đã mờ dần phía sau Jon. Màn đêm đen kịt, sườn đồi dốc đứng, lởm chởm đá, và rất gồ ghề. Chỉ một giây bất cẩn chắc chắn cậu sẽ vỡ mắt cá chân, hoặc là... gãy cổ. Mình đang làm gì đây? Jon tự hỏi khi đang leo xuống chân đồi.
Những thân cây vươn cao sau lưng cậu như những chiến binh với giáp bằng lá và vỏ cây, lặng lẽ dàn trận thành từng hàng, từng hàng và chỉ chờ chỉ huy ra lệnh tấn công khu đồi. Dường như tất cả toàn một màu đen... chỉ đến khi ánh đuốc của cậu quét qua chúng, Jon mới thoáng thấy một chút màu xanh lá. Cậu nghe thấy âm thanh nho nhỏ của nước chảy róc rách qua những phiến đá. Bóng Ma biến mất vào một bụi cây thấp. Jon cố gắng đuổi theo, nghe tiếng gọi của dòng suối và những chiếc lá hát ca trong gió. Cành cây vướng vào áo choàng của cậu trong khi những cành to trên đầu đan vào nhau và che hết ánh sáng của những vì sao.
Cậu tìm thấy Bóng Ma đang uống nước ở dòng suối. “Bóng Ma,” Jon gọi, “Đi theo tao. Nhanh.” Khi con sói ngẩng đầu lên, mắt nó rực đỏ và đáng sợ, nước suối chảy từ hàm của nó xuống trông như nước miếng. Có một cái gì đó hung dữ và kinh khủng ở con sói trong thời khắc ấy. Sau đó con vật quay lên, nhảy vọt qua Jon, và chạy một mạch qua những cái cây. “Bóng Ma, không, ở lại đây,” cậu hét lên, nhưng con sói chẳng thèm bận tâm. Cái bóng màu trắng gầy còm bị nuốt trọn bởi bóng tối, và Jon chỉ có hai sự lựa chọn, hoặc leo lên đồi một mình, hoặc đuổi theo.
Jon bực bội lần theo con sói, cố gắng giơ ngọn đuốc thật thấp để nhìn thấy những tảng đá nhô lên như gài bẫy, rễ cây chằng chịt như tóm lấy chân cậu, và những cái hố dễ khiến người ta bị sái chân khi bước hụt. Mặc dù cứ được vài mét Jon lại gọi Bóng Ma, nhưng ngọn gió đêm rít qua tán lá đã nuốt hết mọi âm thanh. Thật là điên rồ, cậu thầm nghĩ khi tiếp tục dấn sâu vào khu rừng. Và khi chuẩn bị quay lại, Jon nhác thấy một vệt màu trắng loáng thoáng ở phía trước về bên phải, đang di chuyển ngược về phía ngọn đồi. Cậu đuổi theo nó, miệng lầm bầm nguyền rủa.
Jon đuổi theo con sói được một phần tư vòng tròn xung quanh Nắm Đấm, rồi lại mất dấu nó một lần nữa. Cuối cùng, cậu dừng lại để thở giữa những bụi cây, những chiếc gai nhọn và những tảng đá ngổn ngang dưới chân đồi. Đằng sau ánh đuốc là bóng đêm dày đặc.
Một tiếng loạt soạt nhỏ khiến cậu quay phắt lại, Jon đi về phía có tiếng động, bước cẩn trọng giữa những tảng đá mòn và gai bụi rậm. Đằng sau một cái cây đổ, cậu lại thấy Bóng Ma một lần nữa. Con sói đang giận dữ đào bới và hất tung đất lên.
“Mày tìm thấy gì thế?” Jon hạ thấp đuốc xuống và soi thấy một đống đất tròn, mềm. Cậu nghĩ đó là một ngôi mộ. Nhưng của ai?
Cậu quỳ xuống, cắm ngọn đuốc xuống đất ở bên cạnh. Mặt đất lỏng và nhiều cát. Jon dùng tay đào đất lên. Ở đây không có tảng đá hay rễ cây nào. Dù vật kia là gì thì nó cũng vừa mới xuất hiện ở đây mà thôi. Xuống sâu khoảng sáu mươi phân, ngón tay cậu chạm vào một mảnh vải. Cậu đã nghĩ và sợ rằng đó là một cái xác, nhưng không phải. Jon ấn tay vào lớp vải và cảm thấy có những vật cứng nho nhỏ bên trong. Không có mùi gì bay lên, không có dấu hiệu của những con giòi ăn xác thối. Bóng Ma lùi lại phía sau và ngồi xuống quan sát.
Jon phủi phủi đám đất, và một bọc tròn đường kính khoảng sáu mươi phân lộ ra. Cậu dùng ngón tay ấn quanh cái bọc để đất lỏng ra. Khi chiếc bọc được kéo lên, những thứ đựng bên trong dịch chuyển và kêu loảng xoảng. Kho báu chăng? Jon nghĩ. Nhưng những hình thù đó không được giống những đồng xu cho lắm, và âm thanh cũng không phải là của kim loại.
Một đoạn dây thừng đã sờn buộc quanh chiếc bọc. Jon rút dao ra cắt sợi dây, lần tìm đầu mối của mảnh vải và mở ra. Chiếc bọc lật úp và toàn bộ những gì có bên trong rơi xuống đất, lấp lánh trong bóng tối. Cậu nhìn thấy khoảng một chục con dao, những mũi giáo hình chiếc lá và rất nhiều đầu mũi tên. Jon nhặt một lưỡi dao lên, nó nhẹ như lông hồng, đen bóng và không có cán. Ánh sáng từ ngọn đuốc chiếu dọc lưỡi dao, một đường màu da cam mảnh và sắc lẹm. Đá rồng. Thứ mà các học sĩ gọi là đá vỏ chai. Lẽ nào Bóng Ma đã phát hiện ra kho cất trữ của những đứa con rừng rậm, những vật đã bị chôn vùi ở đây hàng ngàn năm trước? Nắm Đấm của Tiền Nhân là một nơi cổ kính, chỉ có điều...
Bên dưới đám đá rồng là một chiếc tù và chiến làm từ sừng của loài bò Auroch và được nẹp bằng đồng. Jon lắc lắc để dốc đất bẩn ra ngoài, và một loạt đầu mũi tên cũng theo đó rơi ra. Cậu để chúng rơi ra hết rồi kéo một góc vải của cái bọc lau chiếc tù và. Vải được làm từ len tốt, dày, được dệt hai mặt, ẩm ướt nhưng không mục nát. Chắc chắn nó được chôn dưới đất chưa lâu. Và đó là mảnh vải tối màu. Cậu kéo một góc và giơ ra trước ánh đuốc. Không phải tối màu. Mà là màu đen.
Trước khi Jon đứng dậy và giũ đất trên tấm vải, cậu đã biết trong tay mình có gì: chiếc áo choàng đen của một người trong Đội Tuần Đêm.
- 🏠 Home
- Phương Tây
- Trinh Thám
- Bảy Phụ Quốc
- Chương 4: Jon